Văn mẫu lớp 9: Phân tích Giá trị hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ gồm 2 dàn ý chi tiết, cùng 7 bài văn mẫu, giúp những em nhanh chóng hoàn thiện bài viết của mình. Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ được học trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 chứa đựng giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Vậy mời những em cùng theo dõi nội dung chi tiết trong bài viết dưới đây của GrabHanoi:
Mục lục
- Dàn ý phân tích Giá trị hiện thực và nhân đạo
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 1
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 2
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 3
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 4
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 5
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 6
- Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 7
Dàn ý phân tích Giá trị hiện thực và nhân đạo
Dàn ý 1
1. Mở bài
Bạn Đang Xem: Giá trí hiện thực và nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương (7 mẫu)
- Giới thiệu về tác phẩm.
- “Chuyện người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
2. Thân bài
* giá trị hiện thực:
– thảm kịch của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến:
- Xuất thân bình dân, nết na, thùy mị, “tư dung tốt đẹp”
- Chồng đi lính, một mình quán xuyến nhà cửa, lo cho mẹ chồng, cho con, mẹ chồng chết, “suy tính ma chay như cha mẹ đẻ”.
→ Người phụ nữ đẹp người đẹp nết, đại diện cho phụ nữ trong xã hội phong kiến.
- Trương Sinh vì nghe lời nói của con, nghi ngờ xa xăm vợ mình, “đánh đuổi đi”, khiến vợ rơi vào bế tắc phải tự tự để thân oan.
→ Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết lấy một người chồng vô học, đa nghi, “không tin vợ” khiến Vũ Nương phải lấy cái chết để thân oan.
– Phản ánh hiện thực xã hội bất công:
- Dung túng cho một kẻ gia trưởng, vũ phu với tư tưởng “trọng nam khinh nữ”
- Sự ghen tuông của Trương Sinh rất mù quáng, thiếu căn cứ, bỏ ngoài tai lời can ngăn của vợ, xóm làng (thiếu hiểu biết).
- Sự ghen tuông của người chồng là hệ quả của xã hội đương thời với tư tưởng lạc hậu
- Tố cáo chiến tranh phi nghĩa khiến gia đình ly tán, vợ chồng hiểu lầm, khiến cho người dân phải chết rất nhiều. “nhiều người chạy trốn ra ngoài bể, thuyền đắm, tất cả đều chết trôi hết”.
* giá trị nhân đạo:
– Khái quát về giá trị nhân đạo: Là lời thông cảm của tác giả trước những số phận khổ cực, tố cáo xã hội cũng như tìm ra một trục đường giải thoát cho nhân vật của mình.
– Trong chuyện người con gái Nam Xương:
- Tác giả trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ đương thời qua hình ảnh của Vũ Nương “tư dung tốt đẹp, hiếu thảo, …”
- Thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp “Ở hiền thì gặp lành” (Vũ Nương trở về trong võng lọng, kiệu hoa, bất tử), thể hiện ước mơ giải thoát của nhân dân đương thời
- đựng lên tiếng nói đòi quyền công bằng cho người phụ nữ xưa, đời quyền được hạnh phúc (Vũ Nương không trở về mà ở dưới cung điện của Linh phi).
- Lên tiếng tố cáo xã hội, chiến tranh phi nghĩa cướp đi hạnh phúc của con người, khiến gia định vợ chồng phải ly tán, gây ra khổ cực.
- Thể hiện niềm thông cảm với những số phận oan trái.
3. Kết bài
- Khẳng định lại vấn đề.
Dàn ý 2
I. Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Dữ: Là cây bút kỳ tài của văn học cổ Việt Nam, sống ở thế kỉ XVI, trong tình hình xã hội Việt Nam không còn ổn định. Con người, nhất là phụ nữ, phải chịu nhiều khổ cực do chế độ phong kiến bất công gây nên.
– Tác phẩm: “Truyền kì mạn lục” là một tập truyện viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ phản ánh những mặt xấu xa của chế độ phong kiến đương thời một cách có ý thức, từ đó tỏ bày thái độ của tác giả.
– “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng như nhiều truyện trong tập “Truyền kì mạn lục” có giá trị về nhiều mặt, trong đó nổi trội những giá trị hiện thực và nhân đạo cùng với nghệ thuật dựng truyện.
II. Thân bài
1. giá trị hiện thực
* Sáng tác dựa trên một câu chuyện xảy ra và được lưu truyền trong dân gian, Nguyễn Dữ muốn mượn chuyện xưa để nói chuyện nay (thế kỉ XVI, thời Nguyễn Dữ sống).
* Chiến tranh, tao loạn gây ra khổ cực cho con người: Trương Sinh ra lính, phải xa vắng mẹ già, vợ trẻ.
– Buổi chia ly thật ngậm ngùi xót xa:
- Bà mẹ dặn con: “… nhưng trong chỗ binh cách, phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy”.
- Người vợ tiễn chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.
– Trách nhiệm gánh vác gia đình: Xa con, bà mẹ nhớ con sinh ra ốm. Người vợ trẻ Vũ Thị Thiết vừa nuôi con thơ, vừa tận tình thuốc thang chữa chạy cho mẹ chồng. Nhưng không cứu nổi, mẹ chồng mất, nàng một mình lại suy tính việc ma chay.
* Lễ giáo phong kiến bất công: Người đàn ông được quyền hành tội, ruồng rẫy người phụ nữ, dẫn tới cái chết đầy oan khúc của người vợ chung thủy, hiếu nghĩa.
2. giá trị nhân đạo
Truyện đã xây dựng nên hình tượng Vũ Nương, một hình tượng phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý:
* Đảm đang: Khi chồng ra lính, Vũ Nương đã một mình: nuôi dạy con thơ, nuôi dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi ốm đau, suy tính ma chay khi mẹ chồng mất.
* Hiếu nghĩa:
– Với mẹ chồng, Vũ Nương giữ tròn chữ hiếu của người con đối với cha mẹ, thay chồng nuôi mẹ chồng, coi mẹ chồng như mẹ đẻ của mình.
– Với chồng, Vũ Nương trước sau vẫn giữ trọn vẹn tình nghĩa:
- Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn mực thước, không từng để lúc nào vợ chồng phải tới thất hòa”.
- Khi xa chồng, nàng không để xảy ra điều tai tiếng gì.
- Khi bị nghi oan, không thể giãi bày được, nàng lấy cái chết để chứng thực tình nghĩa của mình.
- Sau khi tự vẫn, được “cứu sống” (“sống” ở thủy cung), tuy cuộc sống thư thái, sung sướng, nàng vẫn nhớ tới chồng, mong được chồng biết tới nỗi oan và tẩy oan cho mình.
* Trong trắng, thủy chung: Trong suốt những năm Trương Sinh đi lính, ở nhà vừa thờ cúng mẹ già, nuôi dạy con thơ và chờ chồng trở về.
3. giá trị nghệ thuật
– Cách xây dựng tình tiết, thắt nút, gỡ nút đẩy bất thần, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó:
- Thắt nút bằng yếu tố bất thần: Một câu nói thơ ngây nghe như thật của một trẻ thơ mà gây nên bão táp trong cuộc thế vợ chồng Trương Sinh, Vũ Nương: chồng nghi kị vợ, hạnh phúc gia đình tan vỡ và cuối cùng là cái chết bi thảm của người vợ trong trắng.
- Gỡ nút cũng bằng yếu tố bất ngờ: Bấy nhiêu bão tố, thảm kịch, oan khiên bỗng được làm sáng tỏ cũng bằng một câu nói thơ ngây của một trẻ thơ (“Cha Đản lại tới kia kìa!”), hay nói cho đúng hơn là lời nói đùa của người mẹ với con khi vắng chồng.
III. Kết bài
– “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm giàu giá trị sâu sắc: giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Xem Thêm : Top 9 bài Cảm nhận khổ 2, 3 bài Viếng lăng Bác
– Vũ Nương là một hình tượng nhân vật phụ nữ tiêu biểu trong văn học Việt Nam.
Xem thêm: Tổng hợp15+ mẫu Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 1
Trong xã hội cũ, thân phận nữ nhi vẫn luôn ở mức dưới đáy của xã hội. Dù họ có tốt đẹp, có trong sáng tới mấy cũng không có quyền được sống tự do, được lợi trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc. “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã bộc bạch những niềm xót xa, đồng cảm với thân phận bọt bèo, nổi trôi của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương. giá trị nhân đạo và hiện thực mà tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc bao niềm xót thương và đồng cảm.
Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn đương thời có tấm lòng thương cảm sâu sắc với những người cùng khổ trong xã hội, đặc biệt là người phụ nữ. vì vậy, trong những áng văn của ông vẫn luôn nêu rõ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo rất sâu sắc.
Đối với “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy, Nguyễn Dữ đã dựng nên hình ảnh một người thiếu phụ xuất sắc mang tên Vũ Thị Thiết, thường gọi là Vũ Nương. Nàng vừa đẹp người lại đẹp nết. Trái tim nàng cũng thèm khát một cuộc sống bình yên và hạnh phúc nhưng sự trớ trêu và khổ hạnh vẫn luôn ập tới khi nàng sống dưới chế độ xã hội phong kiến đầy bất công. Số phận hẩm hiu và những ngang trái trong cuộc thế người thiếu phụ trẻ cũng là số phận chung của bao người phụ nữ đương thời trong xã hội ấy. Xây dựng nên nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã cho nàng tụ hội đầy đủ những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: công – dung – ngôn – hạnh. Và rồi, Vũ Nương cũng bước vào cuộc sống làm vợ, làm dâu. Vốn tính thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp, nên dù Trương Sinh – chồng nàng có đa nghi tới mấy cũng không bao giờ nàng để gia đình phải thất hòa. Không những thế, khoảng thời gian Trương Sinh đi lính đánh giặc, Vũ Nương một mình ở nhà vừa chăm con nhỏ vừa đỡ đần mẹ chồng già yếu bệnh tật. Nàng vừa là mẹ mà cũng là cha, vừa là con dâu mà cũng là con trai yên ủi mẹ già không khác gì mẹ ruột của mình. Khi bà ốm, Vũ Nương nhiệt tình săn sóc, thuốc thang, cúng bái cầu xin thần phật nhưng bà vẫn không qua khỏi. Nàng lại hết lời thương xót, làm ma chay chu đáo cho mẹ.
Vũ Nương đã tận tụy hi sinh cả tuổi xuân đang phơi phới của mình cho chồng cho con nhưng những gì nàng nhận lại được hoàn toàn trái trái lại với lẽ tự nhiên. Bởi lẽ ra nàng sẽ hạnh phúc vô cùng khi chồng bình yên từ trận mạc trở về. Nhưng tai họa đã ập tới. Trương Sinh nghe theo lời con nhỏ mà kết án vợ hư hỏng, đã thất tiết khi mình đi vắng. Chàng đánh đuổi vợ ra khỏi nhà, một mực không cho nàng giảng giải, có giảng giải chàng cũng không nghe. Vũ Nương – một người phụ nữ chân yếu tay mềm, lại sống trong xã hội phong kiến với chế độ nam quyền, nàng không thể nào minh chứng cho sự trong sạch của mình được. vạn bất đắc dĩ, Vũ Nương đã phải tìm tới cái chết. Tấm lòng thủy chung son sắt, một người con dâu hiếu thảo, một người vợ chung thủy nay đã bị chính người chồng của mình, người mà ngày đêm nàng mong nhớ, sỉ nhục nàng, làm tổn thương sâu sắc tới nàng. Không gì tủi nhục hơn khi người mà mình đã nhiệt tình thương yêu và nhung nhớ nay cầm con dao cứa thẳng vào trái tim mình. Nàng ôm đau thương và ai oán tới bến Hoàng Giang gieo mình tự vẫn. có nhẽ chỉ có cái chết mới minh chứng được sự trong sạch của nàng.
Cái chết của Vũ Nương đã một lần nữa nói lên một cách trung thực về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ luôn khát khao hạnh phúc, khát khao một tổ ấm gia đình nhưng khi sóng gió ập tới, họ không thể nào được làm chủ cuộc thế mình. Lúc ấy, chỉ có cái chết mới có thể giải thoát được họ khỏi những đau thương. từ đó, Nguyễn Dữ đã gián tiếp tái tạo lại sự bất công của xã hội cũ đã đẩy người phụ nữ vào cái chết, chết oan ức, chết bi thương.
Nhưng sau đó, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm những tình tiết ly kỳ khiến câu chuyện vừa hấp dẫn vừa mang kết thúc có hậu và thỏa đáng, khiến người đọc cũng cảm thấy được an lòng. Đây cũng chính là niềm đồng cảm và sự xót thương của tác giả với những thân phận hẩm hiu của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Sau khi chết, Vũ Nương đã được những nàng tiên cứu giúp vì bản tính tiết hạnh và phẩm giá cao quý của nàng. Chính cái chết đã giúp nàng được hồi sinh, được sống lại và thoát khỏi cảnh khổ đau, ai oán của trần gian. Nhưng nỗi oan trong lòng nàng vẫn chưa nguôi ngoai nếu như không được làm sáng tỏ. Nhân việc Phan Lang lạc vào địa hải, nàng được dịp nhờ Phan chuyển lời tới Trương Sinh lập đàn tẩy oan cho mình. Trương Sinh ban đầu vẫn nghi ngờ nhưng khi Phan đưa chiếc trâm của vợ mình ra chàng đã tin và làm theo ước muốn của nàng. Quả nhiên, Vũ Nương hiện về trên dòng sông, nàng ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau tới năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lạc rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Hình ảnh này thật đẹp, thật xứng đáng với một con người tiết hạnh như Vũ Nương. Và đó cũng chính là những gì mà nàng xứng đáng được nhận. Nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa, nỗi oan được giãi bày, được sáng tỏ, nàng đã yên lòng mà ra đi.
Câu chuyện đã kết thúc nhưng giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm đã khiến người đọc xúc động và trông thấy những ý nghĩa, những quy luật bất biến của cuộc thế: ở hiền gặp lành. Và rồi nhất định chế độ phong kiến cũ cũng sẽ tàn lụi, trả lại cuộc sống tự do và công bằng cho người phụ nữ, cho những con người cùng khổ dưới chế độ nam quyền bất công. Đồng thời, khi xây dựng lên nhân vật Vũ Nương vô cùng xuất sắc – đẹp cả người lẫn nết, nhà văn đã truyền tụng những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ truyền thống Việt Nam, từ đó ông muốn gửi tới người phụ nữ thế hệ sau một tấm gương sáng về đạo làm vợ, làm mẹ, làm con dâu hiền thảo, nết na.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 2
đớn đau thay phận nữ giới
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung.
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Từ lâu, hình ảnh những người phụ nữ với biết bao nhiêu những phẩm chất tuyệt vời như tảo tần, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, nhất mực thủy chung với chồng, với con đã đi vào thi ca nhạc họa nuôi một nguồn cảm hứng dồi dào, vô tận. Thế nhưng, trong xã hội phong kiến nam quyền độc đoán với quan niệm “trọng nam khinh nữ”, người phụ nữ đã không thể nổi tiếng được tiếng nói của riêng mình, họ đã phải chịu rất nhiều những đắng cay, bất công và ngang trái. Thấu hiểu được điều đó, Nguyễn Dữ đã thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan trái của người phụ nữ bằng việc viết lên tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”. Truyện không chỉ góp một tiếng nói tố cáo một xã hội phi nhân đã giày đạp lên số phận đáng thương của người phụ nữ mà còn từ đó truyền tụng khẳng định những vẻ đẹp về phẩm chất, tâm hồn và niềm khát khao hướng về mái ấm, hạnh phúc gia đình của họ. vì vậy, câu chuyện rất giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc.
Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ tiết hạnh, đẹp người lại đẹp nết nhưng số phận xấu số: bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có thời cơ để thân oan, giãi bày, Vũ Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc của truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất.
Trước hết, “Chuyện người con gái Nam Xương” mang đậm giá trị hiện thực sâu sắc. Một tác phẩm văn học có giá trị hiện thực khi nó phản ánh một cách trung thực những nét bản tính nhất của đời sống xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. vì vậy, từ “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã phản ánh trung thực một xã hội phong kiến bất công, gây nhiều khổ đau cho người phụ nữ. Điều này được thể hiện qua hình tượng nhân vật Trương Sinh. Có thể nói, Trương Sinh là con đẻ của xã hội Nam quyền phong kiến. Trong truyện, Trương Sinh được giới thiệu là con nhà hào phú đã “xin mẹ trăm lạng vàng cưới vợ” nhưng lại ít học, luôn có tính đa nghi, ghen tuông, cổ hủ, độc đoán thiếu bao dung với cả người vợ của mình… Và đây chính là những bản tính của xã hội phong kiến nam quyền “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” luôn đề cao người đàn ông trong gia đình và xã hội, đã dồn đẩy thân phận người nữ giới vào số phận oan trái. Đồng thời, trong xã hội ấy, chiến tranh phi nghĩa diễn ra liên miên phá tan đi hạnh phúc của biết bao gia đình, làm chảy máu và nước mắt của biết bao nhiêu người dân lương thiện, đẩy họ hoàn cảnh “cùng đường tuyệt lộ”. Trương Sinh phải đi lính, xa vắng mẹ già và người vợ mới cưới. Ở nhà, bà mẹ vì thương nhớ con mà sinh ra bệnh tật rồi mất. Mọi công việc dồn đẩy lên đôi vai nhỏ bé hao gầy của Vũ Nương. Nàng vừa phải một mình nuôi con, vừa săn sóc, thuốc thang cho mẹ chồng cho tới khi mẹ mất. Thân phận nữ nhi giờ đây lại trở thành trụ cột của gia đình. Ba năm bặt vô âm tín, Trương Sinh bỗng trở về trong niềm vui sướng của gia đình. Nhưng vì tin vào lời nói thơ ngây của bé Đản: “Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”, Trương Sinh đã một mực nghĩ rằng vợ mình thất tiết. Lễ giáo phong kiến bất công đã dung túng cho người đàn ông, cho họ những quyền hành có thể đối xử tệ bạc với người phụ nữ của mình, không cho người phụ nữ đựng lên tiếng nói phân trần, giảng giải nên đã vội vàng kết án Vũ Nương là người không đoan trinh. Để rồi nàng đành phải tự sát dưới nước sông Hoàng Giang lạnh lẽo để rửa sạch mối oan tình. Mặc dù, tới cuối truyện, Vũ Nương đã được trả lại danh dự, phẩm giá và được bất tử hóa tới muôn thuở nhưng Vũ Nương đã phải trả một cái giá quá đắt. Hạnh phúc mãi mãi tuột khỏi tầm tay. Nàng và chồng con không còn có thể sum vầy được nữa rồi. Từ nay, âm dương cách biệt, chia lìa đôi ngả. Chồng thì mất vợ, con thì mất mẹ. Cái lý mà Vũ Nương đưa ra khi không thể trở về dương gian được nữa là vì muốn cảm tạ ân đức của Linh Phi cứu giúp. Nhưng, đâu chỉ có vậy, Nguyễn Dữ muốn nói với người đọc rằng: chừng nào xã hội phong kiến còn tồn tại những bất công với người phụ nữ thì chừng đó người phụ nữ không có đất mà dung thân, còn phải tiếp tục phải chịu đọa đầy, thậm chí là phải đánh đổi cả mạng sống của mình nữa.
Không ngừng lại ở đó, “Chuyện người con gái Nam Xương” còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo khi tác phẩm đó lên án, tố cáo những thế lực xấu xa, hắc ám đã giày đạp lên số phận của con người xấu số, từ đó nhà văn thể hiện niềm cảm thương, sẻ chia sâu sắc trước những tấn thảm kịch mà họ phải trải qua, tán thành, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của con người nhân vật và chỉ ra cho họ một trục đường giải thoát.
Trước hết, thông qua cuộc thế xấu số và chịu nhiều oan khúc của Vũ Nương, nhà văn đã lên án, tố cáo một xã hội phi nhân tính, đẩy người phụ nữ vào trục đường cùng không lối thoát, cướp đi của họ quyền hạnh phúc, quyền sống và quyền được công bằng. Có thể nói, dưới cái nhìn của Nguyễn Dữ, Trương Sinh là tiêu biểu của những ác, của bạo chúa gia đình. vì vậy, Nguyễn Dữ càng thể hiện niềm xót thương cho người phụ nữ bao nhiêu thì ông lại càng căm giận, lên án bấy nhiêu sự bất công, ngang trái trong xã hội Nam quyền. Cho nên, trong lời bình ở cuối truyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại lại công bằng cho người phụ nữ bằng những câu văn rất nhẹ nhõm, thấm thía, nghiêm khắc nhắc nhở: “thương ôi! Những việc từa tựa như nhau, thật là khó tỏ mà dễ hoặc. Cho nên quăng thoi đứng dậy, tuy mẹ bậc đại hiền cũng phải phân vân, mất búa đổ ngờ tuy con người láng giềng cũng khó chối cãi, ý dĩ đầy xe, Quang Võ đổ ngờ lão tướng, “trói lại mà giết thịt”, Tào Tháo tới phụ ân nhân, việc Thị Thiết cũng giống tương tự. nếu như không được trời xét tâm thành, nước không làm hại, thì xương hoa vóc ngọc, đã chôn vào họng cá ở dưới lòng sông, còn đâu được lại thông tin tức để nết trinh thuần được nhất nhất bộc bạch ra hết. Làm người đàn ông, tưởng đừng nên để cho mĩ nhân oan uổng thế này”. Đó là những lời bình chân tình, xuất phát từ trái tim thương người xấu số, đặc biệt là người phụ nữ của nhà văn Nguyễn Dữ dành cho nhân vật của mình.
giá trị nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện ở chỗ nhà văn đã ngợi ca những vẻ đẹp vốn có của người phụ nữ Việt Nam thông qua nhân vật Vũ Nương. Đó là người phụ nữ bình dân, người phụ nữ của gia đình nhưng tiết hạnh. Nàng được giới thiệu là người con gái tính đã thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Khi mới về nhà chồng, trong cuộc sống hôn nhân gia đình, Vũ Nương luôn cư xử đúng mực thước, nhường nhịn rất đúng mực, không bao giờ để cho vợ chồng phải thất hòa. Trong buổi đưa tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy và dặn dò Trương Sinh bằng những lời nói đầy tình nghĩa, thắm thiết. Nàng không mong vinh hiển, chỉ cần chồng mang về hai chữ “bình yên”. Nàng chỉ mong muốn có được hạnh phúc. Ở nhà, Vũ Nương thương nhớ chồng da diết, nàng một mình sinh con, nuôi dạy con, vừa đóng vai trò là một nguời mẹ, lại vừa mượn bóng mình ban đêm mà làm người cha. Nàng thay chồng làm tròn phận sự, trách nhiệm của của một người con dâu hiếu thảo: săn sóc, thuốc thang, lễ bái, nhiệt tình khuyên nhủ mẹ chồng. tới khi mẹ chồng mất, nàng tổ chức ma chay tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ của mình. vì vậy, bà mẹ chồng đã viện cả trời xanh để chứng minh cho lòng hiếu thảo của cô con dâu: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.. Nhưng rồi khi chồng đi lính trở về, chỉ nghe lời con trẻ thơ ngây mà đã một mực khăng khăng nghĩ rằng nàng thất tiết, Vũ Nương đã ra sức phân trần mong mỏi chồng hiểu thấu lòng mình, tìm cách cứu vãn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Cuối cùng “cái thú vui nghi gia nghi thất” đã không còn mà chỉ thấy nay “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau chờ chồng tới hóa đá cũng không còn có thể được nữa “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nàng đã trẫm mình xuống dòng nước Hoàng Giang lạnh lẽo. Đó là hành động quyết liệt để bảo toàn danh dự, phẩm giá trong một nỗi đau vô vọng. Tóm lại, Nguyễn Dữ đã phát hiện và khẳng định những đốm sáng nhân văn tốt đẹp bên trong người phụ nữ. Ông thể hiện rõ thái độ bênh vực cho những người phụ nữ xấu số, xấu số.
Để thể hiện niềm thông cảm, sự chia sẻ, niềm xót thương với nỗi khổ đau của người phụ nữ đương thời, Nguyễn Dữ đã đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho họ bằng việc sáng tạo ra đoạn truyện dưới thủy cung, vạch ra cho người phụ nữ một trục đường giải thoát thảm kịch. Sau khi nhảy sông tuẫn tiết, nàng may mắn được Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải cứu vớt. Sau đó Vũ Nương lại gặp được Phan Lang dưới thủy cung, nàng nhờ Phan Lang đem về gửi cho Trương Sinh chiếc hoa vàng cài tóc, dặn dò: “nếu như còn nhớ tới tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn tẩy oan ở bến sông, đốt cây đèn thần dưới nước, tôi sẽ trở về”. Trương Sinh lúc này đã biết mình đổ oan cho vợ lại nghe lời Phan Lang kể liền lập đàn tràng ba ngày, ba đêm, Vũ Nương thấp thoáng hiện về trên chiếc kiệu hoa giữa dòng, võng lọng, cờ kiệu rực rỡ đầy sông. Vũ Nương nói lời đa tạ Linh Phi và tạ từ Trương Sinh rồi biến mất. Chi tiết này, không chỉ giúp hoàn thiện thêm nét đẹp tính cách của nhân vật mà còn chứng tỏ Vũ Nương vô tội. Ở toàn cầu bên kia, nàng được đối xử xứng đáng với phẩm giá của mình. Tạo nên kết thúc truyện như thế, Nguyễn Dữ đã khắc phục được ước mơ của con người về sự bất tử, sự thắng lợi của cái thiện, cái đẹp, thể hiện nỗi khát khao một cuộc sống công bằng, hạnh phúc cho những con người lương thiện, đặc biệt là người phụ nữ đương thời.
Bằng nghệ thuật kể truyện độc đáo, xen lẫn giữa hiện thực và kì ảo, giữa tình tiết đời thường với sự sáng tạo của nhà văn, Nguyễn Dữ đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Vũ Nương – người đại diện cho thảm kịch xấu số của người phụ nữ. Thông qua số phận cuộc thế đầy nước mắt của nàng, nhà văn đã mạnh dạn lên án, tố cáo một xã hội bạo tàn, phi nhân, tồn tại với rất nhiều những bất công ngang trái, dồn đẩy người phụ nữ vào đường cùng không lối thoát. Đồng thời qua câu chuyện, nhà văn đã lên tiếng đòi lại sự công bằng, hạnh phúc cho những người phụ nữ đương thời, khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp vốn có của họ. từ đó, chúng ta thấy được tấm lòng nhân đạo sâu sắc giàu tình yêu thương con người của nhà văn Nguyễn Dữ. Mặc dù, truyện đã cách xa chúng ta hàng thế kỉ nhưng những thông điệp, ý nghĩa, giá trị của truyện và hình tượng Vũ Nương mãi mãi còn vang vọng tới ngày ngày hôm nay và mãi mãi ngày mai.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 3
Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, ông là người tài giỏi, ra làm quan một thời gian, sau đó lui về ở ẩn. Cũng trong chính thời gian này ông khởi đầu sưu tầm truyện dân gian và sáng tác lại. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những truyện xuất sắc nhất của Nguyễn Dữ thể hiện sự sáng tạo mới mẻ, đặc biệt thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo.
Trước hết tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc. Tác phẩm phản ánh số phận người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ hết sức cập kênh, luôn phải phụ thuộc vào người đàn ông, khi ở nhà thì theo ý cha, lấy chồng theo lệnh chồng và kể cả khi chồng mất cũng phải theo con. Số phận họ bị trói buộc, không có thời cơ tìm hạnh phúc riêng cho mình.
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai
Nàng Vũ Nương trong tác phẩm cũng là một người phụ nữ chịu chung số phận tương tự. Lấy Trương Sinh vốn không phải do nàng chọn lựa lựa, mà bởi cha mẹ quyết định “cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Trương Sinh mến vì dung hạnh nên đã đem trăm lạng vàng cưới về. Cuộc hôn nhân của nàng cũng là cuộc hôn nhân bất đồng đẳng, có sự phân biệt giàu nghèo. Ngay từ những tín hiệu trước tiên đã dự đoán số phận xấu số của Vũ Nương. Và quả tình tất cả những gì xảy ra phía sau đó đã chứng minh cho những tiên báo kia. Chồng đi lính về nghe lời con thơ nghi oan cho vợ, Vũ Nương phải chịu nỗi oan lạ thường: thất tiết với chồng. Một người đoan trang, cương trực như Vũ Nương bỗng phải nhận nỗi oan tương tự thế tất nàng sẽ lựa chọn lựa cái chết để minh chứng cho sự trong sạch của bản thân. Cái chết của Vũ Nương là sự phản ứng quyết liệt, mạnh mẽ để bảo toàn danh dự, phẩm giá của mình. Đồng thời cái chết của nàng cũng phản ánh số phận thảm kịch bị dồn tới bước đường cùng của người phụ nữ.
Truyện còn phản ánh sự độc đoán, gia trưởng của người đàn ông trong xã hội phong kiến. Như giới thiệu của Nguyễn Dữ, Trương Sinh là kẻ ít học, tính tình lại hay ghen tuông mù quáng. Lấy được Vũ Nương là người vợ thảo hiền, chung thủy nhưng vẫn luôn ngừa quá mức. Biểu hiện rõ nhất của tính gia trưởng trong Trương Sinh ấy chính là tin lời một đứa trẻ, ruồng rẫy vợ, đẩy vợ tới cái chết. Trương Sinh không hề suy xét, không cho Vũ Nương giảng giải, chỉ một mực mắng chửi và nhất quyết đuổi nàng đi. nếu như Trương Sinh có thể tĩnh tâm hơn, nghe lời vợ trình bày, nói rõ nguyên do thì có nhẽ gia đình đã không xảy ra thảm cảnh tương tự, sẽ không dẫn tới cái chết oan trái của Vũ Nương. Có thể thấy Trương chính là kẻ hồ đồ, độc đoán, gia trưởng, là đại diện tiêu biểu cho xã hội phong kiến Nam quyền.
Ngoài ra, giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong việc lên án chiến tranh phi nghĩa xảy ra liên miên khiến gia đình phải ly tán. Hai vợ chồng lấy nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải lên đường đi lính. Chính cuộc chiến tranh này khiến mẹ phải xa con, chồng phải xa vợ, con không được lợi tình yêu thương của bố. Chính chiến tranh phi tức là đầu mối trước tiên đẩy Vũ Nương và gia đình nàng tới thảm kịch sau này. nếu như chiến tranh không xảy ra có nhẽ gia đình nàng đã được lợi cuộc sống yên ấm, hạnh phúc.
Đằng sau bức tranh hiện thực đau lòng về số phận xấu số của người phụ nữ, chế độ phong kiến Nam quyền và chiến tranh phong kiến, tác phẩm còn thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Trước hết tác phẩm đã khám phá, phát hiện và trân trọng vẻ đẹp người phụ nữ, mà đại diện ở đây là Vũ Nương. Vũ Nương là người con gái hiền dịu, nết na, thủy chung nàng hết sức giữ gìn mực thước để gia đình không chịu cảnh bất hòa. Ngày tiễn chồng ra trận điều nàng mong muốn không phải những bổng lộc, chức tước mà chỉ mong chồng mang hai chữ “bình yên trở về”. Ngay cả lúc bị Trương Sinh nghi ngờ, ruồng bỏ Vũ Nương cũng chỉ một mực sử dụng những lời lẽ tha thiết để hàn gắn tình yêu. Không chỉ vậy, nàng còn là người con dâu hiếu thảo, với mẹ chồng luôn luôn nhiệt tình săn sóc, khi mẹ ốm nàng cầu khấn thần phật, sử dụng những lời lẽ ngọt ngào mong cho mẹ nhanh chóng khỏi bệnh. tới khi bà mất nàng lo tang ma chu đáo, chẳng khác gì cha mẹ đẻ. Ngoài ra nàng còn là người giàu lòng vị tha, bị chồng đánh mắng, đuổi đi khiến mình phải tự vẫn nhưng nàng không hề oán trách. Dưới thủy cung vẫn một lòng hướng về dương gian, hướng về hạnh phúc đời thường. Khoảnh khắc gặp lại chồng, Vũ Nương không trách móc mà còn hết lời cảm tạ Trương Sinh. Lời nói ấy cho thấy Vũ Nương hoàn toàn tha thứ cho chồng. Trương Sinh đã được giải thoát khỏi nỗi hối hận, day dứt vì sự hồ đồ, hẹp hòi, tàn nhẫn của mình. Vũ Nương chính là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam.
Qua những lời lẽ mô tả, giọng điệu tha thiết ta thấy được sự cảm thương cho số phận xấu số của Vũ Nương. Niềm cảm thương đó được thể hiện rõ nhất ở chi tiết li kì sáng tạo cuối tác phẩm. Vũ Nương được Linh Phi cứu, sống cuộc thế bất tử. Chi tiết này trước hết hoàn chỉnh, đậm tô nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình nghĩa, trọng phẩm giá và đầy bao dung vị tha. Đồng thời đây cũng là chi tiết giúp khôi phục lại danh dự của nàng.
Ngoài ra tác phẩm cũng là tiếng nói lên án, tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy người phụ nữ tới bước đường cùng. Tước đoạt hạnh phúc đời thường, bình dị của họ. Tước đoạt quyền được sống của con người. Đó là tiếng nói lên án mạnh mẽ nhất, sắt đá nhất thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Dữ đối với con người mà ở đây là người phụ nữ.
Chỉ bằng một câu chuyện ngắn ngủi, những Nguyễn Dữ đã gửi gắm, truyền tải biết bao thông điệp ý nghĩa tới với độc giả. Là tiếng nói cảm thương cho số phận người phụ nữ; là sự trân trọng, nâng niu những vẻ đẹp tư cách, phẩm chất của họ. Không ngừng lại ở đó tác phẩm còn lên án xã hội phong kiến Nam quyền, chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc, thể hiện tấm lòng nhân văn cao cả của tác giả.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 4
“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện nổi trội nhất trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ. Qua tác phẩm này, tác giả đã gửi gắm tới độc giả những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.
Trước hết, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã khắc họa trung thực cuộc thế của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến:
Thân em như dải lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai.
Hay:
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu.
Chịu tác động của Nho giáo với tư tưởng “trọng nam khinh nữ” – số phận của người phụ nữ xưa vô cùng cập kênh, khổ cực. Họ không được quyền quyết định cuộc thế của bản thân mà phải phụ thuộc vào người đàn ông. Vũ Nương – một cô gái con nhà nghèo được chàng Trương Sinh vốn là con nhà hào phú cảm mến vì tư dung tốt đẹp nên đã xin mẹ đem trăm lạng vàng sang hỏi cưới. Cuộc hôn nhân không tình yêu theo sự sắp đặt của cha mẹ khiến Vũ Nương không được lợi ngọt ngào của tình yêu. Dù vậy, nàng vẫn quyết tâm vun đắp hạnh phúc gia đình. Nhưng chiến tranh lại cướp đi niềm thèm khát của nàng. Trương Sinh tuy gia đình giàu có nhưng ít học nên phải đi lính. Cuộc chiến tranh tao loạn đã đẩy gia đình nàng vào cảnh ly biệt. Bản thân Vũ Nương – một người phụ nữ chân yếu tay mềm nay phải gánh vác việc gia đình: săn sóc mẹ già, dạy dỗ con thơ. Nàng đã không được lợi hạnh phúc bình yên, mà còn gánh vác thêm nhiều trách nhiệm. Dành cả tuổi xuân hy sinh cho chồng con, gia đình. Nhưng nàng lại bị Trương Sinh ruồng rẫy, đánh đập. Khi đi lính trở về, Trương Sinh chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi là vợ thất tiết. Lễ giáo phong kiến đã buộc người phụ nữ vào gánh nặng danh tiết. Dù Vũ Nương có giảng giải cũng không còn được chồng tin tưởng. Nàng chỉ biết cách chọn lựa cái chết để chứng minh sự trong sạch. Cái chết của Vũ Nương một lần nữa cho thấy thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Dù thèm khát hạnh phúc gia đình, cuộc sống bình yên nhưng khi sóng gió ập tới họ không thể làm chủ cuộc thế mình. Ở đây, chính xã hội phong kiến Nam quyền mà Trương Sinh chính là đại diện tiêu biểu đã đẩy nàng tới cái chết. Hiện thực thảm khốc khiến nàng dù đã được tẩy oan, nhưng vẫn không muốn quay trở về làm người, sum vầy với chồng con. Bởi Nguyễn Dữ hiểu được hiện thực xã hội lúc bấy giờ là vô cùng bất công với người phụ nữ.
nổi trội hơn vẫn là ý thức nhân đạo cao cả của tác phẩm. Nguyễn Dữ đã truyền tụng vẻ đẹp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh nhân vật Vũ Nương. Nàng mang đầy đủ những nét đẹp truyền thống của một người phụ nữ: công, dung, ngôn, hạnh. Mặc dù xuất thân trong một gia đình thông thường “thiếp vốn con nhà khó” nhưng lại xinh đẹp, thùy mị nết na. Đối với chồng rất đỗi yêu thương, dịu dàng và biết giữ gìn mực thước. Đối với mẹ chồng thì hiếu thảo, chăm lo như chính mẹ đẻ của mình. Đối với con luôn săn sóc ân cần, lo lắng con thiếu thốn tình cảm mà nhiệt tình bù đắp. Nàng đã sống trọn tình khi làm tròn phận sự người vợ, người con dâu và người mẹ. Đặc biệt, môt biểu hiện của giá trị nhân văn khi thông qua Vũ Nương nhà văn muốn gửi gắm tiếng nói đồng cảm về khát vọng tình yêu, hôn nhân của người phụ nữ. Vũ Nương luôn rất đỗi vun vén cho hạnh phúc gia đình. Biết chồng hay ghen, nàng quyết tâm giữ gìn khuôn thước để gia đình luôn hòa thuận. Ngày chồng phải lên đường ra nơi trận mạc, Vũ Nương không mong muốn chồng có thể lập được chiến công hiển hách để “mang ấn phong hầu về”. Vì nàng hiểu Trương Sinh bước ra nơi trận mạc là đang đụng độ với cái chết. Nàng chỉ mong chồng có thể bình an trở về, tức chỉ mong có niềm hạnh phúc gia đình sum họp. Ngay cả khi bị chồng hiểu lầm, Vũ Nương vẫn tìm cách hết lời biện bạch với mong muốn giữ gìn hạnh phúc gia đình. Chỉ tới khi lời giảng giải đều vô nghĩa, nàng mới tìm tới cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình.
Trân trọng vẻ đẹp của người phụ nữ, Nguyễn Dữ lại càng xót xa cho số phận xấu số của họ. Nhà văn đớn đau cho cuộc thế của một con người có đầy đủ những phẩm chất đáng quý, tận tụy vun đắp cho hạnh phúc gia đình nhưng lại chẳng được lợi hạnh phúc trong khoảng thời gian dài. Lấy chồng chẳng được bao lâu vì chiến tranh mà phải xa chồng. Trong suốt những năm tháng chồng đi chinh chiến, nàng ở nhà chờ đợi đằng đẵng nhưng tới khi trở về chưa được lợi niềm hạnh phúc gia đình sum vầy đã chịu cảnh oan khúc. Nàng rất đỗi van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; láng giềng rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. tới cả lời than khóc xót xa tột cùng: “Nay đã bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, cái én lìa đàn…” cũng không khiến người chống động lòng. Một người với tấm lòng thủy chung, trong trắng đã bị vùi dập thật tàn nhẫn, phũ phàng.
Nhưng bằng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, tác giả không để cho con người ấy phải chết oan. Điều đó thể hiện ở đoạn kết của câu chuyện. Nhờ có yếu tố kì ảo của thể loại truyền kì, nhà văn Nguyễn Dữ đã để cho nhân vật của mình không chết đi. Vũ Nương đã được chư tiên dưới thủy cung thương tình cứu sống. Nàng sống dưới thủy cung, tình cờ gặp gỡ Phan Lang – một người sống cùng làng và kể lại cho Phan nghe toàn bộ câu chuyện. Phan Lang được lời gửi gắm của Vũ Nương sau khi trở về tới gặp Trương Sinh để tẩy oan cho Vũ Nương. Sau đó, Trương Sinh lập đàn tẩy oan cho vợ. Vũ Nương hiện về nhưng không thể sống với chồng và con: “thiếp không thể về với nhân gian được nữa”. Cái kết này cũng chưa hoàn toàn có hậu, bởi hạnh phúc cũng chỉ là ước mơ, Vũ Nương vẫn không thể sum vầy với gia đình của nàng, trở về làm người.
Tác phẩm cũng có rất nhiều thành công về nghệ thuật khi xây dựng được tình huống truyện độc đáo. những tình tiết thắt nút, mở nút gây ra được yếu tố bất thần. Ngoài ra, tác giả cũng tạo ra được chi tiết đắt giá là “cái bóng” – chi tiết thắt nút và mở nút của toàn bộ câu chuyện. Thế mới thấy được tài năng của Nguyễn Dữ khi sáng tạo ra một tác phẩm giàu ý nghĩa để gửi gắm tư tưởng của chính minh.
Xem Thêm : Top 10 mẫu Cảm nhận khổ 1 bài Nói với con của Y Phương hay nhất
Tóm lại, “Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện được những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Truyện là bài học sâu sắc để người Xem thêm thấu hiểu và trân trọng cho người phụ nữ.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 5
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”
Đó chỉ là một trong hàng trăm những lời ca dao than thân của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là những người phải chịu đựng rất nhiều xấu số, đau thương, phải sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ”. Vậy nên, không ít những tác phẩm thơ và truyện đã ra đời để phản ánh những nỗi khổ cực mà những người phụ nữ hiền hậu đã trải qua trong xã hội phong kiến. Trong số đó phải kể tới tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”. Đây là một tác phẩm không chỉ hay về nội dung khi phản ánh được số phận khổ cực của người phụ nữ xưa mà còn thể hiện được những giá trị hiện thực và nhân đạo hết sức sâu sắc.
“Chuyện người con gái Nam Xương” được nhà văn Nguyễn Dữ viết lên để nói về một người phụ nữ tên là Vũ Nương. Nàng xinh đẹp, tiết hạnh, khát khao hạnh phúc nhưng lại bị chính chồng mình, xã hội, chính lễ giáo phong kiến thúc ép phải rơi vào hoàn cảnh trớ trêu, oan khúc. Kết thúc câu chuyện là hình ảnh của một Vũ Nương rực rỡ giữa dòng nước thoáng ẩn thoáng hiện nói với chồng mình lời tạ từ rồi biến mất.
trước tiên, người ta thấy ở tác phẩm này chứa đựng một giá trị hiện thực hết sức sâu sắc. Đó là hình ảnh của một người phụ nữ tiết hạnh nhưng lại phải chịu biết bao khổ cực, đắng cay, cuối cùng phải chịu oan khúc mà đi tìm cái chết. Ở đây, truyện đã phản ánh được cái thảm kịch của hầu hết những người phụ nữ sống dưới chế độ xã hội phong kiến tàn ác. Vũ Nương vốn chỉ xuất thân con nhà bình dân, nhưng sắc đẹp cùng phẩm hạnh của nàng đã lọt vào mắt xanh của Trương Sinh – con nhà hào phú nhưng không có học vấn, lại còn có tính đa nghi, “với vợ phòng ngừa quá sức”. Một người con gái như nàng, đẹp người đẹp nết, đúng ra nàng phải được lựa chọn lựa cho mình một đức phu quân như ý, thế nhưng trong cái xã hội ấy, nàng phải thuận theo cha mẹ, thuận theo lễ giáo mà cưới một người như Trương Sinh.
Tuy vậy nhưng nàng cũng là một người vợ đoan trang, thủy chung rất đỗi. Ba năm chồng đi lính, nàng ở nhà lo việc nhà, chăm mẹ, chăm con, “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”. Nàng đúng là mẫu người phụ nữ phẩm hạnh, đúng với lễ giáo phong kiến xưa.
Không chỉ xinh đẹp, nết na, thùy mị, thủy chung, nàng còn có “tư dung tốt đẹp” bởi khi chồng vắng nhà, một tay nàng quán xuyến việc nhà, chăm lo cho gia đình, cho mẹ chồng. Một người phụ nữ chân yếu tay mềm làm sao đủ sức vừa lo chuyện gia đình vừa có thể quán xuyến được việc nhà cơ chứ? Ấy vậy mà Vũ Nương đã thay chồng lo lắng hết mọi công việc trong nhà, nàng quả là người con gái giỏi giang rất đỗi. tới lúc mẹ chồng chết, nàng còn một tay suy tính ma chay, cúng tế cho mẹ “như đối với cha mẹ đẻ của mình”.
Vũ Nương là hình tượng người con gái đại diện cho lớp phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đều có tài có sắc, xinh đẹp, nết na, thùy mị, thủy chung nhưng lại chịu chung một thảm kịch trong số phận của mình. nếu như nàng Kiều phải chịu cảnh tủi nhục, buộc phải bán mình cứu cha, bị xã hội ấy giày đạp hết lần này tới lần khác trong vũng bùn tăm tối thì Vũ Nương còn khổ cực hơn với thảm kịch của mình khi nàng bị chính chồng của mình nghi ngờ không giữ trọn tiết.
Trong gia đình, còn gì khổ cực hơn khi người chống “đầu gối tay ấp” nghi ngờ về tiết hạnh của mình? Với người phụ nữ trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ không tròn tiết hạnh thì thật là một người phụ nữ đáng khinh bỉ. Vậy mà Vũ Nương ở đây đã bị chính chồng mình nghi ngờ mình đã thất tiết. Dù nàng có giảng giải, có van xin, “dám bộc bạch để cởi mối nghi ngờ” thì chồng nàng vẫn một mực nghi ngờ người vợ của mình. Điều đó đã đẩy nàng tới tột đỉnh của khổ cực, bởi chồng nàng “lấy chuyện xa xăm này nọ nhiếc mắng này, đánh đuổi đi”, điều này đã khiến nàng phải nhảy sông tự vẫn để bộc bạch nỗi oan khúc của mình.
Phải nói, người phụ nữ trong xã hội xưa, mỗi người lại có cho mình một thảm kịch khổ cực riêng. thảm kịch ấy dựng lên bởi xã hội phong kiến, bởi lễ giáo, bởi hệ quả của xã hội đương thời. giá trị hiện thực của tác phẩm không chỉ được thể hiện ở thảm kịch của nàng Vũ Nương xinh đẹp mà còn phản ánh một xã hội phong kiến vô cùng bất công với người phụ nữ.
Một cuộc chiến tranh phi nghĩa đã đẩy Trương Sinh phải xa nhà, xa vợ, xa đứa con còn chưa chào đời để tới khi trở về, chàng đã tạo nên môi hiểu lầm sâu sắc khiến vợ mình phải chịu hàm oan. nếu như không có cuộc chiến tranh ấy, liệu có chăng cuộc sống của Trương Sinh đã khác và Vũ Nương cũng không phải chịu oan khúc dưới dòng sông Hoàng Giang? Hơn nữa, chiến tranh tao loạn ấy cũng cướp đi mạng sống của rất nhiều người dân trong nước, khiến họ phải chết trôi trên phố trốn chạy giặc giã “Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trần Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết trôi cả”.
Không chỉ vậy, xã hội phong kiến ấy còn có những thói quen, lễ giáo bó buộc con người, dung túng cho những tư tưởng “trọng nam khinh nữ”. Xưa kia, ông bà ta vẫn thường hay nói rằng: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, tức là có một người con trai mới gọi là có con còn có mười người con gái cũng chỉ như không có mà thôi. Một xã hội với tư tưởng tương tự, liệu chăng những người con gái như Vũ Nương có thể hưởng được hạnh phúc hay không? Ngay cả việc lấy Trương Sinh – một kẻ vũ phu, vô học cũng vô tình làm mất đi hạnh phúc của Vũ Nương. Đúng như lời than thân trách phận của người phụ nữ xưa vẫn hát:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”
nếu như như xét trong mối quan hệ gia đình, một người đàn ông như Trương Sinh sau ba năm xa nhà, để vợ quán xuyến mọi việc, lo lắng mọi điều, đúng ra chàng ta phải vô cùng cảm ơn người vợ dịu hiền của mình chứ? Vậy mà chỉ với một câu nói vu vơ của một đứa trẻ còn chưa lớn, chàng ta đã vội vàng nghi ngờ vợ của mình mà bỏ ngoài tai hết mọi lời can gián, không chỉ là lời biện bạch của người vợ thủy chung mà còn là lời “bênh vực và biện bạch cho nàng” của xóm làng. Phải nói, sự ghen tuông này của chàng ta xuất phát từ cái tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, là hệ quả của cả một xã hội đương thời với lễ giáo trói buộc người phụ nữ vào “tam tòng tứ đức”. Ở cái xã hội này, người phụ nữ dù làm gì cũng chẳng bảo vệ nổi bản thân mình, luôn là người chịu nhiều thiệt thòi và khổ cực nhất.
“Chuyện người con gái Nam Xương” đã thể hiện rất rõ ràng giá trị hiện thực. Đó là một xã hội phong kiến bất công, “trọng nam khinh nữ” với nhiều tư tưởng cổ hủ, lạc hậu, lễ giáo khó tính với người phụ nữ khiến họ rơi vào nhiều thảm kịch, không thể bảo vệ được bản thân mình. Cùng với đó là những cuộc chiến tranh liên miên, kéo dài, gây ra mất mát, đau thương cho nhân dân.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ không chỉ thể hiện những giá trị hiện thực rất trung thực mà còn phản ánh giá trị nhân đạo rất sâu sắc nữa.
Một tác phẩm chứa giá trị nhân đạo là khi tác phẩm đó biết lên án, tố cáo những thế lực đã đẩy con người ta vào bước đường cùng, giày đạp lên số phận, lên phẩm giá của họ. Và thông qua những điều đó, nhà văn muốn gửi gắm tới họ niềm thông cảm sâu sắc trước thảm kịch số phận mà họ phải chịu đựng, đồng thời ngợi ca những đức tính tốt đẹp của nhân vật và đưa ra một hướng giải thoát cho họ.
Ở tác phẩm này, Nguyễn Dữ đã thông qua nó mà muốn đề cao cũng như thể hiện niềm trân trọng vô cùng tới vẻ đẹp của người phụ nữ xưa. Thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương, ông muốn ngợi ca những đức tính tốt đẹp của người phụ nữ: Tuy xuất thân bình dân nhưng nết na, thùy mị, đảm đang, thủy chung, tư dung tốt đẹp. Về nhà chồng thì cư xử đúng mực, “giữ gìn mực thước, không từng để lúc nào vợ chồng phải tới bất hòa”. Chồng đi lính, nàng ân cần dặn dò, nói với chàng những lời thắm thiết, thấm đượm tình nghĩa, chỉ mong chồng trở về bình yên, chẳng cần “đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm”.
Lúc chồng vắng nhà, lại một tay thu xếp, vun vén việc trong nhà, chăm mẹ chồng, chăm con, lo cho mẹ chồng như cha mẹ đẻ. Mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang. Lo cho bà, rồi “lấy lời ngọt ngào, khôn khéo mà khuyên nhủ” bà, mong bà mau hồi lại sức khỏe. Nàng quả là một người con dâu hiếu thảo, nhiệt tình vì nhà chồng, cho tới tận lúc sắp ra đi, người mẹ chồng vẫn rất đỗi thương yêu Vũ Nương, cảm ơn nàng: “trời xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con chẳng phụ mẹ”. Mẹ chồng chết, nàng lại “nhiệt tình thương xót”, lo lắng việc ma chay cho ba “như đối với cha mẹ đẻ của mình”.
Lúc chồng đi lính về, nghi ngờ nàng thất tiết, nàng rất đỗi phân trần “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết” để giữ lấy hạnh phúc gia đình. Nàng mong chồng hiểu mình để giữ lấy, để hàn gắn hạnh phúc, để giữ gìn cái “thú vui nghi gia”. tới khi bất lực, không thể cứu vãn, Vũ Nương quyết đem cái chết để thân oan cho sự trong sạch của mình: “Bây giờ bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, …., đâu còn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa”. Việc nàng quyết tâm gieo mình xuống sông là một hành động quyết liệt, quyết tâm bảo vệ danh tiết của mình, chứ không chịu để tiếng oan khó rửa. Nguyễn Dữ đã rất đỗi ngợi ca những phẩm chất của người phụ nữ, để tới giờ này, ông tỏ rõ thái độ bênh vực họ trong từng câu chữ của mình.
Không chỉ vậy, ông còn đựng lên tiếng nói để đòi quyền công bằng cho người phụ nữ trong xã hội xưa. Ông tạo ra việc Vũ Nương được cứu sống bởi Linh Phi – vợ vua biển Nam Hải, cho nàng một cuộc sống bất tử. Đây là sự ưu ái của ông, là trục đường mà ông tạo ra để giải thoát những người phụ nữ. Vũ Nương được sống ở cung điện dưới nước, được sống xứng đáng với phẩm giá mà nàng đáng được lợi. tới khi gặp Phan Lang, nhờ Phan Lang chuyển cho chồng chiếc trâm vàng với lời dặn: “nếu như còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn tẩy oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”. Trương Sinh nghe vậy, lập đàn tràng ba ngày ba đêm ở bến sông, Vũ Nương đã trở về giữa kiệu hoa võng lọng, nhưng chỉ đứng từ xa nói lời cáo thoái rồi biến mất. Nàng không muốn trở về, ở đây nàng sẽ sống ở một toàn cầu tốt hơn, đẹp hơn, nơi xứng đáng với giá trị của nàng mà không phải một xã hội tàn ác kia nữa. Đây cũng là lời đáp ứng nguyện vọng, ước mơ của nhân dân ta về một toàn cầu bất tử, nơi cái thiện, cái đẹp sẽ thắng lợi, về một xã hội công bằng, nơi giá trị của người phụ nữ được xác nhận, được tôn vinh.
Bằng nghệ thuật kể chuyện độc đáo, đan xen những tình tiết kì ảo, Nguyễn Dữ đã tạo nên một tác phẩm thật thành công. Ông đã khắc họa hình ảnh của một người phụ nữ với tất cả những nét tính cách tốt đẹp nhất nhưng lại phải chịu số phận hẩm hiu, xấu số. Đó là hình tượng đại diện cho thảm kịch của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cũng qua hình tượng đó, ông muốn ngợi ca họ, ngợi ca phẩm chất, giá trị của họ đồng thời lên án xã hội phong kiến bất công, cũng như đựng tiếng nói đòi quyền công bằng cho những người phụ nữ.
Câu chuyện đã được viết lên từ hàng thế kỉ trước nhưng đối với chúng ta, nó vẫn còn nguyên giá trị như ngày nào. Những thông điệp sâu sắc giàu ý nghĩa về hiện thực xã hội, xấu số của con người, niềm thương xót, thông cảm của tác giả đối với những nhân vật trong tác phẩm sẽ luôn vang vọng mãi trong lòng mỗi người đọc chúng ta.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 6
Từ xưa tới nay, rất nhiều những nhà văn, thi sĩ đã hướng ngòi bút sáng tác của mình tới đề tài những người phụ nữ. “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một trong những tác phẩm rất nổi tiếng với nội dung bộc bạch nỗi niềm xót xa, thương thay cho thân phận “ba chìm bảy nổi” của người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương. giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo là hai điểm sáng nổi trội trong toàn bộ tác phẩm.
Nguyễn Dữ được đánh giá là “cây bút kí tài của văn học cổ Việt Nam”. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện ngắn với những yếu tố li kì, sáng tạo mô tả về một bức tranh thu nhỏ của xã hội thế kỉ 16.
Câu chuyện đã tố cáo chiến tranh trong thời phong kiến đã dẫn tới biết bao khổ đau, xót xa cho người dân vô tội. Khi Trương Sinh bị bắt đi lính để lại vợ dại con thơ chốn quê nhà. Trách nhiệm của người làm mẹ, làm cha dồn hết trên đôi vai của người vợ tên Vũ Nương. Chính vì lẽ đó là nguyên nhân dẫn tới những hiểu lầm và gây nên cái chết oan của người vợ bạc phận. Một sự thực xót xa nữa chính là bé Đản, khi vừa sinh ra đã không biết mặt cha, không được sự quan tâm, săn sóc từ người cha thân yêu của mình. Trong tâm tưởng của bé chưa một lần được chạm, được ôm lấy người cha thật sự của mình. vì vậy, bé đã tưởng nhầm cái bóng là cha của mình, vô tình gây nên cái chết của mẹ.
Nhắc tới người mẹ già của Trương Sinh, vì lo lắng, thương nhớ con trai nên sinh ra bệnh tật, đau ốm triền miên. Tới lúc qua đời, đi về với toàn cầu bên kia, bà cũng chẳng có thời cơ được gặp đứa con trai duy nhất của mình tới một lần. Thế nhưng, nỗi xấu số lớn nhất có nhẽ là cuộc thế của nàng Vũ Nương. Chưa được sum vầy, hưởng hạnh phúc cuộc sống gia đình bao lâu thì đã phải chịu cảnh chia ly, một mình bụng mang dạ chửa lại phải săn sóc mẹ già. Những năm tháng của tuổi thanh xuân đã phải sống trong cùng cực, thương nhớ. Tất cả những nỗi trớ trêu của những mảnh đời trong câu chuyện đều bắt nguồn từ chiến tranh gây nên. Chiến tranh gây nên sự chia cách, cô độc khi trẻ lớn lên không biết mặt cha, người mẹ già không thể nhìn mặt con trai lần cuối.
Chiến tranh đã gây nên biết bao cảnh đổ máu, cái chết cho biết bao gia đình. Chính xã hội với chế độ nam quyền đã cướp đi người chồng thân yêu của biết bao người phụ nữ. Cũng như bao người phụ nữ khác, Vũ nương còn là nạn nhân của chế độ trọng phương thức, phân cấp giàu nghèo sâu sắc. Chỉ với trăm lạng vàng, người ta đã cưới được một cô vợ “ thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” chứ không phải xuất phát từ tình yêu. Người giàu, họ cho mình cái quyền được chọn lựa lựa, định đoạt số phận của kiếp người phụ nữ. Trong khi đàn ông năm thê bảy thiếp thì người phụ nữ phải chịu cảnh một thân một mình, thủ tiết chờ chồng.
Hơn thế nữa, chính xã hội ấy cho người đàn ông quyền được rẻ rúng, nghi ngờ tấm lòng thủy chung son sắt của người vợ. Bao nhiêu tháng ngày yêu chồng nhớ nhung, vậy mà khi chồng từ mặt trận trở về, nàng còn chưa hưởng được chút quan tâm, săn sóc đã vướng vào vòng lao lung, nhiếc mắng. Họ tự cho họ cái quyền vũ phu, đánh đập người phụ nữ mà chẳng cần biết lý do. Có thể nói, Trương Sinh là sản phẩm được sinh ra trong chế độ xã hội mục nát, bạo tàn ấy.
Hiện thực thảm khốc nhất chính là cái chết của Vũ Nương, Khi Trương sinh nghe theo lời con nhỏ mà kết án vợ hư hỏng, đã thất tiết khi mình đi vắng. Vũ nương- một người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể phản kháng và chứng minh mình trong sạch. Nàng đã phải tìm tới cái chết để chứng minh cho tấm lòng thủy chung, son sắt của mình. Còn gì tủi nhục, vô vọng hơn khi người mà mình luôn tin tưởng, yêu thương bao lâu nay lại trở nên hắt hủi, quay lưng lại với nàng. Cái chết của nàng một lần nữa nói lên sự thực xót xa về thân phận người phụ nữ. Họ luôn khát khao được chở che, làm chủ hạnh phúc gia đình nhưng những thước đo, luật lệ của xã hội đã đẩy người phụ nữ ấy vào bước đường cùng.
Phía sau những giá trị hiện thực thảm khốc ấy, Nguyễn Dữ đã thêm tình tiết ly kỳ cho câu chuyện, vừa mang kết thúc có hậu và nhân đạo. Sau cái chết của nàng, những vị tiên đã cứu tạo điều kiện cho nàng hồi sinh vì đức tính và phẩm hạnh cao quý của nàng. Chi tiết ấy là giúp nàng có thời cơ được tẩy oan, khi Trương Sinh nhận được lời nhắn gửi của Phan Lang Lạc, đã lập đàn tẩy oan cho mình. Ban đầu, trương sinh còn nghi ngờ nhưng sau khi nhìn thấy chiếc trâm của vợ, đã đồng ý lập đần. Hình ảnh cuối cùng khi Vũ Nương hiện lên trên dòng sông, lúc ẩn lúc hiện. Nàng đã yên lòng rời xa nhân thế, với niềm vui được rửa oan và chứng minh được sự trong sạch của mình.
Câu chuyện đã gửi gắm biết bao tình tiết và bài học về giá trị hiện thực và nhân đạo cho người đọc. “ở hiền thì gặp lành “ hay “ cây ngay không sợ chết đứng” vẫn luôn đúng trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nguyễn Dữ cũng đã thay mặt biết bao người, lên tiếng bảo vệ người phụ nữ và phê phán chế độ xã hội thối nát. Quyền sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc là của tất cả mọi người, không phân biệt nam giới nữ quyền.
Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo – Mẫu 7
Truyện người con gái Nam Xương là một tác phẩm đề cập tới số phận đầy thảm kịch của người phụ nữ ở dưới chế độ phong kiến,thông qua hình tượng nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương là một người phụ nữ sinh ra trong một tầng lớp bình dân thùy mị và nết na, có tư dung tốt đẹp. Không những thế, nàng còn là một người vợ chung thủy,là người con dâu hiếu thảo và là một người mẹ có tình yêu con vô bờ bến. Tất cả những điều đó cho thấy Vũ Nương là nhân vật tiêu biểu đại diện đầy đủ nhất những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam đó là công,dung,ngôn,hạnh. Nhưng rồi chỉ vì một lời nói thơ ngây hồn nhiên của đứa con mà Trương Sinh đã nghi ngờ nàng thất tiết, buộc nàng phải chọn lựa trục đường cùng để giữ gìn phẩm hạnh cho mình tẩy oan.
Truyện đã phản ánh một cách rõ nét về người phụ nữ xưa, phản ánh xã hội phong kiến xưa với những bất công, với lí do quan niệm trọng nam khinh nữ. Để cho Trương Sinh giày đạp lên phẩm giá ấy, xét về mức độ quan hệ gia đình thì đó là sự ghen tuông mù quáng còn xét về mặt xã hội thì sự ghen tuông của Trương Sinh là hệ quả của cả một tính cách, một sản phẩm của xã hội phong kiến đương thời lúc đó. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nương đó là do xã hội phong kiến, một xã hội bất công
từ đó cho chúng ta thấy được truyện có giá trị nhân đạo sâu sắc. Truyện ngợi ca được vẻ đẹp của người phụ nữ thời phong kiến về cả tính cách lẫn ngoại hình. Tác giả đã bộc bạch niềm thương cảm của mình trước số phận xấu số,mà tiêu biểu đó là nhân vật Vũ Nương, không ngừng lại ở đây tác giả đã đứng ra lên tiếng tố cáo một xã hội đầy rẫy những bất công với chế độ trọng nam khinh nữ,chế độ gia trưởng mà tiêu biểu đó là Trương Sinh
Không những vậy truyện còn đề cao phẩm chất tốt đẹp của một người phụ nữ một lòng vì chồng con, thủy chung rất đỗi, hiền lành nhưng lại bị nghi oan chỉ vì lời nói của một đứa trẻ thơ chưa biết gì. Tác giả lên tiếng bênh vực cho quyền được sống, được hạnh phúc, được yêu thương của người phụ nữ thời bấy giờ. Nhà văn đã xót thương,có sự đồng cảm sâu sắc cho những nỗi oan ức, nỗi đau và sự cam chịu mà người phụ nữ xưa phải gánh
Truyện đã để lại trong lòng người đọc với sự thông cảm sâu sắc với tài kể chuyện sinh động, chân thật và lối kể chuyện xen lẫn giữa tả thực và yếu tố tả áo. Chính vì vậy cho nên Chuyện người con gái Nam Xương mang một giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhằm tố cáo xã hội phong kiến xưa và nỗi xấu số của người phụ nữ.
Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 9