Phân tích Chữ bầu lên thi sĩ hay nhất

Văn mẫu lớp 10: Phân tích tác phẩm Chữ bầu lên thi sĩ của Lê Đạt là tài liệu vô cùng hữu ích mà GrabHanoi muốn giới thiệu tới quý thầy cô cùng những bạn học sinh lớp 10 tham khảo.

Phân tích Chữ bầu lên thi sĩ là một chủ đề đơn thuần với những bạn học sinh, tuy nhiên vì nó sắp gũi mà nhiều bạn không biết viết từ đâu. Chính vì vậy việc triển khai và sắp xếp nội dung ý tưởng phải thật hợp lý, mạch lạc. nếu như như những bạn lớp 10 vẫn còn đang băn khoăn chưa biết cách làm thì hãy tham khảo bài văn mẫu phân tích Chữ bầu lên thi sĩ, trong bài viết dưới đây nhé. không những thế những bạn xem thêm Tóm tắt bài Chữ bầu lên thi sĩ.

Phân tích Chữ bầu lên thi sĩTựa như con sóng ngoài khơi luôn đưa đẩy, níu giữ những chiếc thuyền lênh đênh trên biển , thơ ca đi vào toàn cầu nội tâm của con người một cách nhẹ nhõm và thanh thoát, từ đó hướng họ tới những vẻ đẹp của của cuộc sống muôn màu. Thơ tà tà tiếng đàn muôn thuở gãy lên những nhạc điệu du dương đưa ta vào những chiều không gian khác, khi là thoát khỏi hiện thực u tối để bay tới ngày mai tươi sáng hơn , khi là đưa ta về lại với những kỉ niệm tươi đẹp trong quá khứ. Nhưng làm sao ta nghe được tiếng đàn ấy, khi nó chỉ là những nét mực vô tri in hằn lên tờ giấy trắng, không, nó không chỉ đơn thuần là nét mực, mà nó là con chữ, là ngôn từ nghệ thuật. thi sĩ Viên Mai đã từng nói rằng : “Chỉ có lời thơ tinh vi đẹp đẽ mới có thể khiến cho người đọc cảm kích mà phấn chấn, còn như lời thơ qua ngay thẳng, thực thà, tầm thường, cũ kĩ thì có thể làm cho ai hứng thú được không”, là một thi sĩ có tầm hiểu biết, Viên Mai đã hiểu được tầm quan trọng của ngôn từ nghệ thuật trong bất cứ một thi phẩm nào, bởi nó không chỉ là cách để thi sĩ truyền đạt nội dung, tư tưởng, tình cảm của mình tới với độc giả mà theo một cách kì lạ nào đó từ những con chữ ấy người đọc lại có thêm những tư duy khác theo chính xúc cảm của mình. Hiểu được những điều kì diệu mà con chữ mang lại, thi sĩ Lê Đạt đã có những cái nhìn chiêm nghiệm khách quan nhất về vấn đề qua văn bản “Chữ bầu lên thi sĩ”.

Lê Đạt (1929-2008), tên khai sinh là Đào Công Đạt, quê ở tỉnh Bắc Giang. Ông là thi sĩ luôn có ý thức tìm tòi, cải cách, đề cao lao động chữ nghĩa và từng tự nhận mình là “phu chữ”. Bao nhiêu thi sĩ trên đời này ước ao một lần hiểu được ý nghĩa của thơ, để trả lời cho thắc mắc : “Thơ là gì?”. Lê Đạt cũng tương tự, suốt cuộc thế ông sống vì thơ, vì con chữ, ông hội thoại với những dòng thơ thơ như hội thoại với chính mình. Thơ hiện lên trong tiềm thức ông không chỉ có những câu thơ đa nghĩa như một thứ “bóng chữ” mà còn có cả những ưu tư trằn trọc của ông về nó. Với ông, thơ như một thứ đạo, một thứ tôn giáo, một thứ cơ duyên. Nói như Đặng Tiến: “Người đời ví thi nhân với kiếp tằm, Lê Đạt tự xem mình như một lá dâu, còn lại trơ gân, xác xơ thể xác”. “Không người làm thơ nào không phải trải qua những cơn vô vọng muốn quẳng bút đi làm nghề khác cho nó khỏe. Nhưng thơ là một nghiệp, một tình yêu say đắm” , đối với ông thơ mà một thứ nghiệp chướng mà cả đời ông không thể dứt ra được, ông tự cho mình là kẻ phu chữ, suốt một đời này phải gắn liền với cái công việc gọt rửa từng con chữ sao cho trở nên mĩ miều tuyệt diệu nhất có thể để đưa vào làm chất liệu cho những tác phẩm sáng tạo nghệ thuật của mình. Đối với ông chữ không chỉ đơn thuần là một kí hiệu giao tiếp mà như một sinh thể luôn động đậy, là một thứ mặc khải để thi nhân bộc lộ quan niệm nhân sinh của mình. Sự linh diệu của thơ bao giờ cũng hiển lộ ở chữ. Và sự linh diệu của chữ chính là sự linh diệu của thơ. Lê Đạt đặt ra một yêu cầu rất nghiêm khắc đối với thi sĩ: “ thi sĩ không coi rẻ chữ như những vật vô tri vô giác, những dụng cụ quẳng đi khi đã hết tác dụng mà tôn trọng chữ như những sinh vật có hồn, lắng tai tiếng nói của chữ và trò chuyện với chữ như những nhà ngoại cảm lắng tai và trò chuyện với toàn cầu bên kia.”.

Ngay đầu những lí lẽ ban đầu của văn bản, ông đã nêu ra được những lập luận của mình. Đối với văn xuôi, đó là “Ý tại ngôn tại”, có nhầm hay không khi từ “tại” được lặp lại, không, đó là dụng ý của tác giả. Ông quan niệm rằng đối với những tác phẩm văn xuôi, truyện thơ, kí, … chỉ cần ta đọc hết tác phẩm, đọc từng câu từng chữ và tiêu hoá nó, ta sẽ hiểu được nội dung, trị giá sâu bên trong mà nó muốn truyền tải tới người đọc. Còn đối với thể loại thơ thì khác, nó là “Ý tại ngôn ngoại”, tức là người đọc thơ chỉ đọc hết từng câu thơ thì không thể nào tường tận hết được những gì mà kẻ làm thơ muốn nói, một điều kì diệu nữa ở chỗ những con chữ ấy mà người thưởng thức thơ còn có thể sáng tạo ra nhiều tầng ý nghĩa thích hợp với xúc cảm của họ, khác hoàn toàn với những gì mà thi sĩ muốn truyền tải tới, Lê Đạt đã cho ta thấy sự kì diệu và thần kì của ngôn từ nghệ thuật trong thi ca. Thơ thường không bộc lộ ở những điều được viết ra mà là ở những chỗ trống, những khoảng trắng, ở sự lặng im giữa những chữ những lời. tiếng nói tho là tiếng nói được chưng đựng từ xúc cảm, chắt chiu và gạn lọc, đạt tới độ tinh, nên có sự đa dạng về mặt ý nghĩa cũng như cách hiểu. Chính vì những điều đặc biệt ấy, sự lắng tai và cảm thụ của người đọc là quá trình giải mã phát hiện ra những vẻ đẹp bất thần, tinh tế của thơ ca, người đọc ngoài năng lực rung cảm, thẩm bình và nhạy bén trước tiếng nói thi ca thì sự đồng điệu với tác giả cũng là một tuyến đường để tới với thơ. Lê Đạt nghĩ rằng. : “thi sĩ làm chữ chủ yếu không phải ở “nghĩa tiêu sử dụng”, nghĩa tư vị của nó, mà ở dung mạo, âm lượng, độ vang vọng, sức gợi cảm của chữ trong tương quan hữu cơ với câu, bài thơ” , không thể phủ nhận được ý kiến tương tự. Trong bài : “Mấy ý nghĩ về thơ”, Nguyễn Đình Thi nói:

“Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng…”

Thơ muốn lay động chiều sâu tâm hồn, đem xúc cảm mà đi thẳng vào sự suy nghĩ, đúng là không chỉ nhìn vào con chữ, nhìn vào cái nghĩa tự vị hay tiêu sử dụng của nó mà hiểu được ý tình của tác giả trong câu thơ này, làm sao có cả mây trắng rồi xanh rồi vàng, rồi làm sao lại liên quan tới ta và nàng, ấy vậy mà trong lòng mỗi người đã có những câu trả lời riêng cho mình rồi, đó là sức mạnh vang động của thơ ca vào tâm hồn người đọc, thật là diệu ngộ. “Đường đi của thơ là tuyến đường đưa thẳng vào tình cảm, không quanh co, qua những chặng, những trung gian, những cây số. Văn xuôi lôi cuốn người như dòng nước, đưa ta đi tuần tự, từ điểm này qua điểm khác. Thơ, trái lại, chỉ lựa chọn một ít điểm chín, bám vào những điểm ấy thì toàn thể động lên theo” – Nguyễn Đình Thi. Nói như Trần Nhựt Tân: “ tiếng nói thơ ca là một tiếng nói có nội dung phản ánh được dư vang nghệ thuật”.

Lê Đạt phân trần thái độ “ghét” với cái quan niệm quái gở : “những thi sĩ Việt Nam thường chín sớm nên cũng tàn lụi sớm”, ý này chỉ những thi sĩ được phú trời cho, ban cho mình cái khả năng “thở cũng ra thơ”. Nhưng đã cho thì cũng bủn xỉn lắm, rồi một ngày nào đó cái phú ấy cũng lụi tàn đi, vậy những thi sĩ ấy sẽ còn lại gì nếu như không thực sự lao động nghệ thuật bằng mồ hôi chính mình. Bởi vì vậy ông đề cao những thi sĩ “một nắng hai sương, lầm lũi, lực điện trên cánh đồng giấy, đổi bát mồ hôi lấy từng hạt chữ”. Ông cho ra thiên hạ lại tụng ca thể loại thơ gắn liền với những xúc cảm bột phát, “bốc đồng”, làm thơ không cần phấn đấu, của những thi sĩ thiên phú, rồi cái phút bốc đồng ấy có tồn tại vĩnh viễn với thời gian hay phải nhường chỗ cho những thi sĩ chân chính đổi mồ hôi lấy chữ như ông đã từng nói, những thứ ấy chỉ là cái tạm thời, không thể nào so sánh với những người như ông và những thi sĩ cùng chí hướng. Hoạt động sáng tạo thơ ca là một tuyến đường dài và gian khổ, trên tuyến đường ấy không biết bao nhiêu mồ hôi nước mắt của những kẻ phu chữ đã phải trải dài, nơi đó không có chỗ cho những thứ thơ tầm thường chỉ có những trị giá tức thời, rẻ rúng. Xem chữ như là một người bạn chân chính, người bạn ấy không phải tự tới với chúng ta hay được ai gọi mang lại cho ta cả ta phải tự đi tìm nó. Phải biết lắng tai và trò chuyện với chữ, tức là ta đang nói chuyện với một tri kỉ. Chữ trong thơ đã trở thành người bạn tri kỉ của thi sĩ, lựa chọn lựa chữ trong thơ cũng chính là sự lựa chọn lựa của tình yêu và trách nhiệm với ngòi bút của mình. Theo Lê Đạt:

“Với đa số chữ là tình nghĩa
Với thi sĩ chữ là tình yêu”.

Chính vì rất đề cao vai trò của chữ trong thơ mà ông đã xác quyết: “Một thi sĩ có thương hiệu là thi sĩ biết lặng im để nghe chữ phát biểu”. Ông nghĩ rằng: “chữ bầu lên thi sĩ” , và thi sĩ bao giờ cũng là người bộ hành cần mẫn dấn thân trên tuyến đường lựa chọn lựa “giữa nghĩa và hàm nghĩa, giữa chữ và bóng chữ”. Hiện hữu của thi sĩ chính là hiện hữu của chữ trong thơ. thi sĩ nếu như không tạo ra được một sự riêng về tiếng nói, tức là đã tự đánh rơi sự hiện hữu của mình. Và lúc đó thơ chỉ là một “nấm mộ lạnh lẽo” trong nghĩa trang thơ. Chữ trong thơ, vì vậy là một “nhãn hiệu cầu chứng” cho sự hiện tồn của thi nhân, là một trong những yếu tố quan trọng nhất nếu như không nói là yếu tố quyết định tạo nên phong cách thi sĩ. Vũ trụ của mỗi thi sĩ được tạo nên từ những tinh tú của tiếng nói thơ mà tiếng nói thơ bao giờ cũng là hiện thân của chữ. Vì vậy, trong quan niệm của Lê Đạt, để khẳng định sự tồn sinh của mình “Người làm thơ tự trọng trên ngành tiếng nói phải bận tâm tới việc mở rộng lãnh thổ tiếng nói, tương tự một nhà chưng học mở rộng lãnh thổ của khoa học, đổi khác cách nhìn tự nhiên”.

Theo Lê Đạt: “tuyến đường thơ gồm nhiều tuyến đường riêng rất khác nhau của từng người. Không có đại lộ chung một chiều cho tất cả. Ta có thể nói tuyến đường thơ chính là số phận của một thi sĩ”. Mỗi một thi sĩ đều có một tuyến đường riêng cho mình, mà một khi đã lựa chọn thì khó có thể quay đầu, hay còn gọi là số phận của chính họ trong toàn cầu nghệ thuật khắc nghiệt. Dù lựa chọn cho mình đi theo hướng nào, lao động chữ là việc không thể nào bỏ qua, đó là một yếu tố cơ bản tiên quyết nên sự thành công của những tác phẩm trong quá trình sáng tạo nghệ thuật của chính họ. Bởi vậy ông quan niệm rằng : “Những câu thơ hay đều kỳ ngộ, nhưng là kỳ ngộ kết quả của một thành tâm kiên trì, một đa mang say đắm làm động lòng quỉ thần, chứ không phải may rủi đơn thuần. Làm thơ không phải đánh quả, và không ai trúng số độc đắc suốt đời”. Không có những sự thăng hoa diệu kỳ trong sáng tạo thì không thể có những câu thơ hay. Sáng tạo thơ bao giờ cũng là sự sợ hãi của vô thức và tâm linh. Đi vào toàn cầu của thơ là đi vào toàn cầu của những ảo diệu, của mặc khải để người nghệ sĩ thể hiện những dự phóng sáng tạo của mình. Theo ông: “Cái trẻ, cái già của thi sĩ quyết định không phải do ở tuổi đời, mà ở nội lực chữ” , Picasso nói một câu rất thâm thuý : “Người ta cần rất nhiều thời gian để trở nên trẻ”. thi sĩ phải không ngừng nỗ lực, cải tiến lối tư duy có thể héo mòn theo năm tháng, không ngừng lao động cần mẫn để trở được những cử tri chữ bầu lựa chọn trong nhiệm kỳ kế tiếp, đừng để đánh rơi đi cái tài năng của mình. Chính toàn cầu “tiếng nói riêng” này sẽ làm nên một hệ trị giá trong vũ trụ thơ của thi nhân. Nó khẳng định sự hiện tồn của thi sĩ trong tiềm thức người đọc cũng như định vị tư cách thi sĩ trên thi đàn. Thơ luôn “chống lại nguy cơ sa mạc hoá của tâm trạng”. Và khi nào thi sĩ không để cho tâm trạng của mình bị sa mạc hoá, lúc đó thi sĩ mới có cái nhìn linh động về cuộc sống và lúc đó toàn cầu tiếng nói của thi sĩ mới phong phú và linh động

vì sao người ta tụng ca Hồ Xuân Hương là “Bà chúa thơ Nôm”, hay là “thi sĩ của phụ nữ” , ta cùng phân tích nét độc đáo trong cách sử dụng con chữ để gầy dựng lên tên tuổi của mình.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn,
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.
Đâm toạc chân trời, đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tí con con!”

(Tự tình II )

Bạn cách sử dụng những từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc, đường nét với sắc thái đặc tả mạnh, những động từ chỉ tình thái (dồn, trơ, xế, xiên ngang, đâm toạc ), những tính từ chỉ trạng thái (say, tỉnh, khuyết, tròn), phối hợp với cách tổ chức tiếng nói một cách sáng tạo nghệ thuật: đối, đảo ngữ, cách bắt nhịp, Hồ Xuân Hương đã bộc lộ được tâm trạng bất mãn với cuộc thế số phận và niềm khát khao hạnh phúc lứa đôi. Đó là mẹo chơi chữ độc đáo của bà, làm cho tên tuổi vang xa và để lại tiếng thơm muôn thuở.

Bằng hàng loạt những lí luận sắc bén, Lê Đạt đã thể hiện những ý kiến về công cuộc phu chữ của thi sĩ một cách vô cùng thuyết phục và mang cá tính sáng tạo của riêng ông. Những lí lẽ dẫn chứng mà ông viết trong văn bản thực sự đã mang người đọc hiểu hơn về quá trình lao động nghệ thuật của những thi sĩ chân chính, từ đó đặt ra những yêu cầu khó tính đối với họ. không những thế t thấy được sự hiểu biết và chiêm nghiệm của ông trong toàn cầu của nghệ thuật, một con người hết đời vì thơ ca vì con chữ, đề cao những trị giá nhân văn mà nó đem lại.

Tác giả đã đưa ra nhận định hay và thú vị là Chữ bầu lên thi sĩ, để làm vượt bậc tầm quan trọng của chữ đối với những thi sĩ trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Chữ bầu lên thi sĩ là khẳng định vai trò của tiếng nói đối với thi sĩ; tiếng nói là yếu tố không thể thiếu trong văn học; nó khẳng định tài năng, phong cách của người nghệ sĩ. tiếng nói thơ là tinh hoa vô thượng của tiếng nói, là kiến trúc ngôn từ đặc biệt; tạo lập và tôn vinh vị thế thi sĩ. Khi thi sĩ cần mẫn với chữ thì sẽ có sự lựa lựa chọn phù thống nhất để diễn đạt ý cần nói, để tiếng lòng của mình được vang lên, được hữu hình hóa thành câu chữ, âm thanh, nhịp độ. Làm thơ là sử dụng lời và những tín hiệu thay cho lời nói, tức là sử dụng chữ để thể tình trạng thái tâm lý đang rung rinh khác thường. Làm thơ là đang sống, không phải chỉ nhìn lại sự sống, làm sống dậy một tình cảm, một nỗi niềm trong lòng người đọc. Bài thơ là sợi dây tình cảm cho người đọc, cái trạng thái tâm lý ấy là người đọc tự tạo cho mình, chính là khi nhìn những chữ, nghe những lời từ đó tâm hồn rung lên vì chạm thấy những ý nghĩ những tình cảm mà lời và chữ của bài thơ kéo theo đằng sau như ngọn đuốc trong đêm.


Hy vọng bài viết ” Phân tích Chữ bầu lên thi sĩ hay nhất” trên đây của GrabHanoi sẽ mang lại cho các bạn đọc những tham khảo hữu ích. Đừng quên theo dõi GrabHanoi để được liên tục cập nhật những bài văn mẫu mới nhất bạn nhé