Top 17+ bài mẫu Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng hay nhất

Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân DiệuPhân tích Vội vàng đoạn 1 giúp chúng ta thấy được trái tim thi sĩ yêu cuộc sống mạnh liệt tới nhường nào. Qua mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ độc đáo cùng dòng xúc cảm dạt dào tuôn chảy, người đọc cũng như đang được mời gọi hãy sống và tận hưởng, hãy phấn đấu làm tất cả những gì mình muốn làm và có thể làm để không phí hoài tuổi xuân. Vậy dưới đây là 17 bài phân tích 13 câu đầu Vội vàng hay nhất, mời những bạn cùng theo dõi. 

Dàn ý phân tích 13 câu thơ đầu Vội vàng

a) Mở bài:

Bạn Đang Xem: Top 17+ bài mẫu Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng hay nhất

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

  • Xuân Diệu là thi sĩ của mùa xuân, tình yêu và tuổi xanh, một trong những thi sĩ lớn của Việt Nam nổi tiếng từ phong trào Thơ mới.
  • “Vội vàng” là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu.

– Khái quát nội dung 13 câu đầu Vội vàng : Ước muốn táo tợn cùng tâm trạng hoan hỉ chào đón nhưng rồi lại vội vàng và cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian.

b) Thân bài:

* Luận điểm 1: thèm khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên

– Trong thơ ca trung đại ít có thi sĩ nào dám khẳng định cái tôi tư nhân của mình một cách táo tợn nhưng khi tới với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.

  • Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi xanh là khoảng thời gian đẹp nhất trong thế cục mỗi con người.
  • Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân.
  • “Nắng” mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, rét mướt và tươi vui, “hương” mùa xuân là nơi tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, tụ hội.
  • Hành động “tắt nắng”, “buộc gió” là những mong muốn nhường như không tài nào thực hiện được bởi lẽ nó đi trái lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.

– Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất.

  • Thi sĩ thèm khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương.
  • Điệp cấu trúc “Tôi muốn… để”, động từ mạnh “tắt”, “buộc” cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập, thể hiện thèm khát mãnh liệt, tăng tả, muốn nhanh chóng không để những vẻ đẹp tạo hóa vụt mất khỏi tầm tay.
  • nếu như thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì thi sĩ muốn níu giữ thời gian ngừng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với thế cục, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật.
  • Cũng bởi vậy, thèm khát này cũng thể hiện sự ham sống xốc nổi tới mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông: Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên thi sĩ có thèm khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.

=> Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc thế cục tươi thắm, ngọt ngào mà phong thanh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng niu và giữ gìn.

Xem thêm: Top 20+ bài mẫu phân tích bài thơ thương vợ tú xương hay nhất

* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp

– Từ thể thơ 4 chữ, thi sĩ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏ ra, chậm rãi, nhẹ nhõm như nhịp tâm hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất trời mùa xuân

– Điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, phối hợp với thủ pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú vô tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hoan hỉ, vui sướng của tác giả.

– “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc thế cục, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà sắp gũi ngay trước mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong hiện tại lúc này.

– Điệp từ “của” lặp lại mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế tuần tự hiện ra, lại thêm phần phong phú, giàu có.

– thi sĩ sử dụng một loạt giải pháp tu từ nhân hoá, sử dụng những danh từ thuộc về con người (“tuần tháng mật”, “khúc tình si”) để trình bày thiên nhiên, phối hợp với “ong bướm”, “yến oanh” được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ân ái hạnh phúc.

– Tính từ “xanh rì”, “phơ phất” giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non tơ, tràn đầy sức sống

=> Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà còn tràn đầy ánh sáng và niềm vui, hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” và “thần vui” vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hoan hỉ vui sướng

– Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngây ngất tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân:

“Tháng Giêng non như một cặp môi sắp”

  • Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao trâm mà thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp
  • Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. thi sĩ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn.

– Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi sắp” căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.

  • Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, và say mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng mọi giác quan
  • Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
  • “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo tợn vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi sắp của người thiếu nữ.

=> thi sĩ đã thể hiện quan niệm của mình một cách thật sâu sắc: nếu như trong thơ ca Trung đại, những thi nhân lấy thiên nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người thì tới với Xuân Diệu, con người mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp tồn tại trên thế cục này, và thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào đó, mà chính là nơi đây, chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của cái đẹp và của tuổi xanh.

* Luận điểm 3: Tâm trạng của thi sĩ

– Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngây ngất mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.

– Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu trông thấy rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự phong thanh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.

=> Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồn vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh giác bất an, băn khoăn âu sầu của thi sĩ vì thời gian qua mau, tuổi xanh một đi không trở lại, quả tình Xuân Diệu là thi sĩ của những giác quan tinh tế về thời gian.

c) Kết bài

  • Khái quát lại nội dung 13 câu thơ đầu Vội vàng.
  • Nêu cảm nhận của em.

Phân tích Vội vàng đoạn 1 – Mẫu 1

Mỗi thi sĩ tới với văn đàn đều mang một dấu ấn riêng, mang một cặp mắt mới để lưu dấu trong lòng độc giả, nếu như đôi mắt thơ của Huy Cận mang nét buồn không gian, thì đôi mắt thơ Xuân Diệu lại là cặp mắt xanh non biếc rờn để bao luyến cảnh sắc nhân gian, để đem trái tim và bầu tâm huyết của mình mang lại sức sống cho nhân thế. Khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng đã mang đậm nét hồn ấy.

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Tưởng như hồn thơ dạt dào và tươi trẻ của Xuân Diệu đã biến câu thơ thành những dòng sức sống chảy tràn từng câu chữ, nhưng không chỉ vậy, Xuân Diệu còn muốn đoạt quyền của tạo hóa để biến trần gian thành một bữa tiệc thắm sắc đượm hương. Ước muốn mãnh liệt này xuất phát từ cái tôi yêu trần thế nồng nàn tha thiết, muốn mang cả bầu thơ túi rượu để được nâng chén cùng thiên nhiên. Với Xuân Diệu, nếu như nhân gian chỉ là một bức tranh với những gam màu nhạt nhòa, và những hương sắc phai lạt thì đó không còn là toàn cầu mà thi nhân hằng ước ao, hằng thèm muốn đem bầu tâm huyết và tình yêu của mình để hiến dâng cho nó nữa.

nếu như như ở những dòng thơ mở đầu, là lời tỏ bày mãnh liệt thèm muốn được tắt nắng buộc gió để lưu giữ thanh sắc trần gian thì tới những dòng thơ tiếp theo, Xuân Diệu không chỉ vẽ ra một bức tranh thiên nhiên như một mâm tiệc mùa xuân khổng lồ, mà còn đưa tới cho người đọc cách cảm nhận mới mẻ về cuộc sống:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của ong bướm này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi hồng
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ đã hoài xuân”.

Có thể thấy dưới “cặp mắt xanh non và biếc rờn”, vườn trần gian trong thơ Xuân Diệu không chỉ đơn thuần là sự góp nhặt của những cảnh vật đơn sơ, nhạt vị, mà mỗi ngọn cây lá cỏ, mỗi lời ca điệu hồn đều như uống phải ánh mắt si tình của thi nhân nên cũng lên hương đầy mặn nồng, biến vườn trần thành một vườn xuân. Nào là “tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si…” tất cả đan bện, hòa quyện gắn kết để bức tranh của Xuân Diệu dậy sắc, lên hương. Bức tranh xuân vừa mang màu tươi mới, trẻ trung, lại vừa có những thanh âm đầy trong trẻo, ngọt ngào. Đặc biệt là so sánh táo tợn về tháng Giêng như một cặp môi sắp là một canh tân táo tợn và đầy mới mẻ của thi nhân. Lấy cái hữu hình để so sánh với cái vô hình, lấy cái gợi về cảm giác để gợi về thời gian, nhất là lấy ân ái, tự tình để gọi về mùa xuân. Hóa ra trong mắt chàng thi sĩ bao luyến nhân gian bằng tình yêu ấy, tất cả cảnh vật nơi nơi đều là tình yêu, đều là những gì yêu kiều duyên dáng, đều mang mật ngọt của tự tình. Có một điều làm nên nét riêng này ở Xuân Diệu đó là, trước Xuân Diệu những thi sĩ thường chỉ thấy thế cục này mang đầy tính chất buồn thảm thê lương. Bà Huyện Thanh Quan ví nó như “cuộc rạp hát” biết mấy đau thương, còn Nguyễn Du gọi nó là những “cuộc bể dâu”. sắp Xuân Diệu hơn, Thế Lữ chán ghét thực tiễn tầm thường mà tìm về với chốn thiên thai hạ giới, để say sưa trong lời ca điệu nhạc, trong chốn bồng lai. Nhưng Xuân Diệu ở ngay trong đoạn thơ này, với những dòng xúc cảm nóng sốt bao luyến nhân gian, rồi phác họa chúng lên tràng viết, đã cho ta thấy thế cục vẫn lộng lẫy, tươi vui, và đáng sống, và nó như một bữa tiệc trần gian để con người say sưa trong men say của tự tình. Cho nên Hoài Thanh với đánh giá rằng: “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua người nào nấy về hạ giới”.

Xuân Diệu tưởng như chỉ là một chàng thi sĩ nhạy cảm tinh tế, đem theo hồn thơ của mình để mang phấn thông của tình yêu tới muôn nơi, để cùng nhau say sưa trong bầu thơ của thi nhân, để con người thụ hưởng ra rằng thế cục này đáng sống, hãy biết cách trân trọng cuộc sống trần thế.

Phân tích Vội vàng khổ 1 – Mẫu 2

Vào những năm 1932 – 1945 ở thế kỉ trước, trên Thi đàn văn học Việt Nam ta dễ dàng bắt gặp những “thi sĩ mới”. Họ đi tìm cho mình những lối đi mới, tìm cho mình những cấu tứ mới và phong cách nghệ thuật mới. Trong đó, tiêu biểu nhất trong phong trào này phải kể tới thi sĩ Xuân Diệu. Ông là thi sĩ “mới nhất trong những thi sĩ mới”. Xuân Diệu được mệnh danh là “ông vua của thơ tình”, là “hoàng tử của tình yêu”. thi sĩ này có cái “tôi” rất riêng biệt, vô cùng cá tính và đầy bản lĩnh. Bài thơ “Vội vàng” tuy không phải là một bài thơ tình, nhưng nó lại là một tác phẩm nổi trội của phong cách thơ Xuân Diệu. Bài thơ cho ta thấy được những triết lý, quan niệm sống mới mẻ và vẫn đúng cho tới tận ngày nay. 13 câu thơ đầu tác phẩm chính là một bức họa ngập tràn màu sắc dưới ngòi bút tinh tế của tác giả.

Mở đầu bài thơ, Xuân Diệu viết:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Bốn câu thơ ngũ ngôn phối hợp với phép điệp ngữ, điệp cấu trúc “tôi muốn” đã thổ lộ thật rõ ràng thèm khát và mong muốn của tác giả. Nói thi sĩ Xuân Diệu có cái “tôi” tư nhân đầy bản lĩnh quả là không sai. Ông muốn “tắt nắng” để màu sắc thế cục không phai đi. Ông muốn ” buộc gió” để mùi hương cuộc sống chẳng bay mất. Những mong muốn, ước vọng thỉnh thoảng thật ngông cuồng và khó tả. Tác giả đang muốn thay đổi, níu kéo những quy luật, dòng chảy của thiên nhiên, của tạo hóa. Người thanh niên mới vừa đôi mươi ấy, muốn ngưng đọng thời gian, ngưng đọng năm tháng để lưu giữ lại vẻ đẹp, sắc hương cho nhân thế.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”, vậy nên có thể nói, những câu thơ dài tiếp theo chính là bức tranh đã được thi sĩ vẽ nên bằng những nét thật sinh động và xinh xẻo:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si”

Điệp từ “này đây” được lặp đi lặp lại nhiều lần, tác giả muốn khẳng định cảnh này, vật này chính là một thiên đường trần gian, một thiên đường không phải ở đâu xa mà tồn tại ngay trên mặt đất. Đồng thời, “này đây” cũng giống như một lời mời gọi quyến rũ, thúc giục mọi người mau mau tới đây thưởng thức, tận hưởng. Bức tranh thiên nhiên mà Xuân Diệu vẽ ra, có màu sắc (xanh rì), có hương vị (mật ngọt), có hình khối (hoa, lá) và có cả đường nét (cành tơ phơ phất). Cụm từ “yến oanh” không chỉ sử dụng để nói tới những loài chim mùa xuân – chim yến, chim oanh – mà còn sử dụng để nói về những nam thanh nữ tú, sóng bước bên nhau cùng đi du xuân. nhường như, thiên đường mật ngọt mà Xuân Diệu đã vẽ nên, chính là một “mảnh vườn tình ái” đầy mộng mơ, ngọt ngào. Bởi trong những dòng thơ, vạn vật đều đang say sưa, ngập tràn hạnh phúc, vạn vật đều đã có đôi, có cặp.

Câu thơ tiếp theo mới thật là đẹp đẽ và mới mẻ làm sao:

“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”

Từ xưa tới nay, thiên nhiên luôn luôn là chuẩn mực của mọi cái đẹp và rất phổ biến trong thi ca. Ví dụ như trong câu thơ: ” Phù dung như diện, liễu như mi”, ý nói tới người con gái có gương mặt đẹp như hoa phù dung, đôi mắt, đôi mi, lông mày đẹp như lá liễu. Nhưng với Xuân Diệu, quan niệm của ông hoàn toàn trái lại. Tác giả lấy con người làm biểu tượng, hình mẫu, làm chuẩn mực cho cái đẹp, cho thiên nhiên vạn vật. Chưa bao giờ ta lại thấy hình ảnh vầng thái dương dịu dàng và e lệ tới thế. Xuân Diệu ví ánh sáng Mặt Trời với đôi hàng mi cong mềm mại, nhẹ nhõm. Thật đẹp!

Và rồi, mỗi ngày của tuổi xanh, đều là một ngày vui, một ngày hạnh phúc ngập tràn:

“Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”

Có người nào lại đi ví thiên nhiên, ví thời gian với con người… Nhưng Xuân Diệu đã làm thế. Đúng là, chỉ có một thi sĩ mới, một thi sĩ chịu tác động nhiều từ phong cách phương Tây mới có thể có suy nghĩ mới mẻ và táo tợn tới thế. thi sĩ so sánh “tháng giêng” với đôi môi căng mọng của người thiếu nữ đang ở độ tuổi xuân thì. Chỉ một từ “ngon” đã bộc lộ hết thảy tâm trạng của Xuân Diệu với thiên nhiên: ông si mê, ông si mê và thèm khát được tận hưởng, được nâng niu, được nắm trọn thiên nhiên.

Hai câu thơ cuối của đoạn thơ vẫn là những dòng tâm trạng của tác giả, nhưng lúc này ông đã chợt trông thấy, chợt nhớ tới quy luật của thời gian, tạo hóa:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Dấu “.” ở giữa câu thơ, chia dòng chữ ra làm đôi: trong một câu thơ, có tới hai luồng xúc cảm. Xuân Diệu đang sung sướng, hạnh phúc tột độ khi được đắm mình trong thiên nhiên tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nhưng rồi ngay tức tốc ông đã biết vội vàng, tiếc nuối mùa xuân, tiếc nuối tuổi xanh. Rõ ràng, thời gian vẫn còn chưa đuổi tới, mà tác giả đã lo sợ sự chảy trôi. Vậy mới nói, thi sĩ Xuân Diệu luôn luôn bị sợ hãi bởi bước đi và quy luật của thời gian.

Tóm lại, 13 câu thơ đầu trong bài thơ “Vội vàng” của tác giả Xuân Diệu là những câu thơ tả cảnh đầy lãng mạn và mộng mơ. Đồng thời, qua những câu thơ ấy, ta rút ra được một quan niệm sống mới mẻ: hãy sống vội vàng nhân lúc còn trẻ, còn “xuân”; bởi cuộc sống vô cùng nhiều những thứ tươi đẹp để cho ta nhìn ngắm, tận hưởng. Tuy nhiên, sống vội vàng không tức là sống cẩu thả, buông lơi; mà hãy sống sao cho xứng đáng với những gì mà thế cục tặng thưởng, hãy có trách nhiệm, biết yêu và tận hưởng từ những điều nhỏ nhặt đơn thuần nhất!

Phân tích Vội vàng khổ 1 – Mẫu 3

thi sĩ Thế Lữ đã từng có nhận xét khá tinh tế về Xuân Diệu: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Có thể nói, Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một “bộ y phục tối tân”, táo bạo, một “cảm hứng dạt dào chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này”. Cứ mỗi độ xuân về, trái tim non của những thế hệ trẻ lại rung lên với cảm xúc yêu đời tha thiết, mãnh liệt trước lời ru yêu đời mà thấm thía của Xuân Diệu. Một trong những lời ru yêu đời thấm thía ấy được gửi gắm qua tác phẩm “Vội vàng” – một bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ độc đáo của Xuân Diệu. Cả bài thơ là niềm yêu đời mãnh liệt, lòng ham sống đến bồng bột, cuồng nhiệt. Đến với 13 câu đầu trong “Vội vàng”, chúng ta sẽ thấy rõ được ước muốn táo bạo, kì lạ của thi sĩ và bức tranh xuân – vẻ đẹp thiên đường trên mặt đất.

Rút ra từ tập “Thơ thơ”, Vội vàng là thi phẩm kết tinh vẻ đẹp hồn thơ Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Mở đầu bài thơ là khổ thơ ngũ ngôn thể hiện ước muốn cháy bỏng của thi sĩ:

Tôi muốn tắt nắng đi
màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh liên tiếp các điệp từ, điệp ngữ, điệp cấu trúc, khổ thơ như khúc ca sôi nổi, say mê về những ước muốn khát khao cất lên từ trái tim của thi sĩ. Muốn tắt nắng, muốn buộc gió để màu đừng nhạt, hương đừng phai, nghĩa là Xuân Diệu muốn níu giữ mãi hương thơm sắc thắm, muốn bất tử hóa vẻ đẹp mùa xuân nơi trần thế. Nghĩa là Xuân Diệu muốn mãi mãi một mùa xuân tuyệt vời. Ham muốn, khát vọng của thi sĩ thật vô cùng lãng mạn. Phải là một hồn thơ yêu đời ham sống mãnh liệt đến vô bờ mới có những ham muốn bồng bột, táo bạo ấy.

Là một nhà thơ của niềm khát khao giao cảm với đời, say mê cuộc đời bằng một niềm yêu đời mãnh liệt, bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, ngơ ngác và đầy vui sướng, Xuân Diệu đã phát hiện ra bao vẻ đẹp đáng yêu, đáng say đắm của thiên nhiên và cuộc sống con người nơi trần thế mà đẹp nhất, vui nhất, lộng lẫy nhất chính là mùa xuân và tuổi trẻ:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cưa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần!

Từ những câu thơ ngũ ngôn ngắn gọn, khúc thơ bất ngờ chuyển sang những câu thơ tám chữ liền mạch với hàng loạt biện pháp nghệ thuật đặc sắc: điệp từ, điệp ngữ, lặp cấu trúc, liệt kê, so sánh. Âm điệu thơ sôi nổi, háo hức cuồn cuộn như dòng thác dâng trào. Phép liệt kê và điệp ngữ “này đây” lặp lại liên tiếp trong năm câu thơ vừa gợi cái từng bừng rạo rực của thiên nhiên vừa diễn tả niềm hoan hỉ, vui sướng tột độ của thi sĩ. Điệu thơ như tiếng rao vu, ngỡ ngàng sung sướng. Có cái gì như vội vàng quấn quýt, có cái gì như đắm đuối mê say. Nhà thơ như muốn nói trong cử chỉ vội vàng, trong nhịp điệu dồn dập rằng: Mọi vẻ đẹp tuyệt vời kì diệu của mùa xuân và sự sống là của chúng ta đang trong vòng tay ta, lại còn chần chừ gì nữa mà không mau tận hưởng.

Với nhiều người, mùa xuân là mùa tuyệt diệu nhất trong năm. Bởi thế có cả một dòng xuân bất tận và quyến rũ trong thơ ca. Có thể kể ra đây “Cảnh ngày xuân” trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Mưa xuân (Nguyễn Bính), Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải) nhưng hiếm có mùa nào lộng lẫy sắc hương và rạo rực xuân tình như mảnh vườn xuân trong “Vội vàng” của Xuân Diệu. Và cũng hiếm có thi sĩ nào say mê, đắm đuối vẻ đẹp mùa xuân như Xuân Diệu. Mùa xuân hiện ra với những thảm cỏ biếc rời mơn mởn, lá non cành tơ phơ phất, hoa nõn nà khoe sắc dâng hương, trao mật ngọt ong bướm đắm say, ái ân tình tự giữa tuần tháng mật, yến anh quấn quýt bên nhau cùng cất lên khúc tình say đắm. Và mỗi sớm sớm mai của mùa xuân mới thật lộng lẫy quyến rũ:

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa

Trong trí óc non nớt thơ ngây của trẻ con, bình minh là lúc ông mặt trời thức dậy vén màn mây bước ra nhoẻn miệng cười thật tươi. Con trong hình dung của Xuân Diệu – nhà thơ lãng mạn mới nhất trong các nhà thơ mới, bình minh là lúc nữ thần mặt trời choàng tỉnh dậy sau giấc mộng êm đềm chớp chớp hàng mi. Muôn ngàn tia sáng lung linh huyền ảo từ đôi mắt ấy buông tỏa xuống trần gian tưới nhựa sống dào dạt cho muôn loài, trao niềm vui, gõ cửa mỗi nhà. Thế mới hiểu những thèm khát của Xuân Diệu là đúng:

“Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”

Hoặc có khi ông thèm khát tới cháy bỏng:

“Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời”

Với Xuân Diệu, mỗi ngày sống là một ngày vui, mỗi mùa xuân là một mùa vui bất tận. Không phải đây là lần đầu tiên và duy nhất, vẻ đẹp của ánh sáng hiện ra lộng lẫy và kiêu sa như vậy. Trong “Trường ca” và “Rạo rực”, Xuân Diệu cũng lấy vẻ đẹp của người thiếu nữ để ví von, so sánh như thế:

Mi của ánh sáng thật dài, tia của ánh sáng thật đẹp

(Trường ca)

Mặt trời vừa mới cưới trời xanh
Duyên đẹp ngày hôm nay đã tốt lành
Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơn phớt mắt long lanh

(Rạo rực)

Cách cảm nhận vẻ đẹp của ánh mặt trời mùa xuân thật lạ, thật gợi cảm nhưng lại nhất phải kể đến hình ảnh ”Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”. Có thể nói thơ Việt chưa bao giờ có cách cảm nhận mới lạ như thế này. Thường thấy tháng Giêng đẹp, ngày xuân vui chứ chưa bao giờ thấy người nào cảm nhận là ngon như Xuân Diệu. Vẻ đẹp của tháng Giêng được thi sĩ cảm nhận không chỉ bằng thị giác, thính giác mà còn bằng cả vị giác, xúc giác và bằng cả tâm hồn yêu đời, khát sống đến bồng bột, cuồng nhiệt. Ta thấy ở đây có dấu vết của phép tương giao trong thơ tượng trưng Pháp. Đó là màu sắc rất Tây của thơ Xuân Diệu. Chưa hết, thi sĩ còn so sánh độc và lạ gợi nhiều thú vị liên tưởng cho người đọc. Tháng Giêng ngọt ngào mê đắm như nụ hôn tình ái.

Như một thước phim sống động, khúc thơ làm hiện ra trước mắt người đọc một bức tranh xuân vô cùng độc đáo và lộng lẫy: rộn rã những âm thanh tình tứ, rực rỡ ánh sáng tinh khôi, nồng nàn hương thơm sắc thắm và ngọt ngào men say ái tình. Mùa xuân có khác nào một thiên đường trên mặt đất, rạo rực sức sống, một mảnh vườn tình ái mà vạn vật đang đua nhau khoe sắc dâng hương, đắm đuối xuân tình. Như vậy, đọc những câu thơ mở đầu của “Vội vàng”, ta thấy được phần nào cái yêu đời đến cuồng nhiệt, cái khát sống đến bồng bột, mãnh liệt của Xuân Diệu. Quả không sai khi nói ông là nhà thơ lãng mạn mới nhất trong các nhà thơ mới.

Phân tích Vội vàng khổ 1 – Mẫu 4

Xuân Diệu là thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới với hồn thơ tiêu biểu cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, con người và rộn rực khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong văn pháp thi ca. “Vội vàng” không chỉ là thi phẩm đặc sắc nhất trong tập thơ Thơ – bài thơ đầu tay Xuân Diệu dành tặng cho thế gian mà còn là bài thơ hay nhất cả cuộc sống sáng tác của ông. Bài thơ vừa như một nguồn xúc cảm trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một thi sĩ thèm khát yêu đời. 13 câu đầu là đoạn thơ hay nhất thể hiện tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của thi nhân với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

Với “Vội vàng” thi sĩ đã xây lầu thơ giữa vẻ đẹp thế cục. Bài thơ hấp dẫn người đọc không chỉ bởi sự phối hợp hài hòa, nhuần nhuyễn giữa mạch xúc cảm dồi dào và mạch luận lý sâu sắc trong một giọng điệu sôi nổi, đắm say mà còn mang lại sự trải nghiệm mới mẻ về sự canh tân nghệ thuật độc đáo của một hồn thơ mới Xuân Diệu.

Mở đầu bài thơ tác giả thổ lộ thái độ tôn nghiêm như muốn đoạt quyền tạo hóa.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Điệp ngữ “tôi muốn” và thể thơ ngũ ngôn với tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện khát khao thiết tha, mãnh liệt của thi sĩ. Đó là ước muốn tắt nắng buộc gió để “màu đừng nhạt mất” để “hương đừng bay đi”. nếu như thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì thi sĩ muốn níu giữ thời gian ngưng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với thế cục, để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật. Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa hương sắc thế cục tươi thắm, ngọt ngào mà phong thanh, ngắn ngủi biết bao. Có thể nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng niu và giữ gìn.

Là một thi sĩ khát khao giao cảm với đời, sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên của thi sĩ phải chăng xuất phát từ bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế đang mơn mởn non tơ.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Như nghìn lời mời gọi, điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần từ đầu tới cuối đoạn thơ trên, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú vô tận của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hoan hỉ, vui sướng của tác giả. “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc thế cục, của thiên nhiên trần thế, không phải xa xôi mà sắp gũi ngay trước mắt, không phải ở kiếp khác, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay trong lúc này.

Điệp từ “của” lặp lại khiến câu thơ có vẻ khá Tây và mới lạ. Sau từ “của” mang tính chất kết nối ấy bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế tuần tự hiện ra, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ân ái hạnh phúc. Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng người ngây ngất tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân.

Chính cái nhìn trẻ, cặp mắt xanh non biếc rờn luôn lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp đã tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh xuân của thi sĩ. Tuần tháng mật của yêu thương vội chốc trở thành mùa vui của ong bướm dặt dìu, cành xuân đã hóa thành cành tơ phơ phất đầy sức sống, tiếng hót say sưa của chim yến, chim oanh trở thành điệu tình si say đắm lòng người và rạng đông xuân diễm lệ mang gương mặt của người đẹp kiều diễm với rèm mi ánh sáng.

Bằng tâm hồn phong phú và trí tưởng tượng dồi dào của mình với câu thơ:

“Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa”

Thi nhân đã tạo ra sự bất thần đầy thú vị bởi sự liên tưởng bất thần hết sức độc đáo. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi liên tưởng sắp gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại Hy Lạp xưa, cũng có thể là vị thần mang niềm vui tặng thưởng cho thế gian vào mỗi buổi sớm sớm mai, đánh thức mọi người dậy để tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hoan hỉ vui sướng. Và trong niềm hoan hỉ vui sướng đó ngòi bút của Xuân Diệu thật sự rất xuất thần, ông đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”

Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Có thể nói, trước Xuân Diệu, chưa có người nào “tỏ tình” với thiên nhiên tương tự. thi sĩ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đôi, bằng thể xác và tâm hồn. Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi sắp” căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ. Từ ngon được thốt lên đầy khát khao, nhục cảm bởi thi sĩ đã huy động mọi giác quan: từ thị giác, thính giác, vị giác tới xúc giác để tận hưởng thiên nhiên, tuổi xanh và thế cục này. Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa. “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh vừa táo tợn vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp cặp môi sắp của người thiếu nữ đầy sâu sắc.

Nhưng ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngây ngất mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”.

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”

Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu trông thấy rằng điều sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự phong thanh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.

“Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồn vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh giác bất an, băn khoăn âu sầu của thi sĩ vì thời gian qua mau, tuổi xanh một đi không trở lại, quả tình Xuân Diệu là thi sĩ của những giác quan tinh tế về thời gian.

Trong những bài thơ của Xuân Diệu trước cách mệnh thì đây là những vần thơ xuân diệu nhất. Bằng một phương thức nghệ thuật điêu luyện, sự phối hợp nhuần nhuỵ giữa xúc cảm phong thanh và mạch luận lý, giọng điệu say mê, sôi nổi cùng với những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Qua 13 câu đầu, Xuân Diệu đã đem tới một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn tích cực: Trong thế gian này đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi xanh và tình yêu; thiên đường chính là cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thiết tha yêu, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến để mỗi ngày qua đi ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc.

Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng – Mẫu 5

Phân tích 13 câu thơ đầu bài Vội Vàng của Xuân Diệu cho con người ta thấy được: Thời gian là một cái không bao giờ trở lại, nó như một vòng tuần hoàn, tới rồi đi. Và đi một cách vội vã, mà con người không thể tự xoay chuyển nó được đó chính là nỗi lòng của Xuân Diệu muốn nói tới ở đây. Xuân Diệu muốn khuyên con người chúng ta không nên để thời gian trôi qua một cách vô ích mà phải biết quý trọng, tôn trọng thời gian.

Mở đầu bài thơ, là một nỗi lòng của chính tác giả những động từ tắt, buộc có thể có thể nói nếu như là một đồ vật thì có thể con người làm được, nhưng cái mà tác giả muốn tắt, muốn buộc lại đó là hương thơm, là sức sống cái nắng mới của thiên nhiên của đất trời.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Xem Thêm : Top 4 mẫu Dàn ý phân tích Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc

Qua bốn câu thơ này, tác giả muốn nhấn mạnh rằng cái mà của thiên nhiên đất trời không bao giờ chúng ta giữ nó lại được. Và nó sẽ mãi đi, liên hoàn như một vòng tuần hoàn. Ở những câu thơ còn lại đó là một bức tranh thiên nhiên và số phận của mỗi con người. ở đây tác giả muốn nói khi sống chúng ta phải biết chiêm ngưỡng vẽ đẹp, cuộc sống của thiên nhiên, đừng để nó đó mà không có người nào chiêm ngưỡng hay tận hưởng. những từ ngữ giàu sức phong phú và sống động. của những loài động vật nhỏ bé nhưng đủ để con người ta nhìn nhận và đánh giá về cuộc sống muôn màu của thiên nhiên.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến oanh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Bến cạnh quang cảnh của thiên nhiên đó, là sự ra đi của con người cũng không biết là lúc nào. Khi vui thì thần cửa tới gõ cửa lúc nào không hay có thể nói sự sống chết của con người phụ thuộc vào số phận vận mệnh của người đó. tương tự mình không biết thế cục của mình ra sao thì hãy cồ gắng chiêm ngưỡng những vẻ đẹp của thiên nhiên. Đừng bao giờ để nó trôi đi một cách vội vã và vô ích.

Qua đoạn thơ này, tác giả muốn nói rằng, con người khi còn trẻ phải biết tận hưởng, đừng để thời gian bỏ phí đi. không những thế còn nhấn mạnh khi lớn tuổi rồi thì sự sống chết của chúng ta không biết ra đi vào lúc nào. Vì vậy cần phải tôn trọng trị giá của cuộc sống, tôn trọng thời gian.

Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng – Mẫu 6

Xuân Diệu là ông hoàng của tình yêu, dù đó là tình yêu gì đi chăng nữa thì nó vẫn ngọt ngào đầy xúc cảm. Ông còn được đánh giá là thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới. Những sáng tác, những bài thơ của ông đem tới cho người đọc một sự yêu đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm thèm khát cuộc sống tới mãnh liệt cùng với đó là một hồn thơ mới lạ, mang lại cho độc giả cái nhìn mới mẻ. Trong số đó, tiêu biểu có bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ hay thể hiện tư tưởng đáng quý đó của tác giả, và 13 câu đầu đã để lại những ấn tượng khó quên cho người đọc. Những tư tưởng triết lí cũng vậy mà được gửi gắm thực bụng tự nhiên.

Để mang niềm yêu cuộc sống tới trào dâng, thi sĩ luôn có xúc cảm vội vàng trước cuộc sống ngắn ngủi. Mọi thứ trên đời mang vị ngọt tới nhưng chỉ một lần rồi thôi, ta đâu có đủ thời gian cho những quả ngọt đó được nếm một lần nữa. Không vội vàng, không chạy tới để ôm trọn những gì đang có thì làm sao mà cảm nhận hết vẻ đẹp của đời. Khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ khiến giọng điệu gấp gáp giống như một khá thở tăng tả của một con người đang tràn đầy xúc cảm. Đại từ mà tác giả Xuân Diệu đã đặt ở trước hết là tôi, chứ không phải “ta” hay chúng ta và cùng với đó là động từ “ muốn”- “ tôi muốn. thi sĩ đang thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không trốn tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi trái lại với thơ ca trung đại, rất ít dám thể hiện cái Tôi của bản thân mình. Đây cũng chính là một điểm mới của thi sĩ trong nền văn thơ hiện lúc bấy giờ. từ đó thể hiện khát khao mãnh liệt về cuộc sống

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Yêu cuộc sống này cho nên mọi thứ tác giả muốn làm đó có thể là tắt nắng đi, buộc gió lại. Những từ “ tắt” buộc” được sử dụng cho những điều hữu hình cầm nắm được vậy mà tác giả lại sử dụng cho những sự vật không bao giờ chúng ta có thể làm được. Ta có thể thấy màu vàng của nắng, cảm nhận được khá ấm từ nó, gió có thể thổi qua, táp vào mặt, mơn man da thịt, có thể thấy gió đung đưa bên những cành liễu.. nhưng chẳng bao giờ cầm được nắng nắm được gió. Một điều tưởng dường như vô lí đó nhưng lại trở thành khát khao của tác giả. Những thứ đó để làm gì: “ để hương đời đừng nhạt đi, để màu sắc cuộc sống vẫn nguyên vẹn, không úa tàn”Từng chữ một của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống tới vô bờ, tột cùng tới trở nên cuồng si, tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật cả trong nhịp của câu thơ, thể hiện ở chỗ câu thơ đang năm chữ bỗng chuyển xuống 8 chữ.

Đây là một chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt ta bức tranh xuân tuyệt diệu. Bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây, vừa trùng điệp vừa biến hoá. Những câu thơ gợi ra một con người đang mê man, si mê, cuống quýt trước mùa xuân đang trải ra thế cục. Đó không chỉ là một bức tranh xuân, còn là cách để tác giả nói tới cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi xanh, của tình yêu.

Vì vậy, “ong bướm, yến oanh”được nhắc tới đây, bởi nó gợi ra vẻ lơi lả, tình tứ, và “bướm lả ong lơi “gợi ý niệm về mùa xuân và tình yêu. Khúc nhạc của tình yêu, của những đôi tình nhân và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. không những thế, chữ “của” trở đi trở lại được tác giả sử dụng cùng với “này đây” như một cặp không thể tách rời. Đây là cách Xuân Diệu biểu hiện xúc cảm trước thiên nhiên luôn có sự kết đôi, mọi vật vấn vít lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ đẹp của sự trẻ trung và sức sống tròn trịa có đôi có cặp. Những mĩ từ được sử dụng mang tính gợi hình cao “Hoa nở” trên nền “xanh rì” của đồng nội bát ngát, “lá” của “cành tơ” đầy sức trẻ và sức sống. Mọi thứ đều có cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại được tôn lên trong sự hiệp vần “ tơ phơ phất ” ở sau. Cuộc sống hiện ra trong hình ảnh của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế.

Câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “và này đây”, như thể một người vẫn còn chưa thoả, chưa muốn ngừng lại. Đây không còn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa, ong bướm” mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian – những vật thể không hữu hình. Không chỉ sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao, cách mà Xuân Diệu gieo vào lòng người còn là những thứ mà con người cần phải quý trọng. Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người. Đó chính là vẻ đẹp của “hàng mi” của một đôi mắt đẹp. Nhưng có nhẽ nét độc đáo của 13 câu thơ chính là 2 câu thơ mang tính so sánh cao

Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp.

Hình ảnh so sánh thật thú vị và đầy bất thần, thời gian đẹp nhất của mùa xuân lại được coi như một cặp môi sắp, vừa mang lại sự say mê, sự lôi cuốn mà còn là sự say đi.

Dưới con mắt của kẻ si tình, mùa xuân hiện ra thật đẹp, thật gợi cảm. Nó còn được tác giả đi liền với từ “ngon” mặc dù không ăn được, không chạm được nhưng lại “ngon”. Mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc tới với con người, thời gian trừu tượng mới trở nên sắp gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong xúc cảm của một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hoàn toàn chiếm hữu.

Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng hiến dâng cho tình yêu. Chính vì vậy tác giả mới thốt lên nhưng lại chùng xuống và có vẻ tiếc nuối:

“Tôi sung sướng
Nhưng vội vàng một nửa”

Và rồi ở những câu tiếp theo, tác giả nêu ra vì sao lại sung sướng nhưng lại vội vàng:

Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già.

Cái mới của bài thơ và cả quan niệm của Xuân Diệu trong bài thơ được thấy rõ và phát hiện. Tưởng chừng nó giống như một quy luật thông thường người nào cũng biết nhưng đặt trường hợp này, nó lại là cả một quá trình chiêm nghiệm và nhận thức. Tác giả đã để hai vế tưởng như trái ngược nhau lại trở thành ngang hàng: “đang tới” đối với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Đây là cách nói đầy ấn tượng tạo nên sự trôi mau gấp rút vô cùng của thời gian. Điều này càng có ý nghĩa với một người mà sự sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba, vừa có cảm giác sợ hãi, lại tiếc nuối nhưng cũng có cảm giác như hối thúc phải sống sao cho không phí hoài tuổi xanh, bởi xuân hết thì tôi cũng không còn nữa..

Và xuân hết tức là tôi cũng mất.

Bằng những nét vẽ vô cùng sống động, độc đáo, Xuân Diệu đã tái tạo lại quang cảnh hết sức lãng mạn, một thiên đường dưới mặt đất. Dưới con mắt tinh tế, nhạy cảm của thi sĩ cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống ấy cũng thật ngắn ngủi nên phải sống vội vàng để tận hưởng hết niềm vui và hạnh phúc của cuộc sống. Qua đây tác giả cũng thể hiện và gửi gắm tư tưởng lạc quan yêu đời mà tác giả đã tạo ra cho thế hệ trẻ, cần phải sống, say mê hết mình để cống hiến cho tuổi xanh.

Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng – Mẫu 7

tới với Xuân Diệu – thi sĩ có cội nguồn hòa hợp giữa vùng gió Lào cát trắng cùng với sự chuyên cần của xứ Nghệ.

Cha đằng ngoài, mẹ đằng trong
Ông đồ nghề lấy cô hàng nước mắm.

Cả đời Xuân Diệu là cả đời lao động nghệ thuật không lúc nào ngừng bút. Đối với ông sự sống không bao giờ chán nản. Là con người xứ Nghệ chuyên cần, nhẫn nại, lao động và sáng tạo nghệ thuật. Xuân Diệu là thi sĩ mới nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật trong nền văn học hiện tại. “Vội vàng” là một trong những tác phẩm thơ xuất xắc của ông. Bài thơ cũng là lời thúc giục sống mãnh liệt, sống hết mình. Hãy quý trọng từng giây từng phút của thế cục mình, thể hiện khát vọng sống của tác giả. tới với 13 câu thơ đầu chúng ta sẽ thấy rõ được sự táo tợn và đầy lãng mạn của thi sĩ. Bởi vậy, ông được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình.”

Tôi muốn tắt nắng đi
……………………………..
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

“Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ”, là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mệnh tháng tám, bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi tới cho người đọc qua từng phần của bài thơ, theo mạch xúc cảm của tác giả. Ngay từ đầu ta bắt gặp một thái độ sống:

Tôi muốn tắt nắng đi
………………………………
Cho hương đừng bay xa

Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muốn kì lạ của thi sĩ. Ấy là ước muốn quay ngược quy luật tự nhiên, một ước muốn không thể, vô cùng táo tợn. Tôi muốn “tắt nắng”, “buộc gió” là những điều vô cùng kì dị, mà vô cùng độc đáo mà chỉ có mình Xuân Diệu mới nghĩ ra. Xuân Diệu muốn tắt nắng, muốn buộc gió để giữ lại những cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương, của cả thời gian. Tác giả chỉ muốn giữ lại thời gian cho riêng mình, để thi sĩ có thể ngắm nhìn và tận hưởng những điều đó. thi sĩ đã đẩy cái tôi chủ quan của mình để làm thay đổi được quy luật của tự nhiên. Muốn níu giữ thời gian để ngưng động cái không gian, ý tưởng đó táo tợn nhưng vô cùng lãng mạn. Điệp ngữ “tôi muốn” làm vượt trội cái khát vọng mãnh liệt của cuộc sống bởi thiên nhiên mùa xuân đầy tươi đẹp và đầy sức sống.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành to phất phới.

Cả không gian như được tô điểm một màu xanh non tươi mơn mởn, màu xanh của đồng nội, màu xanh của lá non, màu xanh của cành to phất phới, phối hợp hài hòa làm cho bức tranh thiên nhiên dạt dào sức sống, sinh động, có hồn và trở nên tươi mới hơn nhờ vào tiếng hót của loài chim yến oanh.

Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.

Tiếng chim chứa lên tưng bừng rộn ràng tạo nên một khúc nhạc tình si trong không gian tràn ngập ánh sáng. Mùa xuân tưng bừng, mùa xuân rộn ràng đã dần tới cho thi sĩ một niềm vui, niềm thèm muốn nắm bắt và muốn tận hưởng mỗi sáng.

Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa
háng giêng ngon như một cặp môi sắp

Cảm nhận của thi sĩ cũng thật độc đáo khi tới với con người. Xưa nay người ta chỉ nói mùa xuân đẹp, mùa xuân tươi và tràn đầy sức sống nhưng chưa người nào nói “mùa xuân ngon”. thi sĩ Xuân Diệu, với ông mùa xuân không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà tác giả còn sử dụng giải pháp so sánh để so sánh thật cụ thể “cặp môi sắp”. Điều đó thể hiện sự nồng nàn trần thế của con người. Những cặp môi sắp ấy, nó đánh dấu vào thời gian, xuân đã trở thành một quả nhân mà người nghị viên là tình nhân. Chính ý nghĩ đó đã trẻ hóa toàn cầu già nua, cũ kĩ, làm cho nó trở nên thật mới mẻ. Bức tranh thi sĩ vẽ ra như một thiên đường đầy mật ngọt, nó không tồn tại, không xa rời, không mờ ảo mà nó hiển hiện với khá thở với tiết điệu sống ngay giữa thế cục trần thế để cho con người mở lòng mình ra mà tận hưởng.

Với Xuân Diệu cái gì cũng mới lạ và bằng cặp mắt xanh non của ông của cái tôi tư nhân, Xuân Diệu đã phát hiện ra toàn cầu này đẹp nhất vẫn là vì có con người. thế cục đẹp nhất là vào lúc tuổi xuân. Và con người chỉ tận hưởng được điều ấy lúc còn trẻ. Song tuổi xanh sẽ tàn phai theo thời gian vì vậy mà ông phải sống vội vàng và gấp gáp.

Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

tới đây ta đã hiểu được vì sao mà thi sĩ muốn can dự vào những quy luật muôn thuở của tạo hóa để không phải là một ước muốn ngông cuồng nông nổi. Mà là khát vọng cháy bỏng của thi nhân, ước muốn bất tử hóa của cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vị của cuộc sống.

Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo tợn mà trước đây chưa từng có. tới với “Vội Vàng” Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống tặng thưởng. Hãy tranh thủ lúc còn trẻ để được lợi đầy đủ nhất. Ông không quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho thế cục. Và trong thế cục của ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng tận hưởng. Đối với mỗi người chúng ta trong cuộc sống ngày nay không phải người nào cũng biết sống có ước mơ, có hoài bão, thỉnh thoảng chỉ là sống để tồn tại, sống lạc loài. Đã sống là phải biết sống có mục đích, có ước mơ, hoài bão. lúc đó ta mới trông thấy cuộc sống này ý nghĩa hơn, tốt đẹp hơn.

Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng – Mẫu 8

Trong suốt giai đoạn mà phong trào thơ mới nở rộ một cách mạnh mẽ với sự ra đời của những cây bút có sức sáng tạo, sức trẻ nhường như làm lấn lướt cả một nền thơ cổ vốn ngự trị trên quốc gia màu nghìn năm. Trong đó người ta không thể không nhắc tới những cái tên tiêu biểu như Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên,… mỗi người một vẻ, người nào cũng tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Và Xuân Diệu đã tới, đã đem tới cho làng thơ mới một làn gió lạ, nhận luôn cái danh hiệu “thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới” mà Hoài Thanh đã viết những câu rất thú vị như sau: “Bây giờ khó mà nói hết được cái ngạc nhiên của làng thơ Việt Nam hồi Xuân Diệu tới. Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân và chúng ta đã rụt rè không muốn làm thân với con người có phương thức phương xa ấy,…”. Thơ Xuân Diệu sở dĩ mới lạ là ở cái cách người xây dựng và khai thác chủ đề, giữa một loạt những thi sĩ mới tương tự, nhưng chỉ có một mình Xuân Diệu có cái giọng thơ nồng nàn, đắm say khi nói về mùa xuân về tình yêu về thế cục tương tự. Có thể nói rằng “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu đắm say tình yêu, đắm say cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng thế cục ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn, tha thiết”. Ở Vội vàng người ta thấy rõ được cái chất thơ ấy của Xuân Diệu, đặc biệt là 13 câu thơ đầu, chính là cái cách thi sĩ cảm nhận và tận hưởng bức tranh thiên nhiên, bức tranh mùa xuân, kèm theo đó là bức tranh tình yêu một cách nồng nàn và tha thiết vô cùng.

Thơ Xuân Diệu không phải người nào cũng cảm nhận được cái hay của nó, bởi đôi lúc người ta thấy nó sao dồn dập, sao vội vàng và thỉnh thoảng quá đỗi “trần truồng” khiến những thi sĩ thời ấy khó chấp nhận, bởi nó mới lạ, mang âm hưởng Pháp nhưng khi đọc vào lại thấy đậm vị quê hương. Nó giống như một món ăn vị lạ, khó để nói thành lời, mà cái người ta không diễn giải được thì người ta sẽ gạt đi. trái lại với những người nào đã yêu thơ Xuân Diệu thì lại mê lắm, và đa số ấy là những người trẻ tuổi, họ có chung một nỗi niềm muốn sống “nhanh” muốn tận hưởng cho trọn hứng của thi sĩ. Và “với một thi sĩ còn gì quý bằng sự hoan nghênh của tuổi xanh”.

Ngay từ những dòng thơ đầu Xuân Diệu đã không ngần ngại mà bộc lộ cái niềm thèm khát mãnh liệt của mình giữa thế cục.

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.

Đó là những thèm khát có phần ngông cuồng và táo tợn, đúng với cái cá tính của Xuân Diệu. thi sĩ muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, muốn đi trái lại với quy luật của đất trời, bởi trên tất cả Xuân Diệu ý thức được rằng, chẳng có màu nắng nào đẹp bằng nắng của mùa xuân, cũng chẳng có gì thanh mát, tuyệt vời như hương hoa cỏ thoảng đưa trong gió biếc. Thế nên ông nuối tiếc lắm, nếu như như nắng tàn phai, nếu như như gió cuốn hết hương hoa ngọt ngào, thì còn đâu cái mùa xuân tươi đẹp, xinh xẻo – thứ mà ông vẫn hằng trông đợi, thèm khát và níu giữ cả thế cục bằng tất cả đắm say, tha thiết nữa. Chính vì vậy, thi sĩ đã bộc lộ cái khát khao cháy bỏng được đi trái lại với quy luật khó tính của tạo hóa, vượt lên trên tầm vóc của đất trời vũ trụ để lưu lại cho đời những thứ tuyệt vời, tốt đẹp nhất. Ấy là màu nắng nhàn nhạt, êm dịu đượm sắc xuân, ấy là hương thơm diệu kỳ của muôn đóa hoa rực rỡ, đại diện cho một trời xuân đang nở rộ. Mà chính ra là Xuân Diệu đang cố “tắt nắng đi”, đang muốn “buộc gió lại” để hòng ôm ấp lấy chúng mà thưởng thức một mình, chứ đã nghĩ tới người nào gì cho cam! Xuân Diệu chính là thi sĩ có cái lòng “ích kỷ” kỳ lạ thường như thế, đi tranh giành, thèm khát thứ mà hậu thế chẳng mấy người để mắt một cách cuống quýt và vội vã, khiến người ta thương mà không trách được. Có thể nói rằng, ở trong bốn câu thơ đầu người ta thấy nổi lên hai cái “tôi” rất thú vị, một cái tôi ngông cuồng, mạnh mẽ dám thách thức cả tạo hóa, đất trời để đạt được khát vọng tư nhân. Và một cái tôi cũng rất đỗi thơ ngây, hồn nhiên như một đứa trẻ, xốc nổi và có những mộng tưởng rất đỗi hoang đường, nhưng lại rất trẻ trung và tràn trề sức sống. Tổng hòa hai cái tôi tưởng dường như riêng biệt ấy lại mang lại cho thi sĩ một chân dung riêng, một màu sắc riêng trong toàn cầu thi ca vốn lắm kẻ nhân tài này.

Sau 4 câu thơ mở đầu, bộc lộ khát vọng mãnh liệt, nồng nàn của thi sĩ về mùa xuân thì 9 câu thơ tiếp theo chính là bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong đôi mắt tình tứ của Xuân Diệu.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”

Bức tranh thiên nhiên mùa xuân của một con người yêu mùa xuân như Xuân Diệu quả thực có những cái tinh tế, những cái đẹp khác với người thường. thi sĩ cảm nhận mùa xuân thông qua nhiều giác quan, để đưa ra những nét vẽ trung thực và sống động và cũng có một sự logic nhất định. Đồng thời thông qua âm điệu của bài thơ, cùng với điệp khúc “Này đây…” người ta dễ dàng liên tưởng tới tới một khúc ca mùa xuân với những âm điệu rộn ràng, mà tác giả là người có tâm hồn khoáng đạt, đắm say với từng lời ca. Mở đầu người ta thấy bức tranh thiên nhiên hiện lên với hình ảnh bướm dập dờn tung cánh khoe điệu vũ, ong thì mải miết tìm kiếm mật ngọt, thứ vốn là kết tinh quý giá của tự nhiên. Và nếu như đã có ong, có bướm, lại có cả mật ngọt thì dĩ nhiên hình ảnh hoa cỏ rực rỡ, và “đồng nội xanh rì” mở ra không gian thiên nhiên rộng lớn là không thể nào thiếu được.

Đã có hoa, thì đâu thể thiếu lá để tô điểm thêm cho bức tranh được hoàn chỉnh, hình ảnh “lá của cành tơ phơ phất”, người ta thấy một cái gì đó mềm mại lắm, tươi trẻ lắm, gợi ra một mùa xuân vừa mới chớm, rất tình tứ và gợi cảm. Về phần hình là vậy, về phần âm thanh, Xuân Diệu đã rất tinh tế khi chọn lựa “khúc tình si” của yến oanh – vốn là loài chim tượng trưng cho mùa xuân làm bản nhạc đệm cho bức tranh thiên nhiên thêm rộn ràng. Thế nhưng tất cả sẽ thật âm u, nếu như thiếu đi cái ánh sáng, cái màu nắng nhàn nhạt của đất trời lúc vào xuân. Xuân Diệu viết “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, ánh sáng chớp hàng mi là gì sao nghe lạ quá, nhưng đứng dưới cương vị của thi sĩ, đó là thứ ánh sáng tuyệt vời và rét mướt, tươi đẹp biết bao, để người ta không nỡ lòng tránh đi mà đứng ngay giữa đất trời để tận hưởng cảm giác nắng bao trùm thân thể, thấy được nắng xuyên qua rèm mi buông. Không quá gắt, không quá chói như nắng hạ, cũng không âm u, ưu sầu như đông, đó là thứ ánh sáng vừa đủ mỹ lệ, vừa đủ rét mướt làm tôn lên vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong lòng tác giả. Xuân Diệu vẽ vài nét vậy thôi, thế nhưng người ta đã liên tưởng tới một khu vườn đậm sắc, đậm hương với những gam màu tươi trẻ, với những âm thanh rộn ràng, và với cả thứ ánh sáng rét mướt, dịu dàng đáng thèm khát. Có thể nói rằng xuân đẹp như thế, thì có tiếc gì mà người ta không thèm khát, không ước vọng chứ.

Và dĩ nhiên rằng trong thơ của Xuân Diệu thì không thể nào thiếu vắng đi dáng hình của tình yêu được, bởi thiếu tình yêu thì nhường như bức tranh thiên nhiên mùa xuân vốn đại diện cho tuổi xanh cũng trở nên nhạt nhòa, thiếu sức sống. Cái tài của Xuân Diệu ấy là lồng ghép ba từ “tuổi xanh” “mùa xuân” và “tình yêu” vào trong một ý thơ, người ta không cần đọc nhiều nhưng cũng đã thấy đủ cả ba yếu tố ấy. Xuân Diệu luôn để cho bức tranh của mình được tương xứng, sự vật nào cũng có đôi có cặp và phát ra những tín hiệu của tình yêu của tuổi xanh. Ví như ong thì dĩ nhiên là đi đôi với bướm, và thi sĩ gợi ra yếu tố tình yêu trong cụm “tuần tháng mật” tức là chỉ khoảnh khắc ngọt ngào hạnh phúc nhất của những lứa đôi yêu nhau đắm say. Hoặc là hoa thì cũng thành một cặp với “đồng nội xanh rì”, rất tương xứng, gam màu rực rỡ của hoa lá phối hợp với màu xanh bát ngát của đồng nội cỏ, gợi ra nghĩ tới một tình yêu vừa dịu dàng, êm đềm, vừa có những xúc cảm cháy bỏng, nồng nàn. “Lá của cành tơ phơ phất” ta lại nghĩ tới những con người trẻ tuổi, đang theo đuổi tình yêu, kẻ quyến rũ, thướt tha người trầm mê si mê, cũng rất có phong vị yêu đương.

tới “yến oanh” thì đã quá rõ ràng, bởi chúng vốn đã là một cặp tình nhân chung thủy, biết bao đời nay người ta vẫn thường tụng ca, khía cạnh tình yêu ở đây lại được bộc lộ qua âm sắc của “khúc tình si”, ngọt ngào, sâu sắc và đầy đắm say. Cuối cùng tới câu “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, câu thơ mang lại cho chúng ta nhiều liên tưởng thú vị? Ta cứ tạm phân ra hai trường hợp, nếu như người có rèm mi ấy là một cô gái xuân sắc, đang độ đôi mươi, thì chắc hẳn là người mà Xuân Diệu hằng để ý, hằng thèm khát một tình yêu tuyệt vời. Hoặc nếu như như là thi sĩ, thì có nhẽ rằng tình yêu của ông chính là mùa xuân, chính là thế cục tươi trẻ đang hằng hiện trước mắt. Và có nhẽ đúng thế thật tình yêu trong thơ của Xuân Diệu không chỉ hữu hạn trong tình yêu lứa đôi, mà nó còn là tình yêu với thiên nhiên, với cây cỏ, tình yêu với thế cục với tuổi xanh một cách sâu sắc và thấm thía. Thế nên khi thấy Xuân Diệu tiếc nuối, thèm khát thì thường thấy những thứ ấy trở đi trở lại trong thơ ông. Nhận định này có thể dễ dàng chứng minh qua hai câu thơ cuối đoạn “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa/ Tháng Giêng ngon như một cặp môi sắp”.

Tôi biết có rất nhiều người, mỗi buổi sớm thức dậy đối với họ là sự mỏi mệt đang sắp có, công việc và sức ép cuộc sống chồng chất, người ta đôi lúc chỉ muốn được nhắm mắt xuôi tay thêm chút nữa. Nhưng Xuân Diệu thì khác, ông có một trái tim nhiệt huyết, nồng nàn, một niềm tin yêu vào cuộc sống, thế nên đối với ông mỗi một buổi sáng đã là một niềm vui quý giá, và cái người ta cần làm là tận hưởng nó cho thỏa sức. không những thế niềm thèm khát mãnh liệt của thi sĩ với mùa xuân cũng tương tự như cái cách mà người trẻ theo đuổi tình yêu vậy, rất nồng nàn, rất đắm say thế nên tháng Giêng tháng của mùa xuân nó cũng hấp dẫn, căng tràn sức sống như đôi môi ngọt ngào căng mọng của thiếu nữ độ hai mươi vậy.

tương tự có thể thấy trong 13 câu thơ đầu Xuân Diệu vừa bộc lộ cái tôi tư nhân đặc biệt của mình đồng thời cũng thổ lộ nỗi lòng thèm khát mãnh liệt về mùa xuân tình yêu và tuổi xanh thông qua bức tranh quang cảnh mùa xuân đầy đủ hương, sắc, vị. Thông từ đó tác giả còn cho chúng ta trông thấy một chân lý rằng cái đẹp của tạo hóa luôn ngự trị ở xung quanh chúng ta, chứ không phải là một chốn thần tiên, cõi phật nào cả, vấn đề là con người có đủ tình yêu, sự tinh tế để cảm nhận và tận hưởng chúng hay không mà thôi.

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng – Mẫu 9

Xuân Diệu là thi sĩ của mùa xuân, tình yêu và tuổi xanh. Đây cũng là ba chủ đề chính trong sự nghiệp thơ ca của ông trước cách mệnh tháng Tám. Với mười ba câu thơ trước hết trong bài thơ “Vội vàng”, thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống tới mãnh liệt.

Có thể nói trong thơ ca trung đại ít có thi sĩ nào dám khẳng định cái tôi tư nhân của mình một cách táo tợn, và tới với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ một cách vô cùng độc đáo:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”.

Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi xanh là khoảng thời gian đẹp nhất trong thế cục mỗi con người. Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân. Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất. Thi sĩ thèm khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương. thèm khát “tắt nắng”, “buộc gió” thể hiện ý thức làm chủ thiên nhiên của con người. Điều này vừa hợp lí bởi thi sĩ “yêu tha thiết cái chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh) nhưng cũng vừa vô lí và không thể thực hiện được bởi con người làm sao có thể cưỡng lại được quy luật của tạo hóa, làm sao nắm bắt, điều khiển được những thứ vốn là mỏng manh, ngắn ngủi, không tồn tại được mãi mãi. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được những ước muốn đó khi có phép nhiệm màu. Đồng thời thèm khát này cũng thể hiện sự ham sống xốc nổi tới mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông. Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên thi sĩ có thèm khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời.

Ý thơ như trào dâng theo xúc cảm ở thể ngũ ngôn đã lột tả được ước muốn thực bụng mà táo tạo của “thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới” (Hoài Thanh). Đặc biệt, sự xuất hiện của chủ thể trữ tình, của cái tôi tư nhân đã thoát ra khỏi những hệ thống những quy ước, ràng buộc của văn học trung đại. Nhân vật trữ tình xưng “tôi” một cách đầy tự tin và quyết đoán. Cái tôi tư nhân ấy không ẩn sau cái “ta” chung của cộng đồng, dân tộc mà nó đứng riêng lẻ đầy khí chất bởi với Xuân Diệu, cái tôi là lẽ sống:

“Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bạn bè nổi cùng ta”.

(Hy Mã Lạp Sơn)

Sự lặp lại về cấu trúc và phương thức ở những câu thơ 1 – 3, câu thơ 2 – 4 cùng tiết tấu câu thơ nhanh, dồn dập đã thêm một lần nữa tô đậm ước muốn đoạt quyền tạo hóa của Xuân Diệu.

nếu như những thi sĩ trung đại gửi lòng mình vào chốn bồng lai tiên giới thì Xuân Diệu lại phát hiện ra một thiên đường trên mặt đất có ngay trong tầm tay với của con người:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
…………….
Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”.

Những dòng thơ tiếp theo là sự lí hương nguyên nhân vì sao thi sĩ lại muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Con mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ về mùa xuân đã trông thấy vẻ đẹp của thế cục, thiên nhiên với những thực đơn phong phú. Mùa xuân của ong bướm, cỏ cây, hoa lá, mùa xuân của tạo vật tràn trề sức sống. Mùa xuân được phát hiện bằng vẻ đẹp của tháng giêng với những gì tinh túy nhất. Có thể nói đó là bức tranh tuyệt đẹp, là khu vườn tình ái đầy hương sắc của mùa xuân trên mặt đất. Chỉ có Xuân Diệu mới có thể nhìn thấy được “tuần tháng mật” của ong bướm, thấy được sắc màu xanh non của cành tơ với những chiếc lá đang “phơ phất”. Tất cả vẻ đẹp căng tràn, tươi nguyên ấy như được trưng bày ra trước mắt thi sĩ và độc giả qua điệp từ “này đây”. Chỉ có người thi sĩ ấy mới thấy được những bông hoa của đồng nội và nghe được khúc tình si của chim yến, chim anh. Và cũng chỉ có ông mới cảm nhận được: “Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”.

Mùa xuân đẹp và quyến rũ như đôi môi người thiếu nữ và tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Tác giả sử dụng từ “ngon” để thể hiện một khát khao, một cảm nhận riêng tới lạ thường mà ta chỉ có thể bắt gặp ở Xuân Diệu. Ông như người họa sĩ tài năng đang đứng trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp để chỉ cho chúng ta thấy vẻ tươi non, nõn nường của mùa xuân. Mùa xuân đẹp và tình tứ, vạn vật đều có đôi, gắn bó, vấn vít với nhau một cách thân thiết. Lứa đôi gắn bó với nhau trong sự ngọt ngào, say đắm, hương gắn kết với hoa để khoe sắc trên đồng nội “xanh rì”. Những cánh yến oanh trên bầu trời đang chao liệng để gửi gắm lời yêu thương cho nhau mỗi độ xuân về.

Tác giả đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp để nét vẽ của mình in sâu trong tâm trí người thưởng thức. Thiên đường, bữa tiệc của thiên nhiên có ngay trong cuộc sống này, có ngay trong tầm tay với của con người. Đoạn thơ như một bản đàn du dương mà Xuân Diệu sử dụng để “đốt cảnh bồng lai và đưa người nào ấy về hạ giới” (Hoài Thanh), về với nơi ngự trị của mùa xuân, tình yêu và tuổi xanh. giải pháp liệt kê khiến những vẻ đẹp của mùa xuân được phơi bày một cách sinh động và trung thực.

Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi non tới thế. Sự sống như bày ra một bữa yến tiệc mà mỗi chúng ta là một vị khách được mời tới tham gia. thi sĩ đã “say đắm với tình yêu, tích cực với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim” (Thế Lữ). Ông đã thức tỉnh tất cả những giác quan để nếm vị ngọt, mùi thơm nồng nàn của mùa xuân và sự sống “mơn mởn”. Đôi mắt tinh tế của Xuân Diệu đã nhìn thấy sức sống tươi mới, một sức trẻ khỏe khoắn, một mùa xuân phơi phới làm mê đắm lòng người. thi sĩ có ước muốn níu giữ tất cả vị “ngon” của tình yêu và mùa xuân khi nó đang trong thời kì hương sắc nhất.

Xuân Diệu đang chìm đắm trong toàn cầu diệu kì của nhân gian, vũ trụ thì chợt bừng tỉnh:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Tác giả đặt mình trong hai trạng thái nửa “sung sướng” thoả mãn nửa “vội vàng”, xót xa. Dấu chấm ngăn cách giữa dòng thơ tạo nên hai câu đặc biệt. Thi sĩ trông thấy vẻ đẹp vô giá của thế cục nhưng ngay tức tốc cũng biết rằng thời gian là không chờ đợi. Dấu chấm làm mạch xúc cảm bị đứt đoạn, Xuân Diệu đang ngây ngất trong thiên đường mùa xuân thì chợt trông thấy thế cục con người rất ngắn ngủi và mỏng manh. Đang ở trong khu vườn trần thế đầy tình tứ mà Xuân Diệu đã lo sợ cuống cuồng những vẻ đẹp sẽ tan biến, mất đi trong hư vô mà không đọng lại chút dư ba. thi sĩ muốn chạy đua với thời gian, muốn hòa tan mình vào thiên nhiên để trường tồn cùng thời gian.

Mùa xuân đã trở thành người bạn tri kỉ của Xuân Diệu, luôn được Xuân Diệu chào đón bằng tình yêu nồng nhiệt trong bất cứ hoàn cảnh nào:

“Xuân ở giữa mùa đông khi nắng hé
Giữa mùa hè khi trời biếc sau mưa
Giữa mùa thu khi gió sáng bay vừa
Lùa thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng”.

(Xuân không mùa)

Đây là mùa để ấp ủ, gieo mầm gặp gỡ, giao hòa của vạn vật và là nơi nảy nở tình yêu của mỗi cá thể. Ông quan niệm rằng: “Tình không tuổi và xuân không tháng ngày” (Xuân không mùa) nhưng cuộc vui nào cũng tới hồi kết thúc, hoa nở rồi cũng tàn theo quy luật của tạo hóa. nhường như biết trước được quy luật khắc nghiệt ấy nên Xuân Diệu “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”. thi sĩ đã trông thấy được bước đi vô tình mà tàn nhẫn của thời gian nên ông không chờ một điều gì đó qua đi mới cảm thấy hối tiếc, ông không đợi mùa xuân đi hết chặng đường của mình rồi mới thương nhớ, tiếc nuối.

tụng ca vẻ đẹp của mùa xuân qua mười ba câu đầu bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu đã khẳng định rằng không nơi nào đẹp hơn khu vườn trần thế ở mặt đất. Những vần thơ của ông là “nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Được sống là niềm hạnh phúc, khát khao lớn nhất của mỗi chúng ta, vì vậy, chúng ta cần biết trân trọng sự sống và có thái độ sống tích cực.

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng – Mẫu 10

Xuân Diệu được coi là thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới thời bấy giờ, với hồn thơ đại diện cho tiếng nói thiết tha, tình yêu cuộc sống, khát khao giao cảm với đời. Thơ Xuân Diệu có sự tinh tế, gợi cảm, độc đáo từ chất liệu tới văn pháp thi ca. “Vội vàng” là một trong những bài thơ hay nhất mà thi sĩ dành tặng cho thế gian này. Bài thơ là một nguồn xúc cảm trào dâng, là tuyên ngôn sống của một con người thèm khát yêu đời. Cùng phân tích 13 câu đầu trong bài thơ Vội Vàng để thấy rõ hơn tình yêu thiết tha, niềm đắm say mãnh liệt của tác giả với cuộc sống tươi đẹp nơi trần thế.

Mở đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận ngay được luồng khí vui tươi, sôi nổi. Ở đây, tác giả thử muốn đoạt quyền tạo hóa.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Sử dụng điệp ngữ “tôi muốn” cùng với thể thơ ngũ ngôn có tiết tấu nhanh, mạnh, dứt khoát đã góp phần thể hiện cái ước muốn mãnh liệt của thi sĩ. Đó là ước muốn tắt nắng để “màu đừng nhạt mất”, buộc gió để “hương đừng bay đi”. thi sĩ muốn níu giữ thời gian để màu sắc và hương thơm còn mãi với thế cục, để giữ mãi thời xuân của tạo vật. Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp mãi tỏa sắc lên hương. Có thể nói đây là ước muốn phi lý của một tâm hồn yêu đời với thái độ trân trọng, nâng niu và giữ gìn.

Những câu thơ tiếp theo, Xuân Diệu trình bày bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần thế đang mơn mởn non tơ. Đồng thời thể hiện khát khao giao cảm với đời, sự mong muốn chiếm lĩnh vẻ đẹp thiên nhiên của thi sĩ.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Như lời mời gọi, điệp ngữ “này đây” được lặp đi lặp lại 5 lần ở đoạn thơ trên, vừa nói lên sự giàu có, phong phú của thiên nhiên vừa thể hiện cảm giác hoan hỉ, vui sướng của tác giả. “Này đây” là sự hiện hữu của hương sắc thế cục trần thế ngay trong lúc này, sắp gũi ngay trước mắt chứ không phải xa xôi, không phải ở tương lai hay quá khứ, lại càng không phải ở kiếp khác.

Điệp từ “của” mang tính chất kết nối khiến câu thơ trở lên mới lạ hơn. Sau từ “của” bức tranh thiên nhiên tươi đẹp nơi thiên đường trần được thể hiện thật rõ nét, khu vườn xuân cũng là khu vườn tình yêu ngập tràn ân ái hạnh phúc. Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng trao gửi sắc hương, khiến lòng người ngây ngất.

thi sĩ luôn lấy con người làm chuẩn mực của cái đẹp, tạo nên vẻ đẹp riêng trong bức tranh xuân của thi sĩ. Tuần tháng mật của yêu thương cũng trở thành mùa vui của ong bướm dặt dìu, cành tơ phơ phất đầy sức sống, tiếng hót say sưa của chim yến, chim oanh trở thành khúc tình si, say đắm lòng người và ánh sáng xuân lướt qua hàng mi diễm lệ của người đẹp kiều diễm.

Mỗi buổi sớm, thần vui hằng gõ cửa

Với tâm hồn bay bổng và trí tưởng tượng phong phú, thi sĩ đã tạo ra sự bất thần đầy thú vị bởi liên tưởng hết sức độc đáo. Hình ảnh “thần vui hằng gõ cửa” gợi lên hình tượng mặt trời hoặc cũng có thể là một vị thần mang niềm vui tặng thưởng cho thế gian vào mỗi sớm sớm mai, đánh thức mọi người bằng những niềm vui để tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống tươi đẹp. Với Xuân Diệu mỗi ngày được sống, được ngắm nhìn ánh dương, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày hạnh phúc ngập tràn.

Tiếp nối niềm hoan hỉ vui sướng đó, thi sĩ đã viết tiếp câu thơ đầy sự tinh tế:

Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp

Đây là câu thơ mới mẻ, hiện đại, thể hiện được sự hấp dẫn của mùa xuân bằng so sánh vô cùng độc đáo. Có thể nói Xuân Diệu là người trước hết “tỏ tình” với thiên nhiên. Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với “cặp môi” căng tràn tươi trẻ và quyến rũ. Từ “ngon” được thốt lên đầy khát khao, thi sĩ đã huy động mọi giác quan: từ thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác để tận hưởng vẻ đẹp thiên nhiên, thế cục này. “Tháng giêng” là một khái niệm thời gian vô hình, được tác giả so sánh với cặp môi sắp đầy táo tợn đã trở nên trẻ trung hữu hình. Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ, lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Câu thơ bị ngắt làm hai, thể hiện niềm vui không trọn vẹn. Xuân Diệu trông thấy rằng điều sung sướng ấy thật ngắn ngủi biết bao. Đang thỏa thuê trong bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” sau đó ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”. Dự cảm mơ hồ về sự phong thanh, ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống vội vàng tận hưởng.

Hai câu thơ như cánh cửa khép mở tâm trạng vừa vồn vập đắm say trong vẻ đẹp của cuộc sống, tình yêu vừa có linh giác bất an, lo lắng của thi sĩ. Lo lắng vì thời gian qua mau, tuổi xanh đã đi thì sẽ không trở lại. Qua đây, phải nói rằng Xuân Diệu là thi sĩ của những giác quan tinh tế về thời gian, không gian.

Qua phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội Vàng, chúng ta trông thấy rằng Xuân Diệu đã đem tới một thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn: Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi xanh và tình yêu. Thiên đường không đâu xa mà chính là cuộc sống giữa thiên nhiên tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc.

Để hiểu sâu sắc tình yêu của Xuân Diệu với thiên nhiên qua đoạn 1 bài Vội vàng thì những em có thể xem thêm bài văn mẫu Cảm nhận 13 câu thơ đầu Vội vàng – Xuân Diệu nữa nhé!

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng – Mẫu 11

Xuân Diệu là thi sĩ của tình yêu và tuổi xanh. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mệnh, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trở thành “thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới”. Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi xanh, tình yêu. Tác phẩm để lại dấu ấn về nội dung và nghệ thuật đặc sắc mà tiêu biểu là đoạn thơ sau đây: “Tôi muốn tắt nắng đi … Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Thiên đường là ở ngay trên mặt đất. Vì vậy hãy yêu mến, hãy gắn bó và sống hết mình với cuộc sống thực tiễn đầy tươi vui này. Nó bộc lộ niềm ham sống, khát sống, tận hưởng tới vô bờ và tuyệt đích của thi nhân:

“Ta ôm bó cánh tay ta làm rắn
Làm dây đa quấn quít cả mình xuân
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”

Đoạn thơ mở đầu bằng bốn câu thơ ngũ ngôn chứa đựng những khát vọng mãnh liệt và táo tợn của thi nhân:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Bốn câu đầu có nhẽ là độc đáo nhất trong bài thơ vì chỉ riêng nó là thể ngũ ngôn. Nó là thể thơ thích hợp cho việc thể hiện những xúc cảm vồn vập của Xuân Diệu bởi câu thơ ngắn lại giàu tiết điệu. Điệp ngữ “tôi muốn” được nhắc lại hai lần cùng với đó là hai động từ mạnh “tắt, buộc” đã làm vượt trội thèm khát của thi sĩ. Đó là thèm khát “tắt nắng, buộc gió” để giữ lại màu hoa “Cho màu đừng nhạt mất” để giữ lại sắc hương “ cho hương đừng bay đi”. Đó là khát vọng cướp đoạt quyền năng của tạo hóa để buộc hương hoa tươi thắm mãi bên đời. Ngông cuồng hơn cả là thi sĩ muốn vũ trụ ngừng quay, thời gian ngừng lại để thi nhân tận hưởng được những phút giây tuổi xanh của đời mình. Bởi thi sĩ sợ” tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại”, sợ ”đời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn”. Suy cho cùng khát vọng ấy của Xuân Diệu thật ngông cuồng nhưng cũng rất hợp lí.

Bảy câu thơ tiếp theo, với tâm hồn khát sống, khát yêu, tận hiến, tận hưởng và khát khao giao cảm mãnh liệt, Xuân Diệu đã khám phá ra vẻ đẹp xuân tươi phơi phới, đầy tình tứ ở những cảnh vật thiên nhiên thân thuộc quanh ta:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”

Bảy câu thơ trên là một bức tranh thiên nhiên mùa xuân được vẽ nên bằng một hồn thơ có “Cặp mắt xanh non biếc rờn”. Cảnh vật đang vào độ thanh tân, diễm lệ. Bức tranh tụ hội đầy đủ hương thơm, ánh sáng và màu sắc, âm thanh (đây chính là phép tương giao giữa những giác quan mà Xuân Diệu học được ở thơ ca phương Tây). Cảnh vật hiện lên đều có đôi, có cặp:” Ong bướm- tuần tháng mật” ;“Hoa- đồng nội xanh rì” ;” lá- cành tơ” ;” yến oanh- khúc tình si”;…

Điệp ngữ ”này đây” được nhắc lại nhiều lần. Từ ”này đây” lại là từ chỉ trỏ. Xuân Diệu như đang đứng trước bức tranh và liệt kê cho ta thấy vẻ đẹp tươi non, nõn nường của mùa xuân. Thi sĩ như muốn nói với chúng ta rằng: ”Sao người ta cứ phải đi tìm chốn Bồng Lai tiên giới ở mãi chốn mung lung hão huyền nào? Nó ở ngay giữa cuộc sống quanh ta”. Thiên nhiên như một bữa tiệc trần gian đầy những thực đơn quyến rũ: Ở đó có cảnh ong đưa và bướm lượn, tình tứ ngọt ngào như “tuần tháng mật”. Màu hoa trở nên thắm sắc ngát hương hơn “giữa đồng nội xanh rì”. Cây cối nảy lộc đâm chồi tạo nên những “cành tơ” với những chiếc lá tươi non phất phơ tình tứ. Điểm vào phong cảnh ấy là tiếng hót đắm say của loài chim yến oanh đã tạo nên “khúc tình si” say đắm lòng người.

Cặp mắt “xanh non biếc rờn” của Xuân Diệu còn mang lại cho người đọc một nguồn năng lượng mới từ mùa xuân: ”Và này đây ánh sáng chớp hàng mi/ Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa”. Ánh sáng buổi sớm mai như phát ra từ cặp mắt đẹp vô cùng của nàng công chúa có tên là rạng đông. Nàng vừa tỉnh giấc nồng suốt một đêm qua, mắt chớp chớp hàng mi rồi bừng nở ra muôn vàn hào quang. Chính ánh sáng ấy đã tưới lên cảnh vật càng làm cho bức tranh thiên nhiên giống như một nguồn sức sống chảy dào dạt xung quanh cuộc sống của con người. Thế mới hiểu những thèm khát của Xuân Diệu là đúng:

Xuân Diệu đã kết lại bức tranh mùa xuân bằng một câu thơ đầy gợi cảm “Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”. Đây là một cách so sánh đầy gợi cảm, có một tí nhục cảm. Tháng giêng thanh tân, diễm lệ, đầy ánh sáng, màu sắc, âm thanh và hương thơm trở thành “cặp môi sắp” rất “ngon, ngọt” của người tình nhân. Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm. tuổi xanh là tuổi đẹp nhất của đời người. Và chắc chắn phần ngon nhất của người thiếu nữ là bờ môi chín mọng kia.

Xem Thêm : Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ ( Dàn ý + bài mẫu) hay nhất

Ở đây, trong sự so sánh giữa thiên nhiên và con người, Xuân Diệu đã mang lại cho người đọc một quan niệm nghệ thuật về con người rất mới mẻ. Thơ ca cổ điển thường lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho cái đẹp. Mọi cái đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với cái đẹp của thiên nhiên. Bởi vậy khi trình bày nét đẹp của Thúy Vân, Nguyễn Du đã lồng vào biết bao nhiêu cái đẹp của thiên nhiên:

“Vân xem trọng thể khác vời/Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang/Hoa cười ngọc thốt đoan trang/ Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”. Còn Xuân Diệu đưa ra một tiêu chuẩn khác: con người mới là chuẩn mực của cái đẹp trong vũ trụ này. Bởi con người là tác phẩm kì diệu nhất của tạo hóa. Nên mọi vẻ đẹp trong vũ trụ phải đem so sánh với vẻ đẹp của con người. Quan niệm nghệ thuật này là một đóng góp mới mẻ của

Hai câu thơ cuối là tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Trong một câu thơ mà thi sĩ có hai tâm trạng “Tôi sung sướng” – “Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm ở giữa câu đã phân tách thi sĩ thành hai nửa: nửa sung sướng và nửa vội vàng. Tâm trạng “sung sướng” là tâm trạng: ” hạnh phúc, lạc quan, yêu đời, tươi vui đón nhận cuộc sống bằng tình cảm trìu mến, thiết tha gắn bó. Còn “vội vàng” là tâm trạng tiếc nuối bởi thi sĩ sợ tuổi xanh qua đi, tuổi già mau tới. vì vậy dù đang sống trong mùa xuân nhưng thi nhân đã cảm thấy tiếc nuối mùa xuân ngay khi đang ở trong mùa xuân “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Đoạn thơ để lại dấu ấn nghệ thuật sâu sắc. Thể thơ tự do, sử dụng nhiều điệp ngữ, điệp từ, so sánh ẩn dụ… tiếng nói thơ chọn lựa lọc. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay mang đậm phong cách thơ Xuân Diệu.

Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ “Vội vàng”. Bằng tiếng nói rất đỗi tây thiên, nhưng tình cảm của nhân vật trữ tình lại rất sắp gũi, thân quen. Xuân Diệu đã mang lại cho người đọc một giọng thơ lạ, một cách cảm nhận về mùa xuân rất đỗi nồng nàn. từ đó thấy được lòng yêu đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi nhân. Đúng như nhà phê bình Thế Lữ đã nhận xét “Như một tấm lòng sẵn sàng ân ái, Xuân Diệu dang tay chào đón sức sống rào rạt của thế cục”.

Phân tích đoạn 1 Vội vàng – Mẫu 12

Xuân Diệu là một nghệ sĩ đa tài – viết văn, làm thơ, phê bình, nghiên cứu văn học,… nhưng để lại nhiều thành tựu vượt trội hơn cả vẫn là thơ ca. Xuân Diệu là một trong số những thi sĩ xuất sắc của phong trào Thơ mới với những vần thơ rộn rực niềm yêu đời, thiết tha với cuộc sống, luôn tiện hiện một khát vọng “vô bờ và tuyệt đích” và một quan niệm nhân sinh mới mẻ. Và có nhẽ, nét đặc sắc ấy trong thơ Xuân Diệu được thể hiện rõ nét qua mười ba câu đầu của bài thơ “Vội vàng”.

Mở đầu đoạn thơ với bốn câu thơ được viết bằng thể thơ năm chữ tác giả Xuân Diệu đã bộc lộ khát khao cháy bỏng muốn lưu giữ những vẻ đẹp của cuộc sống, của thiên nhiên.

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi

Với nghệ thuật điệp ngữ “tôi muốn” được lặp lại hai lần cùng với thể thơ năm chữ, nhịp thơ nhanh, dứt khoát, bốn câu thơ đã thể hiện ước ao, khát vọng cháy bỏng của Xuân Diệu. Ước muốn của thi sĩ đó chính là “tắt nắng”, là “buộc gió” để giữ lại màu, lại hương cho thế cục. Ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” ấy của thi sĩ tưởng dường như vô lí bởi nắng, gió là những cái thuộc về tự nhiên làm sao con người có thể níu giữ nó lại, thế nhưng, với Xuân Diệu thì hoàn toàn có thể, bởi với ông, nắng và gió chính là biểu tượng cho những vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống. Ước muốn ấy của thi sĩ xét tới cùng là ước muốn được lưu giữ hương sắc, lưu giữ mãi những vẻ đẹp của thiên nhiên của cuộc sống, để chúng không bị tàn phai theo bước chuyển của thời gian.

nếu như bốn câu thơ đầu, tác giả thổ lộ khát khao mãnh liệt, cháy bỏng của mình thì trong bảy câu thơ tiếp theo của đoạn thơ, tác giả vẽ lên trước mắt độc giả “bức tranh thiên đường trên mặt đất”.

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Điệp ngữ “này đây” được lặp lại năm lần như một lời mời gọi, nhường như tất cả mọi thứ cứ đang bày, đang phô diễn, đang mời mọc. Và để rồi, đằng sau điệp từ ấy, từng hình ảnh, từng gam màu của bức tranh thiên nhiên, của “bữa tiệc trần gian” của thế gọi nhau hiện ra. Bức tranh ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vui tươi, tràn đầy sức sống tươi mới, tình tứ với biết bao niềm hoan hỉ, hạnh phúc, đó là “ong bướm” đang “tuần tháng mật”, là “đồng nội xanh rì”, “là cành tơ phơ phất”, là “yến oanh” với khúc nhạc tình si. Tất cả những hình ảnh ấy quyện hòa vào nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, tất cả như căng tràn sinh lực và sự sống. Đồng thời, đó còn là một bức tranh mùa xuân với sự phối hợp hài hòa giữa hình ảnh, màu sắc và âm thanh, nhường như mỗi hình ảnh, mỗi sự vật trong bức tranh ấy đều hiện lên sự tình tứ, quyến luyến để bức tranh mùa xuân như một “vườn tình”, vườn yêu, đầy ngọt ngào và hạnh phúc. Đặc biệt, trong đoạn thơ, tác giả không chỉ nhìn thiên nhiên bằng mắt và lắng tai âm thanh bằng tai, bức tranh thiên nhiên ấy còn được tác giả cảm nhận bằng cả vị giác qua hình ảnh so sánh độc đáo.

Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp

Xuân Diệu đã nhân hóa thiên nhiên và xem thiên nhiên như một người tình để ông ân ái, tình tứ. Hình ảnh so sánh táo tợn, độc đáo này đã thêm một lần nữa cho chúng ta thấy tình yêu, sự gắn bó của thi sĩ với thiên nhiên, với cuộc sống. tương tự, chỉ với bảy câu thơ nhưng Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp ngay giữa chốn trần gian và với Xuân Diệu, thiên đường không ở đâu xa xôi mà nó có ngay trên mặt đất này. Và đây cũng chính là quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Đồng thời, qua đây cũng sẽ giúp lí giải vì sao trong bốn câu thơ mở đầu bài thơ Xuân Diệu lại có những ước muốn, khát khao cháy bỏng và mãnh liệt tới tương tự.

Trước vẻ đẹp của “thiên đường trên mặt đất”, nhường như thi sĩ không thể giấu nổi nỗi lòng mình mà phải thốt lên rằng.

Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Câu thơ như bị ngắt thành hai vế ngắt quãng, cái tôi thi sĩ sung sướng trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống nhưng niềm sung sướng ấy thật chóng vánh để lại sau đó là một nốt ngừng với cảm giác “vội vàng một nửa’. Vội vàng, lo lắng bởi có nhẽ hơn người nào hết, Xuân Diệu cảm nhận thấy sự chảy trôi của thời gian, sự mỏng manh, ngắn ngủi của kiếp người nên ông phải sống vội vàng để tận hưởng những vẻ đẹp nơi đây.

Tóm lại, mười ba câu đầu bài thơ “Vội vàng” đã đưa tới cho chúng ta quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu. Với Xuân Diệu, thiên đường không ở đâu xa xôi mà nó hiện hữu ngay trên mặt đất, ngay giữa chốn trần gian.

Phân tích đoạn 1 Vội vàng – Mẫu 13

Thời đại thơ mới là một nhánh rẽ đầy ngoạn mục, táo tợn của thơ ca Việt Nam. thời khắc thơ văn khoát lên cho mình một chiếc áo được canh tân mới mẻ, là mảnh đất mỡ màu vun trồng những hồn thơ tài giỏi như: Tản Đà, Thế Lữ, Xuân Diệu,… Theo như Hoài Thanh nhận định Tản Đà là người “đã dạo những bản đàn mở đầu cho một cuộc dạo chơi tân kì đương sắp sửa” thì có nhẽ Xuân Diệu là người đã đưa những khúc nhạc ấy tới một vị trí xứng tầm trong lòng độc giả khi cho ra đời tập: Thơ thơ được xem là đỉnh cao trong phong trào thơ mới. Bài thơ Vội vàng được trích từ tập thơ ấy, tiêu biểu cho một phong cách thơ được canh tân rất mới mẻ về nội dung và phương thức của Xuân Diệu. “Một hồn thơ rộn rực băn khoăn trong những câu thơ lời ít ý nhiều như đọng lại bao tinh hoa”.

Giữa lúc ta lên tiên cùng Tản Đà, đắm chìm trong mộng tưởng cùng Hàn Mặc Tử,.. thì Xuân Diệu là người đã “đốt cảnh bồng lai và xua người nào nấy về hạ giới”. Lòng yêu đời yêu cuộc sống tha thiết đã khiến tâm hồn của thi sĩ bám chặt lấy cuộc sống trần thế, không thoát ly hoàn toàn như những thi sĩ khác. Với đời, ông có một khát khao cháy bỏng:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

thi sĩ sử dụng những câu thơ ngắn với âm điệu nhanh, tiếng nói thơ dứt khoát để thể hiện ứơc muốn mãnh liệt muốn níu giữ thời gian. Bởi lẽ thời gian là nỗi sợ hãi nhất trong thế cục:

“Ôi đớn đau! Ôi đớn đau! Thời gian ăn thế cục”

(Bauxtelaire)

Là một hồn thơ rộn rực, tha thiết với đời, ông muốn tận hưởng những khoảnh khắc tươi đẹp nhất của trần thế nhưng ngặt một nỗi:

“Thời gian thấm thoắt thoi đưa
Nó đi đi mãi có chờ đợi người nào”

(Tục ngữ)

vì vậy thi nhân rất trân trọng những giây phút tươi đẹp của thế cục. Người sử dụng tất cả giác quan tạo hoá tặng thưởng để cảm nhận thời gian. Thời gian vốn vô hình, vô vị, vô tình đi vào thơ Xuân Diệu bỗng rất hữu hình, nên thơ qua hình ảnh “nắng”, “gió”. Từ “tôi muốn” được điệp lại phối hợp với những động từ mạnh như “tắt” (nắng), “buộc” (gió) thể hiện một tư thế chủ động muốn đóng băng thời gian vì một lẽ đời tươi đẹp phía trước:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật…
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”

Những câu thơ với âm điệu nhẹ nhõm, hình ảnh tươi sáng đã vẽ nên một quang cảnh thiên nhiên đậm sắc, hương, thanh. Vạn vật đang ở độ đương thì tươi ngon nhất, đẹp đẽ nhất. Chim chóc, hoa lá, ong bướm như vực dậy để tận hưởng cảnh xuân tươi tỉnh, mựơt mà. Cảnh vật không tĩnh lặng mà náo động linh hoạt với những hình ảnh liên tưởng độc đáo của thi sĩ. “Tuần tháng mật” của đôi vợ chồng đắm say trở thành mùa của ong bướm dặt dìu rất lãng mạn. Tiếng hót của chim yến chim oanh trở thành “khúc tình si” hút hồn biết bao con người yêu cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Và ánh nắng được nhân hoá như một nàng tiên e thẹn với những ánh mi dài cuốn hút vạn vật. Tất cả như chan hoà làm nên một mảnh vườn đẹp nên thơ mà rất trần đời. Từ đó cái đẹp của mùa xuân thiên nhiên còn ẩn dụ như cái đẹp của con người ở độ sắc xuân, đương thì. từ đó, ta thấy được thi sĩ có sự cảm nhận mùa xuân rất tinh tế và có tài khéo léo vẽ lại những hình ảnh ấy với một thứ sức sống căng tràn, nảy nở. Nói bóng bẩy như Vũ Bằng thì thứ thứ sức sống mỡ màng ấy như “máu căng lên trong lộc của loài nai, như những măng non phấn chấn muốn bức ra từ những thân cây”. Thi sĩ chọn lựa thời khắc rộn rực nhất “tháng giêng”, tươi mới nhất “mỗi buổi sớm”, để trình bày khiến bức tranh thiên nhiên mùa xuân càng tinh khôi,xinh đẹp. Không chỉ vậy, thi sĩ còn tạo nên một thiên đường của xúc cảm. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác được sử dụng rất linh hoạt từ xúc giác “tuần tháng mật”, thính giác “khúc tình si”, thị giác “ánh sáng chớp hàng mi”.

Tâm hồn của thi nhân rộn rực, tha thiết, bâng khuâng trước cảnh trần thế xinh đẹp vô cùng đã khơi nguồn nên những hình ảnh sáng tạo độc đáo trong những vần thơ. Vào lúc ấy, hồn thơ, hồn người, hồn của thiên nhiên đất trời như giao hoà để Xuân Diệu viết nên một câu tuyệt bút:

“Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”

”Tháng giêng” vốn vô hình bỗng trở nên hũư hình căng đầy một tình yêu trần thế. Một thứ tình cảm rộn rực, cháy bỏng trong tâm hồn thi nhân đã được dồn nén kết tụ trong một từ “ngon” duy nhất rất tài hoa. Câu thơ với điểm nhấn là từ “ngon” được sử dụng rất đắt thể hiện một quan niệm mĩ học rất mới mẻ về sự cảm nhận thiên nhiên phản phất sắc thái của “nhục thể”. Tuy vậy, ý thơ không gây thô tục mà có phần mới lạ. thi sĩ cảm nhận rất tinh tế ý vị của thời gian nên có sự chuyển đổi xúc giác sang vị giác. quả tình, Xuân Diệu kế bên có đôi mắt nhìn đời rất tinh tế còn có một tâm hồn rất thiết tha, nhạy cảm với cuộc sống.

Những câu thơ: “Của ong bướm này đây tuần tháng mật”, “Của yến oanh này đây khúc tình si” và “Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp” mang một quan niệm mĩ học rất mới so với thơ ca truyền thống trước đó. Thơ trung đại con người được những nhà văn, thi sĩ tạo tác trên những chuẩn mực của thiên nhiên. văn pháp ước lệ tượng trưng luôn gắn liền với việc trình bày con người:

– Râu hùm, hàm én, mày ngài

– Làn thu thuỷ, nét xuân sơn

(Nguyễn Du)

Thế mới thấy thơ Xuân Diệu đã hoàn toàn lột xác và hướng về một nguồn quan niệm mới rất sắp với Shakespeare:

Con người là kiểu mẫu của muôn loài

thi sĩ đã lấy con người làm khuôn mẫu để tạo ra những hình thái thiên nhiên mang một sức hút kì lạ, một sự tươi mới chưa từng có. Người cảm nhận thiên nhiên bằng một lăng kính trái hình với thi ca thời xưa. từ đó, ta thấy thêm tin yêu một hồn thơ mới đã đem tới cho ta một hình ảnh đầy thi vị, một ánh màu mới mẻ trong thơ ca.

“Thơ Xuân Diệu là một niềm khát khao giao cảm với đời”

(Nguyễn Đăng Mạnh)

Hình ảnh của cuộc sống đi vào thơ Xuân Diệu như một thứ ánh sáng được khúc xạ qua lăng kính tình yêu rất tinh khôi và giàu sức sống. Càng yêu đời, thi sĩ càng luyến tiếc trước dòng chảy của thời gian. thời khắc vạn vật đang căng tràn sức sống cũng chính là lúc đang đứng trên ranh giới của sự lụi tàn, héo úa. vì vậy từ những câu thơ gãy gọn ở khổ đầu, thi sĩ đi vào khổ hai với những câu thơ dài, âm điệu chậm như bước chân người thư thái dạo ngắm vườn xuân muốn tận hưởng giờ phút huy hoàng ấy. Thi sĩ từ tốn chỉ cho người đọc những gì tinh hoa, tươi đẹp nhất của trần gian với một thái độ mến yêu, trân trọng “này đây”.

Đọc thơ Xuân Diệu, ta thấy từng dòng chữ rất mới, những tư tưởng tiến bộ thoát ly hoàn toàn những khuôn sáo cổ điển, tuy say mà tỉnh, mộng nhưng thực. Cảnh sắc xuân như xô đẩy câu thơ, phạm vi thơ bị xê dịch như “một đống hỗn độn đẹp xô người tình vừa say dậy” (Bích Khê). Đó là điều khiến thơ của thi sĩ từng bước chứng tỏ sức sống mãnh liệt qua thời gian mặc dù người khen rất nhiều người chê cũng không ít.

Tóm lại, đoạn thơ thể hiện một khát vọng sống thiết tha mãnh liệt rất trần đời. Một hương vị lạ góp phần làm đa dạng sự mới mẻ trong phong trào thơ mới. mặc dù thơ Xuân Diệu mang một phong cách rất Tây nhưng nhìn chung lầu thơ của ông được xây dựng trên mảnh đất thơ ca truyền thống. Sự tiếp thu những tư tưởng mới, biết hoà nhập nhưng không hoà tan là nét chung rất đáng ngợi ca khâm phục của Xuân Diệu nói riêng và những thi sĩ mới nói chung. vì vậy Xuân Diệu xứng đáng là “thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới”

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng – Mẫu 14

Vội vàng bài thơ xuất sắc của thi sĩ Xuân Diệu thể hiện triết lí sống của chính tác giả đó là sống nhanh, khẩn trương, hãy mở lòng để đón nhận những gì tinh túy nhất từ cuộc sống.13 câu thơ đầu đã đã thể hiện những suy nghĩ của tác giả, nỗi niềm băn khoăn, tiếc nuối khi cuộc sống cứ đang dần trôi đi.

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

4 câu thơ đầu đã thể hiện những điều ngông của tác giả đi trái lại quy luật của thiên nhiên đó là “tắt nắng”, “buộc gió”. Những câu thơ ngắn sử dụng phép điệp cấu trúc câu ở những cặp câu 1-3, 2-4 khiến cho ý thơ trở nên đặc biệt. Điệp ngữ được sử dụng “tôi muốn” thể hiện sự ước muốn của tác giả thử muốn giữ lại màu tươi của nắng, không muốn nó bị phai nhạt, muốn buộc gió giữ lại mùi hương tuyệt vời đó. Ông như muốn níu giữ những gì tươi đẹp của cuộc sống để không bị phai nhòa theo thời gian.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si”

Thiên nhiên tươi đẹp mùa xuân hiện ra thật diệu kì Điệp từ “này đây” lặp lại nhiều lần đã phô bày vẻ đẹp muôn màu muôn sắc của mùa xuân. Những hình ảnh thơ sinh động, mới lạ xuất hiện dưới ngòi bút thi nhân: “đồng nội xanh rì”, “cành tơ phơ phất”, “ong bướm”, “hoa”, “lá”, “yến oanh”… xuất hiện trước mắt người đọc như cả bầu trời xuân sắc. Mùa xuân chính là mùa ong bướm tìm kiếm mật ngọt, mùa của hoa nở trên đồng nội, lá non tơ phơ phất, chim chóc hót líu lo tạo nên âm thanh rộn ràng… Tất cả đều trong thời khắc đẹp nhất căng tràn sức sống. Cuộc sống đã được tác giả tái tạo như thiên đường trên mặt đất.

Không chỉ có hình ảnh thiên nhiên mà còn có tình yêu lứa đôi, cụm từ “tuần tháng mật” như nói tới thời gian mặn nồng của đôi trai gái yêu nhau, “yến oanh” nói tới những chú chim yến đang vấn vít bên nhau đó là tình cảm lứa đôi, tình cảm vợ chồng. Tất cả đều đang ở thời khắc đẹp nhất, tràn đầy sức sống. Nhưng tuổi xanh của con người se sẽ bị tàn phai theo thời gian vì vậy mà ông phải sống vội vàng để tận hưởng từng khá thở của cuộc sống:

Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

thi sĩ biết rằng cuộc sống con người có hạn còn mùa xuân thì tuần hoàn mãi mãi nên ta phải tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp bởi tuổi xanh con người ra đi sẽ không quay trở lại. Xuân Diệu không chờ tới hạ mới nhớ xuân mà muốn ôm mùa xuân vào mình khi nó còn tươi non, nhịp thơ lúc này ngắt quãng như đó nỗi niềm trong chính tác giả. Ông khuyến khích mọi người hãy mở rộng lòng để yêu cuộc sống, ôm ấp mùa xuân và thiên nhiên tươi đẹp.

Mới chỉ 13 câu thơ đầu đã cho người đọc thấy tác giả Xuân Diệu khát khao sống thật mãnh liệt. Tác giả mời gọi con người nên biết sống, tận hưởng để không phải uổng phí tuổi xanh chỉ có một lần trong đời.

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng – Mẫu 15

Xuân tới, xuân đi, xuân lại về. Hoa tàn rồi hoa lại nở… Nhưng quy luật tuần hoàn ấy chỉ đúng với với cỏ cây, với đất trời chứ không thể làm đời người trẻ lại khi đã già nua. bởi vậy, Xuân Diệu – “một thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới nhất của những thi sĩ mới” với ý thức yêu cuộc sống thiết tha, mãnh liệt đã phải vội vàng chứa lên những khát khao cháy bỏng của lòng mình:

Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến oanh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

(Trích Vội vàng – Xuân Diệu)

13 câu thơ trên được trích từ bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu thể hiện niềm khắc khoải, băn khoăn khi cuộc sống cứ dần trôi mà không quay trở lại. Đúng như cái tên, thi sĩ “vội vàng” sống, “vội vàng” tận hưởng, và cũng “vội vàng” tiếc nuối khi không thể níu giữ được thời gian.

Từng câu từng chữ tưởng dường như nằm bất động trên trang giấy nhưng lại ẩn chứa biết bao nhiêu xúc cảm của hồn thơ Xuân Diệu. táo quân bạo, chẳng ngần ngại khi thể hiện những ước muốn trái ngược của mình: “tắt nắng”, “buộc gió” “cho màu đừng nhạt mất”, “cho hương đừng bay đi”. Càng hiểu rõ quy luật tuần hoàn của tự nhiên, ông càng khắc khoải, băn khoăn. Với cách nói trực tiếp “tôi muốn”, thi sĩ đã thể hiện cái tôi nhỏ bé của mình giữa cả toàn cầu thiên nhiên bát ngát. Ông không những muốn chạy đua với thời gian mà còn muốn chạy vượt cả thời gian, muốn phá tan cả quy luật vĩnh hằng của tự nhiên. Biết điều đó là không thể làm được, nên Xuân Diệu lại vội vàng thưởng thức những sức sống đang tràn trề trước mắt: ong bướm, hoa cỏ, yến oanh…Ông không muốn bỏ xót bất kỳ một thứ gì vì tuổi xuân sẽ nhanh chóng qua đi mặc cho lòng người tiếc nuối. Với điệp từ “này đây”, nhường như Xuân Diệu muốn hòa mình một cách trọn vẹn nhất vào thiên nhiên, muốn ôm cả đất trời để ngốn ngấu, để thưởng thức như một món ăn khoái khẩu ngon lành.

Đặc biệt, khi dòng xúc cảm mãnh liệt lên tới cao trào, ta bắt gặp một hình ảnh rất độc đáo, mới lạ:

Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp

“Tháng giêng” là thời gian, là cái vô hình nhưng dưới ngòi bút tài giỏi của Xuân Diệu, cái vô hình ấy lại được so sánh với cái cụ thể: “cặp môi”. Tác giả đã cố tình nhấn mạnh “cặp môi sắp” với tính từ “ngon” khiến người đọc liên tưởng tới sự thiết tha, mặn nồng, trẻ trung của tình yêu lứa đôi. từ đó thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên cũng đang cháy bỏng trong trái tim thi sĩ. Càng yêu bao nhiêu, thi sĩ lại càng lo sợ, cuống quýt bấy nhiêu:

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân

Lại một lần nữa, ông muốn chạy trước thời gian, muốn sống không bỏ xót một phút giây nào. Nhịp thơ bỗng dưng bị ngắt quãng nửa dường như niềm khắc khoải đang nấc lên từng tiếng trong lòng ông. Ông sẽ “không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

Bài thơ chưa khép lại nhưng chỉ qua 13 câu đầu thôi cũng đủ để thấy trái tim thi sĩ yêu cuộc sống mạnh liệt tới nhường nào. Qua mỗi hình ảnh, mỗi câu thơ độc đáo cùng dòng xúc cảm dạt dào tuôn chảy, người đọc cũng như đang được mời gọi hãy sống và tận hưởng, hãy phấn đấu làm tất cả những gì mình muốn làm và có thể làm để không phí hoài tuổi xuân.

Phân tích 13 câu đầu Vội vàng – Mẫu 16

Thơ mới (1930-1943) được coi là một cuộc cách mệnh trong thi ca Việt Nam. Ở thời kì này ta có thể thấy được “một hồn thơ rộng lớn” như Thế Lữ, “ảo não” như Huy Cận, “trong sáng” như Nguyễn Nhược pháp và vượt trội trong đó, ta có Xuân Diệu – một nét thơ “tha thiết, rộn rực, băn khoăn” (thi nhân Việt Nam). Xuân Diệu là “thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới”, là người đưa thơ mới lên vị trí đỉnh cao với tập thơ đầu tay và tiêu biểu nhất là “thơ thơ”. Bài thơ “Vội vàng” được trích từ tập thơ này, đã thể hiện nét độc đáo trong phong cách thơ được canh tân cả về nội dung lẫn phương thức của Xuân Diệu. Điều đó được khắc họa đặc biệt ở 13 câu thơ đầu, nét bút của Xuân Diệu đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân đặc sắc sinh động và vượt trội ở đó là cả một thèm khát sống hết mình, quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ mới mẻ của tác giả.

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
……
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

“Vội vàng” được in trong tập “Thơ Thơ” sáng tác năm 1938, là tập thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước cách mệnh tháng Tám. Nhan đề “Vội vàng” ở đây không được hiểu là cách sống vội, sơ lược mà nó đã giúp thi nhân truyền tải một quan niệm sống tự giác và thể hiện trị giá tư nhân – đó cũng là một lẽ sống tích cực của thi sĩ luôn khát khao giao cảm với thế cục. Ở Xuân Diệu, chúng ta thường bắt gặp một cá tính thơ khoáng đạt, khác biệt và đầy sáng tạo có thể nói “vô tiền khoáng hậu” trong thơ ca Việt Nam. Xuân Diệu đã mở màn cho “Vội vàng” bằng bốn câu thơ ngũ ngôn mà nhìn qua tưởng chừng “lệch nhịp” với toàn bài:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.

Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm, cũng như tuổi xanh là khoảng thời gian đẹp nhất trong thế cục mỗi con người. Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền tạo hóa của thi nhân. Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất. Thi sĩ thèm khát giữ lại ánh nắng để “màu đừng nhạt mất”, giữ lại gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc hương. thèm khát “tắt nắng”, “buộc gió” thể hiện ý thức làm chủ thiên nhiên của con người. Điều này vừa hợp lí bởi thi sĩ “yêu tha thiết cái chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh); nhưng cũng vừa vô lí và không thể thực hiện được bởi con người làm sao có thể cưỡng lại được quy luật của tạo hóa, làm sao nắm bắt, điều khiển được những thứ vốn là mỏng manh, ngắn ngủi, không tồn tại được mãi mãi đó. Điệp ngữ “Tôi muốn” được nhắc lại hai lần đã khẳng định ý nguyện của cái “tôi” tha thiết muốn giữ lấy vẻ đẹp chóng tàn phai của thiên nhiên; đồng thời làm vượt trội tâm hồn của một thi sĩ yêu đời, say mê thiên nhiên. Cách ngắt nhịp vội vã, dứt khoát càng tô đậm hơn mức độ mãnh liệt, nồng nàn của ước vọng trong tâm hồn ông. Tuy nhiên, ẩn sâu trong khát vọng ngông cuồng, táo tợn ấy lại là một tình yêu cuộc sống tới tha thiết, khắc khoải. Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trôi qua rồi thì không trở lại nên thi sĩ muốn lưu lại những vẻ đẹp tự nhiên, thanh khiết của thế cục để mãi lưu giữ khoảnh khắc của thời tươi trẻ, để tận hưởng hết vẻ đẹp của đất trời. Ông muốn lưu giữ nó bên mình để được thưởng thức một cách trọn vẹn, mãi mãi.

Sau tâm trạng ấy là tiếng reo vui của thi sĩ. Trong cái nhìn của Xuân Diệu, sự sống thân thuộc quanh ta bỗng trở nên vô cùng hấp dẫn:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa”

Vì sao Xuân Diệu lại gấp gáp vội vàng để giữ gìn hương sắc thế cục? Vì sao phải tắt nắng, phải buộc gió mà không chờ đợi hướng sắc ấy vào một giây phút khác? Những dòng thơ tiếp theo là sự lí hương nguyên nhân vì sao thi sĩ lại muốn chống lại quy luật của tự nhiên. Con mắt “xanh non”, “biếc rờn” của thi sĩ về mùa xuân đã trông thấy vẻ đẹp của thế cục, thiên nhiên với những thực đơn phong phú. Mùa xuân của ong bướm, cỏ cây, hoa lá, mùa xuân của tạo vật tràn trề sức sống. Cũng vẫn là thiên nhiên núi sông ấy thôi, nhưng Xuân Diệu phát hiện ra bao vẻ đẹp bất thần, đáng yêu đáng say đắm. Xuân Diệu đã vui say, rộn ràng tận hưởng những vẻ đẹp diệu kì mà trời đất đã ban cho mỗi thế cục, mỗi con người. Hai chữ “Này đây” được nhắc tới nhiều lần không gợi sự thừa thãi trong câu chữ, mà tô đậm không gian và thời gian thơ, đó là ngay lúc này và ở tại đây, sự phong phú nhường như vô tận của thiên nhiên, đã bày ra một khu vườn địa đàng ngay giữa chốn trần gian – một “thiên đường trần thế”. Hình ảnh ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, cành tơ, yến oanh, ánh sáng là những hình ảnh đẹp đẽ, tươi non của cuộc sống thường nhật, nhưng qua lăng kính lãng mạn và tình yêu cuộc sống của thi sĩ thì những hình ảnh vốn thân thuộc ấy bỗng tươi sáng, hấp dẫn như cảnh sắc nơi thiên đường.

Có thể nói đó là bức tranh tuyệt đẹp, là khu vườn tình ái đầy hương sắc của mùa xuân trên mặt đất. Chỉ có Xuân Diệu mới có thể nhìn thấy được “tuần tháng mật” của ong bướm, thấy được sắc màu xanh non của cành tơ với những chiếc lá đang “phơ phất”. Tất cả vẻ đẹp căng tràn, tươi nguyên ấy như được trưng bày ra trước mắt thi sĩ và độc giả qua điệp từ “này đây”. Chỉ có người thi sĩ ấy mới thấy được những bông hoa của đồng nội và nghe được khúc tình si của chim yến, chim oanh. Và cũng chỉ có Xuân Diệu mới cảm nhận được “Tháng giêng ngon như một cặp môi sắp”. Mùa xuân đẹp và quyến rũ như đôi môi người thiếu nữ và tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Tác giả sử dụng từ “ngon” để thể hiện một khát khao, một cảm nhận riêng tới lạ thường mà ta chỉ có thể bắt gặp ở Xuân Diệu. Ông như người họa sĩ tài năng đang đứng trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp để chỉ cho chúng ta thấy vẻ tươi non, nõn nường của mùa xuân. Mùa xuân đẹp và tình tứ, vạn vật đều có đôi, gắn bó, vấn vít với nhau một cách thân thiết. Lứa đôi gắn bó với nhau trong sự ngọt ngào, say đắm, hương gắn kết với hoa để khoe sắc trên đồng nội “xanh rì”.

Những cánh yến oanh trên bầu trời đang chao liệng để gửi gắm lời yêu thương cho nhau mỗi độ xuân về. Tác giả đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp để nét vẽ của mình in sâu trong tâm trí người thưởng thức. Thiên đường, bữa tiệc của thiên nhiên có ngay trong cuộc sống này, có ngay trong tầm tay với của con người. Đoạn thơ như một bản đàn du dương mà Xuân Diệu sử dụng để “đốt cảnh bồng lai và đưa người nào ấy về hạ giới” (Hoài Thanh), về với nơi ngự trị của mùa xuân, tình yêu và tuổi xanh. giải pháp liệt kê khiến những vẻ đẹp của mùa xuân được phơi bày một cách sinh động và trung thực.

Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi non tới thế. Sự sống như bày ra một bữa yến tiệc mà mỗi chúng ta là một vị khách được mời tới tham gia. thi sĩ đã “say đắm với tình yêu, tích cực với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim” (Thế Lữ). Ông đã thức tỉnh tất cả những giác quan để nếm vị ngọt, mùi thơm nồng nàn của mùa xuân và sự sống “mơn mởn”. Đôi mắt tinh tế của Xuân Diệu đã nhìn thấy sức sống tươi mới, một sức trẻ khỏe khoắn, một mùa xuân phơi phới làm mê đắm lòng người. thi sĩ có ước muốn níu giữ tất cả vị “ngon” của tình yêu và mùa xuân khi nó đang trong thời kì hương sắc nhất. Nhưng ngay lúc thi sĩ đang ngây ngất mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian và reo lên “tôi sung sướng” thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác “vội vàng một nửa”:

“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”

Câu thơ được thi nhân ngắt làm hai, thể hiện niềm vui một cách không trọn vẹn. thi sĩ đã trông thấy rằng điều sung sướng ấy thật ngắn ngủi biết bao. Chính dự cảm mơ hồ về sự phong thanh và ngắn ngủi của kiếp người đã khiến cho thi nhân phải sống tận hưởng một cách vội vàng. Từ trạng thái vui tươi phấn chấn đầy yêu đời “tôi sung sướng” bỗng xuất hiện dấu chấm, như một điềm báo trước một sự hụt hẫng lo lắng phía sau. Dấu chấm giữa dòng khiến câu thơ như bị chẻ đôi, một bên là niềm vui sướng hoan hỉ một bên là vực thẳm của sự hoài nghi, lo lắng. Ta có thể thấy niềm vui như chùng xuống, khựng lại và không trọn vẹn. Bởi, Xuân Diệu phát hiện rằng điều sung sướng mà ông đang tận hưởng ấy ngắn ngủi biết bao, phong thanh biết bao. Thời gian chảy trôi tuyến tính một đi không trở lại. Trước sự chảy trôi của thời gian, có được bao nhiêu lâu để đắm chìm hoan hỉ cho giây phút hiện tại. Chính vì dự cảm mơ hồ về sự phong thanh, ngắn ngủi của kiếp người đó đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng: “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Dù bất lực trước dòng chảy thời gian, trước quy luật của thiên nhiên nhưng Xuân Diệu không bi quan về cuộc sống mà ông đã tìm tới một cách khắc phục tuyệt vời. Đó chính là đừng tiếc nuối cho tương lai mà hãy tận hưởng sống hết mình cho giây phút hiện tại. Bởi tương lai chắc chắn sẽ tới, thời gian chắc chắn sẽ tới, mùa xuân sẽ qua cũng như mùa hạ sẽ tới, con người vốn không thể thay đổi được những điều hiển nhiên ấy. Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồn vập đắm say vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh giác bất an, băn khoăn âu sầu của thi sĩ vì thời gian qua mau, tuổi xanh một đi không trở lại, quả tình Xuân Diệu là thi sĩ của những giác quan tinh tế về thời gian.

Bài thơ “Vội vàng” đã thể hiện lòng ham sống xốc nổi và mãnh liệt của cái “tôi” Xuân Diệu rất hiện đại cùng với một quan niệm mới mẻ về thời gian, tuổi xanh, hạnh phúc. Xuân Diệu đã thể hiện trong bài thơ cái “tôi” của thời đại thơ mới về một ý thức ráo riết về trị giá đời sống tư nhân, một quan niệm táo tợn đầy tính cách mệnh trước những quan niệm cũ kĩ vốn cản trở việc phóng thích con người, một niềm thiết tha với cuộc sống, niềm vui trần thế và một khát khao sống mãnh liệt và một tâm thế cuồng nhiệt, tích cực. Trong những bài thơ của Xuân Diệu trước cách mệnh thì đây là những vần thơ xuân diệu nhất. Ông đã phương thức nghệ thuật rất điêu luyện, sự phối hợp nhuần nhuỵ giữa xúc cảm phong thanh và mạch luận lý, giọng điệu say mê, sôi nổi cùng với những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ. Sống mạnh mẽ, tích cực dám khẳng định bản thân là lẽ sống cao đẹp, thể hiện ý thức trách nhiệm và sự trân trọng từng phút giây của con người với sự sống. Tuy nhiên, có không ít người hiểu quan niệm này một cách sai lệch, họ sống nông nổi, sống nhanh, sống vội, bất chấp, khẳng định mình một cách tiêu cực. Vì vậy, cần xác định quan niệm sống lành mạnh biết cống hiến và tận hưởng, biết sống cho hiện tại và tương lai, trân trọng từng phút giây quý giá của cuộc sống.

Qua 13 câu đầu bài “Vội vàng”, chúng ta trông thấy rằng Xuân Diệu đã đem tới một thông điệp cuộc sống mang ý nghĩa nhân văn: Trong thế gian này, đẹp nhất, quyến rũ nhất chính là con người giữa tuổi xanh và tình yêu. Thiên đường không đâu xa mà chính là cuộc sống giữa thiên nhiên tươi đẹp nơi trần thế. Vì vậy hãy sống thật mãnh liệt, hãy đắm say tận hưởng và tận hiến hết mình để mỗi ngày ta được sống trọn vẹn trong tình yêu và hạnh phúc. Bài thơ là một quan niệm sống mới mẻ và táo tợn mà trước đây chưa từng có. tới với ” vội vàng “Xuân Diệu kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những thứ cuộc sống tặng thưởng. Hãy tranh thủ lúc còn trẻ để được lợi đầy đủ nhất. Ông không quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho thế cục. Và trong thế cục của ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng tận hưởng. Tập “Thơ thơ” nói chung hay vội vàng nói riêng đã để lại dấu ấn sâu đậm cho người đọc, trị giá của nó vẫn mãi lưu truyền tới hiện tại và mãi mãi. Người ta sẽ luôn nhớ tới thi sĩ Xuân Diệu là ” ông hoàng thơ tình”, ông đã để lại cho đời những áng văn hay!

Phân tích Vội vàng 13 câu đầu – Mẫu 17

Vốn là một thi sĩ rất nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian, trái ngược với cổ nhân luôn quan niệm thời gian là tuần hoàn cũng như vòng quay luân hồi của sự sống con người, Xuân Diệu lại nghĩ rằng thời gian là tuyến tính, một đi không trở lại.

Vũ trụ thì vô cùng mà đời người thì hữu hạn, mà một đời người đẹp nhất chính là tuổi xanh-lứa tuổi mang nhiệt huyết sống sục sôi và nhiều hoài bão to lớn, ở cái độ tuổi đẹp nhất và căng tràn sức sống nhất ấy, thi sĩ cũng có những khát khao không tưởng:

“ Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Ước muốn cháy bỏng muốn điều khiển tự nhiên thật viển vông nhưng lại cũng thật cao đẹp. Chàng trai 20 tuổi ấy sợ rằng nắng lên sẽ làm phai đi những gam màu rực rỡ của thanh xuân, sợ gió lên sẽ thổi làm bay mất hương sắc nồng nàn của cuộc sống.

Một nỗi sợ đẹp đẽ, khát khao níu kéo thời gian ở lại. Bốn câu thơ đầu là thể thơ ngũ ngôn thân thuộc, ngắn gọn, súc tích mang lại cảm giác vô cùng mạnh mẽ về khát khao rực cháy của tác giả, đoạn thơ tiếp theo lại được viết bằng thể thơ tự do như một lời thầm thì tụng ca vẻ đẹp của thiên nhiên:

“ Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa “

Khác với những thi sĩ cùng thời chán ghét thực tiễn, mơ về chốn bồng lai tiên giới, Xuân Diệu đã sử dụng vần thơ của mình “ đốt cảnh bồng lai, xua người nào nấy về hạ giới” . Với ông, thiên đường không ở đâu xa mà chính ngay trên mặt đất này, sắp gũi, thân thuộc.

Có thể nói Xuân Diệu ngắm nhìn bức tranh xuân bằng lăng kính tình yêu và cặp mắt của tuổi xanh, ông thổi vào bức tranh ấy một tình yêu cuộc sống tha thiết. Thời gian được cảm nhận đầy đủ mùi vị ngọt ngào để trở thành tuần tháng mật, hoa của đồng nội xanh rì- màu xanh của sức sống mãnh liệt.

Lá là lá của cành tơ phơ phất, “cành tơ” chứ không phải cành nào khác, tiếng hót chim yến, chim oanh cũng dịu ngọt như khúc tình si cháy bỏng. Xuân Diệu lại một lần nữa đi ngược với thi nhân xưa khi đặt ra quan niệm lấy con người làm chuẩn mực cái đẹp cho tự nhiên. Bức tranh thiên nhiên mang nét đẹp của một người con gái đẹp, một cái chớp mắt của mĩ nhân có thể làm nghiêng thành đổ lũy.

Tháng Giêng ngon như một cặp môi sắp mọng đỏ đầy sức hút, làm con người ta thèm khát được tận hưởng trọn vẹn, đã đầy, con người nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian như ông luôn khát khao được sống, tận hưởng và cống hiến hết mình, không chậm trễ lãng phí một giây một phút.

“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Niềm vui sướng của lứa tuổi 20 trước thế cục, dưới mắt ông, mọi thứ đều được đặt ở vị trí xuất phát, vị trí ban đầu đầy tươi mới đẹp đẽ. Ông luôn quan niệm phải sống vội vàng, hết mình, tận hưởng no say, đừng để khi nắng hạ rọi xuống mới khởi đầu hoài niệm về mùa xuân.

Đoạn thơ đầu với sự phối hợp hài hòa giữa hai thể thơ cũ và mới nói lên vẻ đẹp của thiên nhiên-thiên đường trên mặt đất và khát khao của tuổi xanh cháy rực trong thi sĩ. Qua phân tích về bài thơ, em cảm nhận được vẻ đẹp vô tận của cuộc sống và thèm khát được cống hiến thật nhiều, cháy hết mình với nhiệt huyết căng tràn của tuổi xanh.

Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 11