Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em gồm 4 mẫu, kèm theo dàn ý chi tiết. từ đó, giúp những em bao quát được toàn bộ nội dung chính của tác phẩm, để nhanh chóng kể lại câu chuyện thật cô đọng. Với 4 mẫu Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương, những em sẽ tích lũy thật nhiều vốn từ, nhanh chóng kể lại cuộc thế bi thảm, đau thương của nhân vật Vũ Nương. Vậy mời những em cùng theo dõi bài viết dưới đây của GrabHanoi để ngày càng học tốt môn Văn 9:
Mục lục
Dàn ý Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em
1. Mở bài
Bạn Đang Xem: Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương theo cách của em siêu hay (4 mẫu + Dàn ý)
Giới thiệu vào tình huống câu chuyện.
2. Thân bài
a. Khái quát bối cảnh
- Trương Sinh là con trai duy nhất của một gia đình khá giả, được cha mẹ yêu thương, nuông.
- Trương Sinh phải lòng một cô gái tên là Vũ Thị Thiết (Vũ Nương) có sắc đẹp xinh đẹp và phẩm chất đoan trang, đầy đủ công dung ngôn hạnh.
- Sau khi lập gia đình có một cuộc sống hạnh phúc: có một cậu con trai mới chào đời kháu khỉnh.
→ Cuộc sống viên mãn, được rất nhiều người ngưỡng mộ và ước mơ.
b. Tình huống truyện
- Cuộc sống đang êm đềm thì bị gọi đi lính tuy trong lòng không đành nhưng vẫn dứt áo lên đường.
- Ngày chia tay buồn bã, lưu luyến không muốn rời.
- Khi nghe những lời dặn dò đầy yêu thương của vợ thì đã vô cùng cảm động và yên tâm ra đi đánh giặc.
- Ở chiến trường, Trương Sinh vẫn luôn giữ vững niềm tin yêu và hướng về gia đình, hướng về vợ con với tấm lòng thủy chung.
c. Khi đi lính về
- Khi trở về nghe tin mẹ đã qua đời thì chàng vô cùng đau lòng. Khi bế con ra thăm mộ mẹ, đứng trầm ngâm nhớ về mẹ thì con quấy khóc; nỗ lực vỗ về nó thì nó không nhận mình là cha và nói rằng cha nó thường xuyên tới thăm nó khi đêm về → trong lòng vô cùng tức tối, anh nghĩ rằng vợ đã phản bội mình và có người đàn ông khác nên đã rất giận dữ.
- Lúc về nhà Trương Sinh đã lãm rõ sự việc, vợ ra sức thanh minh nhưng đó chỉ là những lời biện minh vô nghĩa. Không thể chịu đựng được người phụ nữ này, quá thất vọng nên đã đuổi cô ta đi.
- Khi nghe tin cô vợ mất tích vẫn không mảy may suy nghĩ và nghĩ rằng đó là những điều cô ta phải chịu.
d. Tâm trạng ăn năn, hối lỗi
- Một buổi tối, khi Trương Sinh thắp ngọn đèn dầu thấy cái bóng của mình, con trai tôi reo lên và chỉ đó là bố nó mà đêm nào cũng tới như nó đã kể. → sự thực được phơi bày và cảm thấy ăn năn, hối hận vì đã không nghe vợ giảng giải mà ra sức nhiếc móc và đuổi vợ đi.
- Trương Sinh đi tìm vợ nhưng không thấy nàng ở đâu → đau buồn, tâm trạng nặng nề ngày này qua ngày khác.
- Một thời gian sau, người trong làng tên là Phan Lang tới kể với tôi về chuyện của nàng, về cuộc sống hiện tại của nàng ở nơi thủy cung rằng nàng tự vẫn nhưng được cứu về đó và sống yên bình. Trương Sinh không tin nhưng Phan Lang đưa cho tôi kỉ vật của nàng thì anh giật thột và tin những gì anh ta nói.
- Trương Sinh lập đàn theo lời Phan Lang dặn và quả nhiên vợ anh trở về. Nàng hiện lên giữa sông trên chiếc kiệu xinh đẹp. Trương Sinh vô cùng xúc động, van xin nàng và mong nàng trở về dân gian sống cùng anh nhưng nàng không còn trở về được nữa.
- Khi nàng trở về thủy cung nơi lòng sông, anh vô cùng buồn bã và khổ đau nhưng bất lực.
3. Kết bài
- Khái quát lại trị giá tác phẩm và bài học cho nhân vật.
Kể lại câu chuyện Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 1
Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương xinh đẹp, nết na. Trương Sinh cùng làng, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết tính chồng đa nghi, nàng giữ gìn mực thước không để xảy ra bất hòa.
Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải tòng quân đi đánh giặc Chiêm. Trong buổi tiễn đưa, Vũ Nương rót chén rượu đầy đưa cho chồng và nói chỉ mong ngày chồng trở về mang theo hai chữ bình yên.
Chồng ra lính được một tuần thì Vũ Nương sinh được đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm đã trôi qua, bà mẹ chồng già yếu, buồn lo rồi đau ốm. Nàng nhiệt tình săn sóc cơm nước thuốc thang, ngọt ngào khôn khéo khuyên nhủ. Bệnh mỗi ngày một nặng, mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng thương xót, mọi việc ma chay tế lễ, nàng tính liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.
Qua năm sau giặc tan, Trương Sinh được trở lại nhà, con vừa học nói. Chàng bế con đi thăm mồ mẹ, đứa trẻ không chịu và quấy khóc. Nghe Sinh dỗ ngon dỗ ngọt, con thơ ngây nói: “Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói. chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Nghe Sinh gạn hỏi, đứa bé lại nói: “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng tới, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Vốn có tính ghen, nghe con nói, Trương Sinh đinh ninh là vợ hư. Chàng la um lên cho lại gan. Vợ khóc lóc phân trần, chàng càng nhiếc mắng đánh đuổi đi. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than, mong thần sông linh thiêng chứng giám. Nàng nguyền, nếu như đoan trang, trinh trắng xin được làm ngọc Mị Nương, làm cỏ Ngu mĩ; nhược hài lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con thì xin làm mồi cho tôm cá, làm cơm cho diều quạ…
Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử. Chẳng bao lâu sau, một đêm vắng vẻ, ngồi dưới đèn khuya, bỗng đứa con chỉ chiếc bóng in lên vách mà nói rằng: “Cha Đản lại tới kia kìa'”. Lúc bấy giờ Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ.
Xem Thêm : Nghị luận về thói quen ỷ lại (6 mẫu + Dàn ý)
Lại nói chuyện Phan Lang người cùng làng, làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang. Một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh tới kêu xin tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh, Phan chợt nghĩ tới chuyện mộng bèn đem thả con rùa ấy. Chẳng bao lâu sau, dưới thời Khai Đại nhà Hồ, giặc Minh sang cướp nước ta. Nhiều người sợ hãi chạy trốn, thuyền bè bị đắm, chết trôi đầy sông, trong đó có Phan Lang, xác dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi là vợ vua Nam Hải chợt nhìn thấy, bèn nói: “Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa”. Linh Phi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, một chốc sau Phan Lang hồi sinh.
Linh Phi rước Phan Lang vào cung nước, mở tiệc lớn ở gác Triêu Dương để đãi ân nhân. Trong bữa tiệc có rất nhiều mĩ nhân, quần áo thướt tha, tóc búi xễ, trong đó có một người chỉ điểm qua son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người nữ giới ấy tới gặp Phan Lang. Vũ Nương nói lại tình cảnh mình được những nàng tiên trong cung nước thương tình mà cứu sống. Nghe Phan nhắc lại cố quốc, mồ mả tiền nhân,… Vũ Nương khóc…
ngày hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng 10 hạt minh châu, sai sứ Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương cũng gửi Phan chiếc hoa vàng đưa về cho Trương Sinh và dặn lập đàn tẩy oan, đốt cây đèn thần trên bến Hoàng Giang thì nàng sẽ trở về.
Nhận được chiếc hoa vàng, Trương Sinh thốt lên: “Đây quả là vật sử dụng mà vợ tôi mang lúc ra đi…”. Sinh làm đàn tràng, đốt cây đèn thần ba ngày đêm trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương đã hiện về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa, theo sau có 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông.”Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa…”, tiếng Vũ Nương vọng vào, bóng nàng nhoang nhoáng mờ dần rồi biến mất.
Xem thêm: Tổng hợp 15+ bài Phân tích bài Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn
Kể lại câu chuyện Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 2
Ngày xửa, ngày xưa, ở vùng Nam Xương có Vũ Thị Thiết là người con gái tài sắc vẹn toàn. Nàng kết duyên cùng Trương Sinh, con một gia đình khá giả.
Chiến tranh xảy ra, Trương Sinh phải sung vào lính. Chàng đành dứt áo chia tay với mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Trong phút tiễn đưa, mẹ già gạt nước mắt dặn con hãy thận trọng giữ mình nơi hòn tên mũi đạn.
Trương Sinh đi được hơn một tuần thì Vũ Nương sinh ra đứa con mũm mĩm, tuấn tú. Có đứa bé, cảnh nhà đỡ hiu quạnh. Một mình Vũ Nương đảm đang gánh vác mọi chuyện lớn nhỏ trong nhà. Nàng siêng năng làm lụng, nhiệt tình săn sóc mẹ già, dạy dỗ con nhỏ và đoan trang giữ gìn ý tứ, không để xảy ra tai tiếng gì. Mọi người trong vùng đều khen nàng là một người con dâu hiền thảo.
Ít lâu sau, vì quá thương nhớ con trai, mẹ chồng Vũ Nương lâm bệnh nặng qua đời. Vũ Nương lo cho bà mồ yên mả đẹp và thờ cúng bà chu đáo. ngôi nhà vốn đã rộng nay như càng rộng thêm bởi chỉ còn có hai mẹ con Vũ Nương thui thủi ra vào.
Đêm đêm, nàng thắp đèn cho sáng rồi ôm con vào lòng, chỉ bóng mình in trên vách mà nói đùa rằng: – Cha Đản về kìa! Đứa bé tin là thật. Năm sau, nạn giặc giã cũng được dẹp yên, Trương Sinh sống sót trở về quê. Biết tin mẹ đã mất, chàng bế con ra mộ mẹ thắp nhang. Đứa con quấy khóc, chàng dỗ ngon dỗ ngọt: – Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đứa con nhìn chàng đăm dăm rồi hỏi: – Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước đây chí nín thin thít.
Vốn sẵn tính đa nghi, Trương Sinh nghĩ rằng vợ có tư tình với người đàn ông khác trong khi mình vắng nhà nên đùng đùng nổi nóng, gọi Vũ Nương tra hỏi. Nàng thanh minh, giảng giải thế nào Trương Sinh cùng không tin và trách mắng nàng thậm tệ. Vũ Nương vừa tủi thân vừa khổ đau tột cùng. Nàng thề trước đất trời, mong đất trời chứng giám cho tấm lòng trong sạch của mình rồi nhảy xuống sông tự vẫn. những tiên nữ thương xót, đưa nàng về Thủy cung chung sống với Linh Phi. Cuộc sống sung sướng, nhàn hạ ở đây không thể làm cho Vũ Nương nguôi nhớ chồng con.
Từ sau ngày vợ mất, Trương Sinh lâm vào cảnh gà trống nuôi con. Một đêm, chàng ôm con vào lòng, ngồi trước ngọn đèn hiu hắt. Bóng chàng in trên vách chập chờn lay động. Đứa con vui thích vỗ tay reo: – Cha Đản lại tới kia kìa! Trương Sinh chợt hiểu ra tất cả. Chàng vò đầu bứt tai than khóc tự trách mình sao quá nhẫn tâm, dẫn tới cái chết bi thương của người vợ hiền thục, đảm đang. Đêm ấy, hồn Vũ Nương hiện về báo mộng rằng chiều tối ngày mai, Trương Sinh hãy bế con ra bờ sông để vợ chồng, mẹ con gặp gỡ.
Trương Sinh làm theo đúng lời dặn của Vũ Nương. Chàng dõi mắt nhìn ra xa, chỉ thấy chiếc kiệu sơn son trên có Vũ Nương ngồi, xung quanh có rất nhiều tiên nữ cứ thấp thoáng ẩn hiện giữa dòng. Văng vẳng trong gió là tiếng nói thân thuộc, tha thiết của Vũ Nương: Thiếp xin chàng hãy nỗ lực nuôi dạy cho con trai của chúng ta lớn khôn, trưởng thành. Thiếp luôn nhớ tới hai cha con nhưng không thể trở về dương gian được nữa! Chuyện đã qua rồi, chàng đừng phiền muộn làm chi mà tổn hao sức khỏe! Chào chàng, thiếp đi đây!
Trương Sinh đớn đau như đứt từng khúc ruột. Chàng lấy tay áo lau nước mắt và sững sờ khi thấy tất cả đã biến mất, chỉ còn dòng sông lặng lẽ chảy về biển cả trong bóng chiều đang sẫm lại.
Nhân dân trong vùng lập đền thờ Vũ Thị Thiết ngay bên bờ sông để mọi người luôn nhớ tới nàng, lấy cái chết bi thảm của nàng làm bài học thiết thực, nhắc nhở rằng vợ chồng phải yêu thương, tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau thì mới có được cuộc sống hạnh phúc dài lâu.
Kể lại câu chuyện Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 3
Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện vô cùng cảm động về một người phụ nữ hiền hậu nết na nhưng lại phải chịu một nỗi oan “tai bay vạ gió” mà mình không hề gây ra, chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Đó là câu chuyện dân gian “Vợ chàng Trương”, nhưng trong câu chuyện dân gian này kết cuộc của Vũ Thị Thiết, vợ của chàng Trương vô cùng bi thảm, vì bị chồng hàm oan nên Vũ Thị Thiết đã gieo mình xuống dòng sông Hoàng Giang mà tự tử. Tiếc thương cho người phụ nữ nết na, bạc phận nhà văn Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ mười bốn đã mượn cốt truyện của câu chuyện cổ “Vợ chàng Trương”, chi tiết trong truyện về cơ bản là được nhà văn Nguyễn Dữ giữ nguyên nhưng nhà văn lại thể hiện được ý thức nhân đạo của mình thông qua viết tiếp cái kết bi thảm của Vũ Thị Thiết.
Xem Thêm : Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ kể về cuộc thế và số phận của một người con gái tiết hạnh nhưng lại có cuộc thế đầy thảm kịch Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, sinh ra và lớn lên trong một gia đình làm nông nghèo, mẹ mất sớm, chỉ có hai cha con nương tựa vào nhau mà sống. Cuộc sống tuy có những trắc trở về vật chất nhưng hai cha con luôn sống vui vẻ, hạnh phúc bởi họ dành cho nhau tình cảm yêu thương tâm thành. Vũ Thị Thiết là một người con có hiếu, luôn có ý thức thờ phụng cha. Cuộc sống có nhẽ cứ bình lặng tương tự trôi qua nếu như như Vũ Thị Thiết không tới tuổi lập gia đình.
Một ngày nọ có một chàng trai họ Trương, tên Sinh ở làng bên sang hỏi cưới Vũ Thị Thiết. Mặc dù nàng không muốn kết hôn vì không yên tâm để người cha già yếu sống một mình, nhưng trước lời khuyên răn của cha thì Vũ Thị Thiết đã đồng ý lấy Trương Sinh, theo lời cha nàng thì con gái lớn thì phải gả chồng, không thì sẽ phải chịu những tai tiếng khó tính của xã hội. Hơn nữa, cha nàng có thể tự lo cho mình, nếu như nàng lấy chồng thì cha nàng cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc, nếu như nàng vẫn cố chấp không chịu lấy thì chính là một đứa con bất hiếu, làm cho cha buồn phiền, bị bà con láng giềng đàm tiếu, dị nghị.
Một tuần sau Vũ Thị Thiết đã trở thành vợ của Trương Sinh qua một lễ cưới nhỏ. Vì gia đình của nàng và Trương Sinh đều nghèo túng nên cũng chỉ làm mâm cơm đơn bạc mời bà con láng giềng chung vui. Ngày về nhà chồng Vũ Thị Thiết đã khóc rất nhiều vì phải xa người cha thân yêu của mình, nhưng nàng cũng là một người sống có đạo lí, tình nghĩa, từ khi nàng chấp nhận lời cầu hôn của Trương Sinh thì nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính thức trở thành mẹ của Vũ Thị Thiết, nàng sẽ săn sóc, thờ phụng người mẹ chồng như chính người mẹ đẻ của mình.
Cuộc sống của vợ chồng Vũ Thị Thiết rất hạnh phúc, cuộc sống vẫn có những trắc trở nhưng vợ chồng đồng sức nên những trắc trở đều không đáng kể gì, đặc biệt là sự ra đời của bé Đản- con của hai người, cả Vũ Thị Thiết và Trương Sinh đều vô cùng hài lòng về cuộc sống của mình. Nhưng cuộc thế đâu phải cứ mãi phẳng lặng, bình yên tương tự, biến cố bỗng nhiên ập tới, làm cho gia đình nhỏ lâm vào tình cảnh chia li, cũng chính là nguồn cơn dẫn tới nỗi oan khiên sâu lặng của Vũ Thị Thiết sau này. Năm ấy, quốc gia xảy ra nhiều cuộc chiến tranh vô nghĩa nhằm mục đích sát phạt, tranh giành đất đai, quyền lợi, Trương Sinh được lệnh phải lên đường đi lính, bổ sung lực lượng cho quân triều đình.
Là một người dân của quốc gia Trương Sinh không thể không thực hiện trách nhiệm của mình. Nhưng chàng không đành lòng để vợ và người mẹ già của mình ở lại mà lên đường. Cuộc chia li của Vũ Thị Thiết và Trương Sinh lưu luyến, lưu luyến đầy nước mắt, Trương Sinh dặn dò Vũ Thị Thiết ở nhà săn sóc, thờ phụng cho mẹ già, chăm lo cho gia đình đợi chàng thắng lợi trở về. Và khi ấy hai người sẽ cùng nhau xây dựng nên một mái nhà hạnh phúc của riêng mình. Vũ thị Thiết tuy rất buồn vì phải xa người chồng của mình thương yêu. Nàng biết được chuyến đi này sẽ vô cùng nguy hiểm, bởi sự khốc liệt của chiến tranh nào có buông tha cho ai bao giờ.
Nàng không mong chồng có thể mang áo gấm phong hầu trở về, điều mà nàng mong ước giản đơn chỉ là người chồng có thể quay về bình an, mạnh khỏe. Trước lúc chia tay, Vũ Thị Thiết đã nói với Trương Sinh: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…” Trương Sinh lên đường ra trận, Vũ Thị Thiết ở nhà chăm mẹ già, nuôi nấng con nhỏ. Một mình nàng vừa phải lo việc nhà cửa ruộng vườn vừa chăm lo cho hai người thân, một già một trẻ nhưng Vũ Thị Thiết đều hoàn thành một cách toàn vẹn, chưa bao giờ kêu than dù chỉ một tiếng.
Nàng săn sóc tận tình cho người mẹ chồng, lúc ốm đau bệnh tật nàng không rời mẹ nưa bước, dù trong nhà không còn tiền nhưng nàng vẫn nỗ lực đi mượn của những người láng giềng để lo tiền thuốc thang cho người mẹ bệnh tật. Biết được mình khó có thể qua khỏi cơn bạo bệnh, người mẹ chồng đã gọi Vũ Thị Thiết vào mà nói không cần lãng phí tiền nong cho mình nữa, Vũ Thị Thiết đã hết lời động viên để người mẹ yên tâm, chính người mẹ chồng cũng đã từng hết lời khen ngợi Vũ Thị Thiết, nói nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ thừa hưởng hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.
Không lâu sau, người mẹ chồng mất, Vũ thị Thiết lo việc hậu sự chu đáo, hoàn thành trách nhiệm của người con. Bây giờ ngôi nhà nhỏ của nàng chỉ còn lại hai mẹ con, nàng và con trai tên Đản. Vốn là người có học lại hiểu biết nên nàng cảm nhận thấm thía được nỗi xấu số của con, khi lớn lên không có được sự chở che trọn vẹn của cả cha và mẹ. Nàng luôn muốn con trai mình hạnh phúc, càng không muốn con trai ghen tị với bạn bè vì chúng có cả bố lẫn mẹ nên Vũ Thị Thiết đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào chiếc bóng trên tường của mình, nói đó chính là ba của Đản. Vừa để con vơi đi nỗi nhớ cha nhưng cũng đồng thời làm cho mình vơi bớt nỗi nhớ nhung đối với người chồng. Nhưng, nàng cũng không biết được lời nói láo nhịn nhường như vô hại này lại gây ra cho nàng đớn đau, oan khúc nhất đời.
Trương Sinh trở về, trong một lần dẫn con trai ra thăm mộ của mẹ, bé Đản thơ ngây hồn nhiên hỏi Trương Sinh “Chú là ai?”, Trương Sinh đã rất bất thần nhưng cũng kịp thời trả lời “Ta là cha của con”, nhưng bé Đản lại ngay ngay tức thì phủ định “Chú không phải cha của con, cha của con ngày nào cũng tới vào buổi tối trò chuyện cùng với mẹ con Đản”. Nghe lời trẻ thơ, lại vốn tính đa nghi nên Trương Sinh đã nghi ngờ vợ hư hỏng, thất tiết. Trong cơn giận dữ Trương Sinh đã trở về nhà lớn tiếng chửi mắng, đánh đập, kết tội Vũ Thị Thiết mà không hề cho nàng một lần được trình bày, giảng giải.
Vũ Thị Thiết vì quá khổ đau, oan ức lại không có cách nào có thể tẩy oan cho mình nên đã đi ra sông Hoàng Giang tự tử xuống sông tự vẫn, nhưng nàng lại được Linh Phi, vợ của đức Long Quân cứu giúp. Ở đây nàng lại gặp được một người bà con của mình, nàng đã nhờ người đó chuyển lời tới Trương Sinh và có cuộc gặp gỡ cuối cùng với Trương Sinh. Còn về phần Trương Sinh, sau khi biết đã hiểu lầm và trách oan vợ thì đã quá muộn màng, nghe lời nhắn gửi của vợ, chàng lập đàn trên sông Hoàng Giang, Vũ Thị Thiết đã hiện về, nỗi oan được giải trừ, nàng cũng không oán trách gì chồng nhưng nàng cũng không thể trở về cuộc sống như trước đây nữa, nàng từ biệt Trương Sinh và biến mất trong lòng sông.
Cái kết của câu chuyện này không hẳn là có hậu nhưng đó lại là cách khắc phục hợp lí duy nhất, bởi nó vừa tạo điều kiện cho Vũ Nương được tẩy oan, vừa mang tính nhân văn sâu sắc khi tố cáo xã hội phong kiến đã quá bất công đối với những người phụ nữ như Vũ Thị Thiết.
Kể lại câu chuyện Chuyện người con gái Nam Xương – Mẫu 4
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh, người cùng làng mới xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Cuộc hôn nhân không đồng đẳng của hai người đã ít nhiều hé lộ cuộc sống của Vũ Nương sau này.
Về làm vợ Trương Sinh, biết chồng có tính đa nghi, hay ghen nên Vũ Nương luôn luôn giữ gìn mực thước, giữ đạo làm vợ nên cả hai vợ chồng chưa lúc nào bất hòa. Cuộc sum vầy của đôi vợ chồng son chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra, triều đình bắt trai tráng trong làng đi đánh giặc Chiêm. Trương Sinh phải tham gia tòng quân đánh giặc. Ngày tiễn chồng ra trận, Vũ Nương tuy buồn khổ, đớn đau song cũng không ngăn cản chàng vì Trương Sinh phải thực hiện nghĩa vụ với quốc gia và nàng cũng hiểu chí nam nhi mà Trương Sinh theo đuổi. Vũ Nương không mong Trương Sinh quay trở về trong vinh hoa, phú quý, chỉ mong khi chàng trở về sẽ mang theo được hai chữ bình yên. những người tiễn Trương Sinh nghe lời Vũ Nương không ai cầm được nước mắt. Nàng còn đứng ở đó trông theo bóng của chồng mãi tới khi bóng Trương Sinh khuất hẳn mới quay trở về.
Lúc bấy giờ nàng đang có mang, Trương Sinh đi chưa được bao lâu thì Vũ Nương sinh ta một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Thoắt cái đã nửa năm Vũ Nương xa chồng nhưng nàng lúc nào cũng mong nhớ và chờ đợi tin của chàng. Người mẹ già cũng vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Vũ Nương vừa phải chăm con, vừa phải lo cho mẹ già. Nàng chữa chạy thuốc thang, cũng bái thần phật và lấy lời khôn khéo khuyên nhủ bà. Song bệnh tình mỗi ngày một nặng, bà không qua khỏi. Trước khi nhắm mắt xuôi tay xuôi tay, bà đã trối lại với nàng rằng ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về mà không gắng ăn miếng cơm, miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống việc chết không khỏi phiền tới con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, như con đã chẳng phụ mẹ. Vũ Nương đã lo ma chay, tế lễ cho bà chu đáo như đối với cha mẹ đẻ.
Bà cụ mất, ở nhà chỉ còn hai mẹ con. Vũ Nương mỗi tối ôm con, thường hay đùa trỏ bóng của mình trên vách nhà và nói với bé Đản đó là cha của nó. Sở dĩ nàng nói thế phần vì để vơi đi nỗi nhớ chồng, phần vì đứa con khỏi tủi thân khi thiếu vắng bóng người cha trong nhà. Thế nhưng, cái bóng cũng chính là nguyên nhân tạo nên nỗi oan khiên của nàng. Một năm sau khi mẹ chồng mất, giặc buông giáo đầu hàng, Trương Sinh trở về mới hay tin mẹ đã mất. Chàng khổ đau, buồn bã. Ôm con trong lòng ra thăm mồ của mẹ nhưng đứa con quấy khóc không nghe. Trương Sinh dỗ ngon dỗ ngọt con và nghe được câu nói của bé Đản khiến chàng nghi ngờ sự thủy chung của vợ “ơ hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?…Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng tới, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Mối nghi ngờ trong lòng Trương Sinh ngày càng lớn và không có cách nào gỡ ra được. Chàng đã về nhà nặng lời nhiếc móc, trách mắng vợ. Mặc cho vợ hết lời giảng giải, thân oan, họ hàng xóm thôn bênh vực và biện minh cho nàng nhưng cũng chẳng ăn thua gì cả. Cuối cùng, Vũ Nương đã phải tìm tới cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Nàng về nhà tắm gội sạch chay, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin thần chứng giám. Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược hài lòng chim dạ cá, lừa chồng, dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Nói rồi nàng gieo mình xuống sông mà chết. Trương Sinh tuy giận nhưng thấy nàng tự vẫn cũng động lòng thương, thuê người tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy đâu cả. Trong một đêm không vắng vẻ, chàng ôm con dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con trỏ bóng chàng trên vách và bảo là cha mình. Bấy giờ Trương Sinh mới hiểu ra nỗi oan khúc của Vũ Nương nhưng tất cả đã quá muộn.
Lại nói về Vũ Nương, sau khi gieo mình xuống sông, được những nàng tiên trong cung nước thương mình vô tội nên đã rẽ một đường nước để nàng thoát chết và trở thành cung nữ của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải. Ở dưới thủy cung, Vũ Nương gặp được Phan Lang, người cùng làng cũng là ân nhân cứu mạng của Linh Phi. Hai người đã trò chuyện với nhau, khi Linh Phi sai người rẽ nước đưa Phan Lang trở về, Vũ Nương đã gửi một cây hoa vàng và nhờ Phan Lang chuyển lời tới Trương Sinh lập đàn tẩy oan rồi nàng sẽ trở về. Phan Lang về nói lại với Trương Sinh, chàng không tin nhưng khi nhìn thấy chiếc hoa vàng của vợ mới tin đó là sự thực. Chàng bèn lập đàn tẩy oan ở bến sông Trường Giang. Quả nhiên, Vũ Nương có trở về. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng nước, theo sau có tới năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Trương Sinh có gọi nhưng nàng chỉ nói vọng vào ở giữa sông: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp không thể trở về nhân gian được nữa”. Rồi giây phút, bóng nàng nhoang nhoáng, mờ nhạt dần rồi biến đi mất.
Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 9