Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương gồm 6 bài văn mẫu lớp 9, giúp những em tham khảo, tích lũy vốn từ để hoàn thiện bài viết của mình. không những thế, những em sẽ hiểu rõ nguyên nhân dẫn tới nỗi oan khúc của Vũ Nương để viết bài cảm nhận sâu sắc hơn. Vậy mời những em cùng theo dõi bài viết dưới đây của GrabHanoi để có thêm nhiều ý tưởng mới khi viết văn:
Mục lục
- Gợi ý làm bài cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương
- Nguyên nhân dẫn tới nỗi oan khúc của Vũ Nương là gì?
- Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 1
- Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 2
- Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 3
- Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 4
- Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 5
- Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 6
Gợi ý làm bài cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương
- Vũ Nương là người vợ thuỷ chung nhưng nàng lại bị chồng nghi oan và đối xử bất công, tàn nhẫn.
- Nghe lời thơ ngây của con trẻ Trương Sinh đã nghi oan cho vợ, nhiếc mắng, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của láng giềng.
- Vũ Nương đớn đau vô cùng vì tiết giá của mình bị nghi kị, bôi bẩn bởi chính người chồng mà mình yêu thương.
- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm tới cái chết để giải nỗi oan ức, thoát khỏi cuộc thế đầy khổ cực, oan trái ý nghĩa cho câu chuyện
- Phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với nhiều sự bất công (trọng nam khinh nữ, phân hóa giàu nghèo, chiến tranh phi nghĩa,…).
- Khắc họa rõ nét bức tranh về cuộc thế – số phận của người phụ nữ thời kì đó, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Thể hiện sự trân trọng của nhà văn đối với những ước mơ chính đáng, khát vọng cao đẹp như: khát vọng được hạnh phúc, ước mơ về sự công bằng trong xã hội, …
- Thể hiện niềm xót thương, thông cảm sâu sắc của tác giả đối với số phận của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
- Lên án, phê phán, tố cáo xã hội phong kiến đã giày đạp lên quyền sống của con người.
- Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ thông qua nhân vật Vũ Nương.
Nguyên nhân dẫn tới nỗi oan khúc của Vũ Nương là gì?
– Nguyên nhân trực tiếp:
Bạn Đang Xem: Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương (6 mẫu)
- Lời nói thơ ngây của bé Đản đã vô tình gây nên mối hiểu lầm của Trương Sinh.
- Nguyên nhân đáng trách nhất để dẫn tới cái chết oan khúc của Vũ Nương đó là tính cách đa nghi, ít học của Trương Sinh. Khi nghe lời nói thơ ngây của con trẻ, chàng chẳng thèm suy xét đúng sai hay lắng tai những lời phân trần mà vội vàng kết tội vợ mình. Chính sự hồ đồ, độc đoán, tệ bạc này của Trương Sinh là nguyên nhân quan trọng nhất đẩy Vũ Nương tới đường cùng không lối thoát. nếu như Trương Sinh là một người tỉnh táo và biết lắng tai, suy xét, có nhẽ thảm kịch này sẽ không xảy ra.
– Nguyên nhân gián tiếp:
- Do chế độ nam quyền độc đoán, một xã hội mà nam nữ không đồng đẳng, hôn nhân không có tình yêu và tự do.
- Do chiến tranh phong kiến phi nghĩa.
Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 1
Hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa là đề tài của rất nhiều những tác phẩm văn học trung đại và đó cũng là nguồn cảm hứng trong sự nghiệp văn học của Nguyễn Dữ. Là nhà văn với trái tim giàu lòng nhân hậu đã viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương” để làm vượt bậc lên vẻ đẹp của Vũ Nương thông qua thảm kịch cuộc thế của chính người phụ nữ này. Nguyễn Dữ, thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như đồng cảm với những xấu số mà cuộc thế họ phải hứng chịu. Ta có thể cảm nhận rõ điều này trong 3 lời thoại của Vũ Nương khi bị chồng nghi oan, đánh đuổi và trước khi tự tử xuống sông Hoàng Giang của nàng.
“Chuyện người con gái Nam Xương” dựa trên chuyện kể “Vợ chàng Trương” với nhân vật chính là Vũ Nương. Cô là một người phụ nữ tiết hạnh, khát khao trong mình một cuộc sống yên bình, hạnh phúc nhưng lại bị lâm vào thảm kịch cuộc thế là người chồng nghi ngờ, vu vạ là không giữ đạo làm vợ. Nàng đã tìm hết cách này tới cách khác để chứng minh, giãi bày nhưng tất cả vô nghĩa. Không còn cách nào khác, Vũ Nương đã lựa chọn trục đường tự kết liễu đời mình rửa oan cho chính mình.
Truyện ngắn với cách xây dựng cốt truyện tập trung vào nhân vật Vũ Nương. Tạo tình huống đặc sắc, bất thần, mô tả nhân vật thông qua lời nói và hành động để bộc lộ tính cách. Sử dụng những câu văn biền ngẫu mang tính ước lệ cùng với yếu tố hiện thực phối hợp với hoang đường kì ảo. Sự hòa quyện giữa tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca; lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động đã góp phần khắc họa nhân vật Vũ Nương người phụ nữ đẹp người đẹp nết nhưng có số phận xấu số của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Ta thấy ở Vũ Nương tập trung những phẩm chất cao quý truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng xứng đáng thừa hưởng cuộc sống hạnh phúc. Thế nhưng thực tế oan trái đã đẩy nàng vào tình cảnh xấu số, trớ trêu, oan khúc. Nàng vốn dĩ là một người phụ nữ rất mực thuỷ chung, vậy mà bây giờ đây lại bị nghi oan thất tiết. Chỉ vì lời nói vô tình thơ ngây của con trẻ mà Vũ Nương bị chồng ruồng rẫy, hắt hủi, đánh đập đuổi đi, bị gán cho tội nhục nhã nhất đối với tiết hạnh của người phụ nữ.
Khi chồng đi lính về, những tưởng gia đình đoàn viên, kết thúc cảnh chia cách thì bé Đản lại không nhận cha và nói những lời thơ ngây của một đứa trẻ con kể lại với Trương Sinh rằng tối nào cha Đản cũng tới, Vũ Nương đi đâu thì người đàn ông đó thì theo và cũng chưa từng bế Đản. Vốn có tính hay ghen, nghe được những lời nói này Trương Sinh đã một mực khẳng định Vũ Nương đã thất tiết. bởi vậy, khi về tới nhà, chàng đã: “la um lên cho lại gan”.
Vũ Nương không hiểu chuyện gì, nàng hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình khi nói tới thân phận mình, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trăng: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin thanh minh để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng đã nói tới thân phận, tình nghĩa vợ chồng, khẳng định tấm lòng thuỷ chung trong trắng, xin chồng đừng nghi oan. Xa chồng, Vũ nương “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” sắt son, chung thủy! Trước sự nghi ngờ vô cớ của chồng, nàng không một câu trách móc, vẫn luôn giữ đúng phụ đạo, nhỏ nhẹ giãi bày, một lòng mong muốn chồng thông hiểu, muốn tìm rõ nguyên nhân. Từ khi về nhà chồng, nàng nhất mực tuân theo những lễ giáo phong kiến “Xuất giá tòng phu”, nàng rất mực chăm lo cho chồng và gia đình nhà chồng, là một người vợ hiền, dâu thảo, một người mẹ đảm đang, yêu con, thương con. Dung, ngôn, hạnh của Vũ Nương đã chứng tỏ nàng thực là một người nữ giới theo đúng chuẩn mực của Nho gia. Nhưng khốn nỗi Trương Sinh không nghe. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan, nhiệt tình tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng làm vượt bậc lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ giàu lòng tự trọng- Vũ Nương.
Thế nhưng, nàng vẫn bị chồng mình “nhiếc mắng và đánh đuổi”. Trương Sinh chỉ lấy chuyện xa xăm này nọ mà nhiếc mắng nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng thôn ấp bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng đớn đau thất vọng khi không hiểu sao mình bị nghi oan, bị đối xử bất công: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đầu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Sự vô vọng tới cùng cực khi khát khao của cả đời nàng vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả nỗi khổ cực chờ chồng tới hoá đá như trước đây cũng không còn có thể làm được nữa. Sự chối bỏ của người chồng chính là nỗi xấu số lớn nhất của người phụ nữ. Sự chối bỏ ấy minh chứng cho tất cả, sự không tin tưởng, không yêu thương, tin tưởng vợ. Và còn gì đau xót hơn nỗi xấu số ấy đối với một người phụ nữ dành cả cuộc thế chăm lo cho chồng con cũng như cả nhà nhà chồng. Lễ giáo phong kiến với những hủ tục bất công đã khiến người phụ nữ không được coi trọng trong xã hội, tới hạnh phúc tư nhân cũng không được tự do lựa lựa chọn. Sự bất công trong xã hội phong kiến còn được thể hiện ở sự độc đoán của người chồng, toàn quyền quyết định mọi việc trong nhà, nghỉ oan cho vợ nhưng lại không nói thẳng cho vợ, cũng không nghe vợ thanh minh mà cứ vậy đánh đập rồi đuổi vợ đi.
Chồng khăng khăng lên án vợ mà không chịu nghe nàng thân oan lấy một lời. Thái độ khinh bỉ, lời nói nhục mạ và hành động tàn bạo của Trương Sinh khiến nàng phải tìm tới cái chết. Uất ức, tủi nhục, Vũ Nương đã lựa chọn cái chết để khẳng định phẩm giá trong sạch của mình. Trước khi chết, nàng nguyện: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược ưng ý chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. sau hết, Vũ Nương đã trẫm mình xuống sông tự tử, hành động quyết liệt này thể hiện mong muốn giữ gìn phẩm giá, tiết hạnh và danh dự của người phụ nữ. Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khúc và tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất vọng tới tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan nên tự đẩy tới chỗ tận cùng là cái chết. Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi khổ cực chờ chồng tới thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa. Nàng có thể hi sinh tất cả, chịu nhường nhịn vì chồng vì con chứ thà chết không mang nỗi nhục này. Nàng chết đi để lương tâm thảnh thơi để bản thân trong sạch để không phải hổ thẹn với lòng với người. những người phụ nữ nhỏ bé, không thể làm chủ cuộc sống của mình mà phải chịu biết bao phong ba bão táp, phó mặc cuộc thế của mình cho người khác. Chi tiết Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang là hình ảnh có sức sợ hãi lớn, khiến cho người đời mãi mãi xót xa về tấm thảm kịch đẫm đầy nước mắt của người phụ nữ tốt đẹp nhưng chịu nhiều oan ức, là tấn thảm kịch cái đẹp bị giày đạp, bị rẻ rúng, bị vùi dập không tiếc thương, là bản án gang thép tố cáo gương mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời.
Để cho Vũ Nương tìm tới cái chết là tìm tới giải pháp tiêu cực nhất. Nhưng nhường nhịn như đó là cách thoát khỏi tình cảnh duy nhất của nàng. Đó cũng là cách duy nhất của nhà văn có thể lựa lựa chọn. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Bởi đối với nàng, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống.
thảm kịch của Vũ Nương đem tới bài học thấm thía về việc giữ gìn hạnh phúc gia đình. Nó là lời cảnh tỉnh đối với người phụ nữ khi gia đình xảy ra tranh chấp. Dù có chuyện gì xảy ra cũng phải tĩnh tâm, nhẫn nại và nhìn nhận vấn đề theo chiều hướng tích cực. Đã có rất nhiều gợi mở để tránh cái chết cho Vũ Nương. Thế nhưng, vì lòng tự trọng, nàng đã không hề nhìn thấy.
Câu chuyện diễn biến tương đối đơn thuần. Cốt truyện không có gì mới so với những câu chuyện đương thời. Với nhà văn Nguyễn Dữ không chỉ thành công ở thể truyền kì mà là người có trái tim nhân đạo ông thanh minh lòng cảm thương cho số phận Vũ Nương bằng cách sử dụng những lời văn hay nhất để ngợi ca vẻ đẹp của nàng. Đó cũng chính là sự đóng góp thành công cho tác phẩm.
Tác phẩm phối hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa tiếng nói nhân vật và tiếng nói tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là “thiên cổ kỳ bút”, là “áng văn hay của bậc đại gia”, tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới tác động của sáng tác dân gian.
Đọc truyện, càng suy ngẫm, chúng ta càng thương Vũ Nương, người phụ nữ đảm đang, chung thuỷ và càng giận cái xã hội đã gián tiếp gây ra tai hoạ cho nàng. Cảm ơn tác giả đã cho chúng ta hiểu phần nào về hoàn cảnh xã hội và con người của một thời trong quá khứ. Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi nước mắt người Việt Nam trong suốt mấy trăm năm qua chính là thế, phát động trong ta sự cảm thương, trân trọng và tôn quý những con người phụ nữ tốt đẹp mà được nhận được hạnh phúc xứng đáng.
Xem thêm: Top 15+ mẫu Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn nhất
Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 2
Xem Thêm : Nghị luận xã hội về văn hóa xếp hàng của người Việt Nam
“Chuyện người con gái Nam Xương” rút trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16. Một tuyệt bút văn học cổ được ngợi ca là “thiên cổ kì bút”.
Truyện kể lại một câu chuyện truyền kì có rất nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền trong dân gian về thảm kịch gia đình ở Nam Xương có dòng sông Hoàng Giang vào cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15, một thời tao loạn, đầy biến động. Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc phận đáng thương đó có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho tiết hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình “kẻ khó”, nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có tiết hạnh: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú “mến vì dung hạnh” đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, hiền từ, biết chồng có tính “đa nghi”, nàng đã “giữ gìn mực thước” không để xảy ra cảnh vợ chồng phải “thất hòa”, sống giữa thời tao loạn Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng “được hai chữ bình yên”: nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ… Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa vắng, Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “… mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng thương nhớ đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời tao loạn xưa nay:
… “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa thông cảm với nỗi khổ cực của Vũ Nương, vừa ngợi ca tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa con trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng “hết sức thuốc thang”, “ngọt ngào khôn khéo khuyên nhủ”. Vừa thờ tự mẹ già, vừa săn sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã “hết lời thương xót”, việc ma chay tế lễ được toan tính, tổ chức rất chu đáo “như đối với cha mẹ đẻ mình”. từ đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền hiền từ. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Qua năm sau, “việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về. Thế nhưng, Vũ Nương không thừa hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua mồm đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã “nhiếc mắng” và “đánh đuổi đi”. Vốn là một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời “thanh minh” của vợ, mọi sự “biện bạch” của họ hàng thôn ấp. Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào thảm kịch, bị vu vạ là người vợ “mất nết hư ân”. Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ “đoan trang giữ tiết, sáng tỏ gìn lòng”, mãi mãi soi tỏ với dời “vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ”. thảm kịch Vũ Nương là thảm kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh tao loạn đã gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại tới kia kìa !”. Lúc bấy giờ Trương Sinh “mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi . Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc phận khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con “rày xin chén nước cho người thác oan” (Truyện Kiều).
Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh tới kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết mổ thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết trôi, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc phận… yên phận hẩm hiu, và có trị giá tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp không thể trở về nhân gian được nữa” đã làm cho trị giá nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được thân oan và giải tỏa nhưng âm – dương đã đôi đường cách trở, nàng không thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc phận. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc thế oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường nhưng áng văn “Chuyện người con gái Nam Xương” giàu trị giá nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một tiêu biểu cho thảm kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài “Lại bài viếng Vũ Thị”:
… “Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
tẩy oan chẳng lọ mấy đàn tràng…”
Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 3
Trong thời kì được coi là mục nát nhất, suy sụp nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, thời Trịnh – Nguyễn phân tranh, đã có rất những nhà văn, thi sĩ đại tài nhưng lại bất mãn với thời cuộc chiến tranh tao loạn mà về ở ẩn – Nguyễn Dữ là một trong số những người tương tự.
Sinh trưởng trong gia đình có dòng dõi làm quan, ông sớm được trọng dụng ở thời Mạc rồi thời Lê. Nhưng ông đã cáo quan, lấy cớ nuôi mẹ, về ở ẩn nơi núi rừng Thanh Hóa. Tác phẩm thành công nhất mà cũng là duy nhất của ông là tập “Truyền kì mạn lục” (Sao chép tản mạn những chuyện lạ). “Chuyện người con gái Nam Xương” được trích từ tuyệt bút này. Truyện kể về về số phận oan trái của một người phụ nữ có nhan sắc, có tiết hạnh dưới chế độ phong kiến, chỉ vì một lời nói thơ ngây của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy tới bước đường cùng, phải kết liễu cuộc thế mình để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Đó là số phận, hình ảnh của Vũ Nương – một nhân vật chịu nhiều oan trái.
Vũ Nương là con nhà nghèo, một phụ nữ bình dân. Người đã được giới thiệu trong truyện “tính tình đã thùy mị nết na lại thêm tư duy tốt đẹp. Còn chồng nàng, Trương Sinh, là một người đa nghi, con nhà giàu, ít học. Chính những tính nết này đã đẩy Vũ Nương vào thảm kịch.
Nguyễn Dữ đã tập trung khắc họa vẻ đẹp tiết hạnh của Vũ Nương trong những mối quan hệ với chồng, với mẹ chồng và với bé Đản – đứa con yêu quý của nàng. Để làm vượt bậc nàng, nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào những hoàn cảnh, tình huống đặc biệt. Nàng là một người vợ thủy chung, rất mực yêu thương chồng. Khi mới lấy chồng, Vũ Nương cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn mực thước, nên cho dù Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức nhưng gia đình vẫn luôn êm ấm thuận hòa. Khi tiễn chồng đi lính, nàng không trông mong vinh hiển, chỉ cầu mong chồng được bình yên trở về: “Chàng đi chuyến này … mang theo hai chữ bình yên thế là đủ”. Nàng rất thông cảm với nỗi vất vả gian lao mà chồng nàng sẽ phải chịu đựng nơi trận mạc. Nàng đã nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình – những lời nói ân tình đằm thắm này của nàng khi tiễn chồng đã làm cho người đọc xúc động. Khi Trương Sinh đi chiến trường, xa chồng, Vũ Nương càng tỏ rõ là người vợ thủy chung, yêu chồng rất mực. Mỗi khi thấy bướm lượn đầu mùa – cảnh vui mùa xuân hay mây che hình núi – cảnh buồn mùa đông, nàng lại chạnh nỗi nhớ nhung da diết, thổn thức tâm tình. Tiết hạnh đó của Vũ Nương cũng được khẳng định lại trong câu nói với chồng: “ … cách biệt 3 năm, giữ trọn một tiết, tô son điểm phấn, từng đã nguôi lòng…”. Nàng còn là một người con dâu hiếu thảo với mẹ chồng. Trong lúc chồng đi vắng, nàng đã sinh con. Một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm lo săn sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm, nàng đã nhiệt tình săn sóc, lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khuyên đơn. Khi mẹ chồng mất, nàng lo ma chay, tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăn trối của mẹ chồng đã ghi nhận công lao của Vũ Nương với gia đình nhà chồng. Vũ Nương đã làm tròn nghĩa vụ của một người mẹ rất mực yêu thương con. Khi chồng đi lính, nàng đã sinh con một mình, dành hết tình yêu thương cho bé Đản. Nàng đã yêu con bằng cả phần người cha cộng lại. Nàng còn chỉ bóng của mình trên tường để dỗ con vì thương con thiếu vắng tình cha. Nàng là một người phụ nữ trọng phẩm giá và tình nghĩa. Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói lên thân phận mình, nói tới tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Nàng đã tìm mọi cách để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương đã lựa chọn cái chết để tự thân oan cho mình, để bảo vệ phẩm giá của người phụ nữ. Tìm tới cái chết là tìm tới giải pháp tiêu cực nhưng đó là giải pháp duy nhất của Vũ Nương. Lời than của nàng là một lời thề nguyện: “Xin thần sông chứng giám…”. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Đối với người phụ nữ xấu số ấy, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống. Vũ Nương còn là một người phụ nữ rất coi trọng tình nghĩa. Dù thương nhớ về quê hương song nàng quyết giữ lời hứa với Linh Phi.
Vũ Nương quả là một người phụ nữ lí tưởng: xinh đẹp, nết na, đảm đang, hiếu thuận, thủy chung,… Một con người như thế đúng ra phải thừa hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đớn đau. Nàng phải chịu nỗi kỉ oan, bị chồng nghi oan là thất tiết, bị đối xử bất công, tàn nhẫn tới mức nàng phải tìm tới cái chết để giải tỏ tấm lòng mình. Nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Vũ Nương là từ chiếc bóng trên vách và lời nói của bé Đản. Nhưng nguyên nhân sâu xa trước hết là từ người chồng đa nghi và thô bạo. Trương Sinh được giới thiệu từ đầu là một người “có tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức” và là con nhà hào phú nhưng không có học. Đó chính là mầm mống của thảm kịch. Tiếp theo đó là sự xử sự hồ đồ, độc đoán, phũ phàng của Trương Sinh khi ghen tuông mù quáng. Trương Sinh đã phớt lờ tất cả những thời cơ để tránh được thảm kịch và nhiếc mắng, đuổi đánh Vũ Nương đi. Nguyên nhân tiếp theo là lễ giáo phong kiến khắc nghiệt, không chấp nhận sự lầm lỡ của người phụ nữ, coi người phụ nữ không giữ được tiết hạnh là mắc vào điều ô nhục nhất. Tất cả những cái đó đã bức tử Vũ Nương, khiến nàng phải chết. Vũ Nương chính là một nạn nhân của xã hội phong kiến.
Cuộc sống của Vũ Nương dưới thủy cung kết thúc có hậu hay không – phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện. Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống sung sướng, hạnh phúc dưới thủy cung, đặc biệt là chi tiết kết thúc tác phẩm: “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa, đứng ở giữa dòng, theo sau có tới 50 chiếc xe cờ, võng, lọng, rực rỡ dòng sông, lúc ẩn lúc hiện”. Sự hiện diện đẹp đẽ của Vũ Nương chứng tỏ nàng vô tội và ở toàn cầu ấy, nàng đã được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Chi tiết cuối truyện góp phần làm hoàn chỉnh thêm tư cách của Vũ Nương: “ Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp không thể trở về nhân gian được nữa…”. Nó góp phần tạo nên kết thúc phần nào có hậu thể hiện ước mơ của con người về sự bất tử, về cái đẹp, cái thiện, thể hiện lòng khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là phụ nữ. Tuy nhiên, nó không làm giảm đi tính thảm kịch của câu chuyện. Vũ Nương và chồng con vẫn chia lìa âm dương đôi ngả. Vũ Nương chỉ hiển linh trong thoáng chốc rồi “bóng người nhoang nhoáng, mờ nhạt dần và biến đi mất”.
Hạnh phúc đã vĩnh viễn biến mất. Sương khói tẩy oan tan đi chỉ còn lại sự thực đắng cay: nỗi oan người phụ nữ không đàng tràng nào giải được. Sự hối hận của người chồng cũng không hàn gắn được gia đình. Lời từ biệt của Vũ Nương như một lời tố cáo chốn nhân gian phong kiến ngày xưa đầy oan trái, khổ đau, không chốn dung thân cho con người, đặc biệt là người phụ nữ.
Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 4
Chuyện người con gái Nam Xương là tác phẩm viết về cuộc thế và số phận của người con gái tên Vũ Thị Thiết, đó là người con gái có vẻ đẹp toàn diện cả về dung mạo lẫn phẩm chất nhưng vì một hiểu lầm không đáng có của người chồng, nàng đã phải kết thúc cuộc thế mình trong nỗi oan ức đầy thảm kịch. Đó là nỗi oan khiên sâu nặng mang tên thất tiết, mà trong xã hội phong kiến xưa , người phụ nữ thất tiết không thể tha thứ.
Xem Thêm : Nghị luận về lối sống chan hòa với mọi người (4 mẫu)
Vũ Thị Thiết là người con gái có dung mạo hơn người, hiền hậu nết na nhiệt tình vì chồng, vì con. Nàng là người vợ thủy chung son sắc, sống nặng tình nặng nghĩa vợ chồng. Ở vị thế của một người con dâu, nàng là một người con hiếu thảo nhiệt tình với mẹ chồng, nàng coi mẹ của Trương Sinh như chính mẹ ruột của mình để săn sóc, hiếu dưỡng nhiệt tình.
Tuy nhà nghèo nhưng khi mẹ ốm nàng vẫn nhiệt tình chữa chạy thuốc thang, cầu khấn trời phật, nói những lời ngọt nhạt để động viên người mẹ già yếu, lời nói của người mẹ trước khi chết đã thể hiện được tấm lòng người con của Vũ Thị Thiết “…xanh kia sẽ chẳng phụ con như con chẳng phụ mẹ”, đó là lời nhận xét nhưng cũng chính là lời cầu chúc cho tương lai tươi sáng của Vũ Nương và Trương Sinh. Tuy nhiên, cuộc sống lại không như mong muốn, khi Trương Sinh trở về, vì một lời nói thơ ngây của đứa con nhỏ mà chàng một mực khẳng định vợ thất tiết, không chung thủy để rồi gây ra nỗi oan khúc khôn nguôi cho Vũ Nương.
Ở địa vị của một người mẹ, Vũ Nương là một người mẹ thương con, vì không muốn con cảm thấy thua thiệt vì không nhận được sự săn sóc của người cha mà Vũ Nương đã chỉ vào bóng mình và nói đó chính là cha của đứa bé. Vì còn nhỏ nên cậu bé thơ ngây đã không hiểu và nói với Trương Sinh rằng cha bé tối nào cũng tới. Lời nói vừa châm lên ngọn lửa ghen tuông mù quáng của Trương Sinh.
Nỗi oan của Vũ Nương là nỗi oan của người vợ thủy chung bị nghi ngờ hư hỏng, thất tiết. Đây là một tội lỗi nặng nề trong xã hội phong kiến xưa, không thể được chấp nhận, không thể tha thứ. Với một con người trong sạch, ngay thẳng như Vũ Nương, đó là một nỗi oan kinh khủng. Quá bế tắc, nàng đã lựa lựa chọn cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của bản thân.
Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật được Nguyễn Dữ thể hiện thông qua việc trực tiếp giới thiệu tính cách Vũ Nương, khắc họa Vũ Nương qua hành động, lời nói, tâm trạng.
Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 5
Trong văn học Việt Nam đã có không ít tác phẩm mang tên gọi truyền kỳ hoặc có tính chất truyền kỳ song được tôn vinh là “thiên cổ kỳ bút” thì cho tới nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. Chuyện người con gái Nam Xương được rút trong tập những câu chuyện kỳ lạ đó. Nhân vật chính của tác phẩm là Vũ Nương đã để lại trong lòng người đọc niềm cảm thương sâu sắc. Tác phẩm là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ.Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc thế và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son.Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc thế – Đó là thú vui nghi gia nghi thất. Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “tính đã thuỳ mỵ nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp ”.
Càng đi sâu vào trong câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể hiện rõ nét. Trong những ngày đoàn viên ít ỏi, dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư xử, giữ gìn mực thước nên gia đình không khi nào phải thất hoà. Khi tiễn chồng đi lính, mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quý mà là khát khao ngày chồng về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, săn sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời ngợi ca đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào mồm của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa: “sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Người thiếu phụ tận tuỵ, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng,nuôi con: “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông, Vũ Nương là con người của gia đình, tiết hạnh của nàng là tiết hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc. Người phụ nữ dịu dàng, hiếu nghĩa, tận tuỵ và chung tình đó đúng ra phải được đền bù xứng đáng bằng một gia đình êm ấm, phúc lộc đề huề. Nhưng tai ác thay, một ngày kia chồng nàng đi chinh chiến trở về, nghe lời con trẻ đinh ninh là vợ hư, nhiếc mắng, đánh đập và đuổi nàng đi bất chấp sự can ngăn của xóm giềng và lời than rớm máu của người vợ trẻ. Không có thời cơ để thanh minh, trái tim tan nát, vô vọng bởi “bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió ”. Với nàng, cái chết là hành động quyết liệt cuối cùng cần phải có để bảo toàn danh dự. Nhịp văn dồn dập, lời văn thống thiết như cực tả nỗi niềm đồng cảm,xót thương của tác giả đối với người thiếu phụ chung tình mà bạc phận! Thương nàng ông sáng tạo ra một toàn cầu thần tiên êm đềm trong chốn làng mây cung nước để Vũ Nương được sống như một nàng tiên. Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của tác giả: người tốt sẽ được được đền bù xứng đáng, ở hiền ắt sẽ gặp lành? Điều gì đã khiến người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đó phải tìm tới cái chết bi thảm? Đó chính là do chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã làm cho gia đình phải li tán. Đó còn là lễ giáo phong kiến khắc nghiệt với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình… Để nghìn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi sợ hãi dằng dai về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc phận!
Nỗi oan ấy làm nàng đớn đau vô cùng vì “điều đâu bay buộc” mà có thể khiến tư cách trong trắng bị xúc phạm nặng nề. Những lời biện bạch trong vô vọng của nàng đã không ngăn được thảm kịch tiếp theo ắt xảy ra. nếu như như nàng được biết ai đã nói gì với chồng để giảng giải cho ngọn ngành thì nàng đã không phải tìm tới cái chết. Cái chết thể hiện sự vô vọng của nàng trong cuộc sống, thể hiện sự đớn đau của nàng khi bị chính người mình yêu thương, mong chờ nghi ngờ. Cái chết không thể là sự giải thoát như một số người nghĩ, vì nàng vẫn không được yên lòng khi để lại đứa con mới ba tuổi mà mình vô cùng yêu thương, để lại cái hạnh phúc mà mình khát khao một đời. Cái chết này còn đầy oan khúc, bởi vì trước khi chết Vũ Nương còn “ngửa mặt lên trời mà than rằng: Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ,..” và nàng đành ôm mối hận mà lao xuống sông! Người thiếu phụ xinh đẹp, tiết hạnh đã bị dẫn tới chốn đường cùng. Cái chết của nàng là một thảm kịch lớn lao.
Tuy với tấm lòng nhân hậu và bằng văn pháp truyền kì, Nguyễn Dữ đã dựng lên cảnh nàng được thân oan một cách thanh bạch, trong quang cảnh lộng lẫy, dưới sự chứng kiến của nhiều người; nhưng câu nói từ biệt chồng con của nàng cho ta thấy hai chữ “thảm kịch” chưa hề kết thúc. “Thiếp không thể trở về nhân gian được nữa” là câu nói mang đậm tính thảm kịch của đời nàng, nó chứa đựng bao nỗi ngậm ngùi, đau xót. Dù nàng có mong nhớ chồng con vô cùng, dù chồng nàng đã trông thấy lỗi lầm và muốn nàng trở về, nhưng sự thực là nàng đã chết. Sự “trở về” trong phút chốc chỉ là mộng tưởng, chỉ tô đậm thêm thảm kịch – một thảm kịch không hề kết thúc mà kéo dài mãi mãi và ngày càng đau xót!
những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến bị đẩy vào số phận bi thảm tương tự bởi chế độ phong kiến đã cho người đàn ông có quyền định đoạt mọi việc, nên người phụ nữ phải chịu biết bao điều khổ cực, oan ức và trái ngang. Vũ Nương đã bị oan mà không được giảng giải hay thanh minh; nàng luôn chung thủy nhưng lại bị vu là ngoại tình. Sự vô lí của người chồng nằm trong sự phi lí của chế độ gia trưởng phong kiến. Phi lí tới mức một cái vu vơ, vô thực, không tồn tại thực tế – cái bóng – lại trở thành nguyên nhân gây ra cái chết cho người vợ. Vũ Nương khác nào bị bức tử mà kẻ bức tử hại người lại vẫn yên ổn. Thời đó làm gì còn công lí bênh vực người lương thiện!
Cảm nhận nỗi oan khúc của Vũ Nương – Mẫu 6
Trong văn học dân gian và văn học viết của nước ta, người phụ nữ bình dân đã nêu cao những trị giá cao đẹp về đạo đức, phẩm chất. Nhưng sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, họ phải chịu nhiều khổ cực và xấu số. Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta thương Vũ Thị Thiết phải chịu nỗi oan khúc và để giải nỗi oan, nàng đã tìm tới cái tắt khá thương tâm.
Nguyễn Dữ giới thiệu với ta nhân vật Vũ Nương – một phụ nữ đẹp người, đẹp nết. Nàng có tư dung đẹp, tính tình lại hiền dịu, nết na. Khi làm vợ Trương Sinh, một người chồng có tính đa nghi, nàng vẫn giữ gìn mực thước để không xảy ra cảnh bất hòa.
Hạnh phúc chồng vợ sum vầy chưa được bao lâu, chiến tranh xảy ra, chồng phải ra trận, nàng tiễn chồng lên đường với tâm trạng khổ cực. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình, cảm động làm cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”. Nguyện vọng của nàng thật giản dị mà sâu sắc. Mấy năm chồng đi xa, ở nhà một tay nàng toan lo mọi công việc gia đình, nuôi con từ trứng nước tới khi lớn khôn. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo rất mực, khi mẹ chồng đau ốm nàng “hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên nhủ”. Khi bà cụ qua đời, nàng nhiệt tình thương xót, lo ma chay tế lễ kiêm toàn. Sự ăn ở đối xử nhiệt tình với mẹ chồng chẳng khác nào đối với cha mẹ mình vậy.
Tóm lại, Vũ Nương là một phụ nữ vẹn toàn, thể hiện được những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Con người tương tự đúng ra phải thừa hưởng hạnh phúc đầm ấm của gia đình. Chiến tranh kết thúc, chồng trở về, niềm vui chưa trọn vẹn thì thảm kịch xảy ra. Trương Sinh – một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi, hay ghen đã nghe lời đứa con thơ ngây, không dò hỏi ngọn ngành, nghi ngờ vợ mình không chung thủy. Nàng khổ cực, khóc lóc thanh minh nỗi oan với chồng nhưng Trương Sinh một mực vẫn kết tội vợ, thậm chí còn nhiếc mắng, đánh, đuổi nàng đi. Họ hàng, thôn ấp đều biện minh cho nàng nhưng cũng không thay đổi được thái độ của trường thọ. Không còn cách nào để thân oan được nữa, nàng lựa chọn cái chết để giãi bày tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Thật tội nghiệp cho Vũ Nương, ba năm trời cách biệt vẫn giữ gìn một tiết, ấy mà khi chồng trở về lại bị nghi oan, một con người phẩm hạnh như thế, lại mang tiếng nhuốc nhơ. thảm kịch bị dồn nén tới cao độ, trong tình cảnh đó, Vũ Nương chỉ có một trục đường tìm tới cái chết. Thương Vũ Nương, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
(“Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông)
Và ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy, nàng nghĩ: “thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa”. Nhưng có lúc nàng lại băn khoăn: “không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng mong muốn thiết tha trở về quê hương đoàn viên với chồng và để giải được nỗi oan. Nhưng âm dương cách biệt nàng “không thể trở về nhân gian được nữa”.
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ tiết hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều chịu chung số phận bi đát. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Vũ Nương càng làm cho ta thông cảm với những nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tác phẩm còn là tiếng nói tố cáo chiến tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều lứa đôi, gia đình. Trong một xã hội mà quyền sống con người được tôn trọng như xã hội ta ngày nay, những người phụ nữ có nhan sắc, phẩm hạnh như nàng Vũ Thị Thiết chắc chắn sẽ sống cuộc thế hạnh phúc.
Từ một câu chuyện lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tác nên một tác phẩm đặc sắc. Mặc dù có ít nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện người con gái Nam Xương” đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không phai mờ.
Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 9