Top 16+ mẫu Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử tổng hợp 16 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết và sơ đồ tư duy. Với 16 mẫu phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ mà GrabHanoi giới thiệu sẽ giúp những bạn lớp 11 tự tin không phải lo nghĩ quá nhiều về việc làm sao để viết được bài văn hay, ấn tượng nhất.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp bức tranh xứ Huế trầm ngâm cổ kính mà rất tao nhã quý phái. Nó gợi nên cái vong linh của mảnh đất cố đô nhưng không thể nói rằng bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh. Bài thơ đã làm chúng ta thêm yêu cuộc sống hơn. Vậy sau đây là TOP 16 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất, mời những bạn cùng theo dõi tại đây.

Bạn Đang Xem: Top 16+ mẫu Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ chọn lọc hay nhất

Dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả và tác phẩm:

Hàn Mặc Tử có nhẽ là một cái tên mà không ai có thể quên khi nhắc tới phong trào thơ mới. Một trong những thi phẩm mang dấu ấn sâu đậm nhất của thi sĩ đã để lại trong lòng bao thế hệ độc giả biết bao niềm khơi gợi sâu sắc chính là bài thơ Đây thôn vĩ dạ. bài thơ cũng giống như một bức tâm thư bộc lộ những tình cảm thầm kín và khát khao cháy bỏng của thi sĩ

II. Thân bài:

1. Phân tích khổ thơ thứ nhất:

– Bài thơ mở đầu và một thắc mắc “sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

– Ta có cảm giác như đây là một lời trách yêu của một người con gái, trong đó ẩn dấu sự dỗi hờn cả sự ngóng trông da diết

– Thực tế thì không có một người con gái nào đang trực tiếp đối mặt với Hàn Mặc Tử, bởi vậy có nhẽ lời trách yêu này là đựng lên từ những bức ảnh những bức tâm thư, nó xôn xao, nó rộn rực sống dậy trong lòng thi sĩ, hướng trái tim người thi sĩ về với quê hương xứ Huế thân yêu ngày tiếp đó câu thơ thứ hai khiến chúng ta bất thần vì ngay tức tốc cảnh thiên nhiên xứ Huế, cảnh vật nơi thôn Vĩ Dạ được mở ra

– Rõ ràng thắc mắc một cách lên thì trước mắt thi sĩ đã là không gian của thôn Vĩ Dạ đây chắc chắn là một cuộc hành trình trong tiềm thức

– Cái nắng hiện lên trong quan sát của thi sĩ, một cái nắng hiện lên trong vẻ tinh khôi, tươi mới, không phải là cái nắng rực rỡ của mùa hè cũng không phải cái nắng dịu nhẹ của mùa thu mà nó là “nắng mới lên” tức là nắng của buổi rạng đông

– Câu thơ có hai từ nắng làm cho không gian như tràn ngập ánh sáng, chẳng từ ngữ trình bày màu sắc, nhưng ánh nắng hiện ra cứ trong trẻo và tinh khôi biết nhường nào

– Điểm nhìn của Hàn Mặc Tử nhường như là từ trên cao nhìn xuống từ xa lại sắp, đôi mắt của Hàn Mặc Tử trong cuộc hành trình như xé toạc bầu trời để nhìn thấy ánh rạng đông cùng ánh nắng diệu kỳ thắp lên từ những ngọn cau cao vút, để có một cái nhìn bao quát thấy được với màu xanh bao trùm lên khu vườn

– “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, câu thơ là một lời cảm thán thốt lên trước vẻ đẹp của khu vườn

– Tính từ lướt ra hình ảnh so sánh xanh như ngọc đã làm hiện lên vẻ đẹp tuyệt diệu của khu vườn thôn Vĩ

– Câu thơ không chỉ đem lại cho ta cảm nhận về thị giác mà còn gợi lên cái cảm giác như được chạm vào những lá xanh mượt mà, đi chính là một trong những nét đặc trưng của những thi sĩ mới chịu tác động bởi thơ tượng trưng siêu thực Pháp khi cảm nhận vạn vật bằng nhiều giác quan.

– Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” là một hình ảnh so sánh độc đáo, màu xanh của lá cây được ví với màu xanh ngọc mang lại cho ta một cảm giác thật dễ chịu tươi mới, tất cả mọi thứ đều non tươi mơn mởn và tràn đầy sức sống

– tới câu thơ thứ tư thì hình ảnh con người mới xuất hiện “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

– Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có rất nhiều cách hiểu khác nhau. Có người nghĩ rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí

– Nhưng cũng có người nghĩ rằng đó chính là tác giả trong cuộc hành hương tâm tưởng, Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế

– nhường như, thi sĩ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thư thái, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một thi sĩ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là thi sĩ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu

– Hình tượng “lá trúc che ngang” càng phân phối cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông bởi lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Xem thêm: Top 20+ mẫu phân tích bài thơ thương của tú xương hay nhất 

2. Phân tích khổ thơ thứ hai:

– Bốn câu thơ buồn khổ thứ hai như vẽ xe trước mắt chúng ta không cảnh của quê hương xứ Huế trong buổi chiều tối với những gam màu trầm lắng mỗi câu thơ gợi dám hình ảnh làm đầy thêm bức tranh phong cảnh nhưng nếu như như nhìn thật kỹ ta sẽ thấy những nghịch lý những điều trái tự nhiên ẩn trong từng sự vật

– “Gió theo lối phong vân đường mây”, câu thơ có nhẽ không chỉ còn là nghịch lý mà lại còn chứa đựng cả sự trớ trêu, chưa được sự biệt ly chia cắt

– “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, theo lẽ thường gió gió thổi làm hoa bắp lai thì sóng nước cũng phải theo đó mà gợn mà lay động, ấy thế nhưng dòng nước lại đứng im, chẳng khác nào lứa đôi dù ở sắp kề nhau nhưng lại không thể đồng điệu, trong sắp gũi lại có mùi gì của sự chia phôi

– Phải chăng đây là cảm giác của thi sĩ trong xa vắng thương nhớ, và đây cũng là tự ti của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác

– nếu như khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng tới khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi.

– Phải chăng, thông qua cách nói hình tượng Hàn Mặc Tử đã chua chát phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay?”

– Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn thuở là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khát khao hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

– Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi ngóng trông, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng.

– Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha.

– thắc mắc làm nhịp thơ chùng xuống biểu lộ niềm lo lắng của một số phận không có tương lai.

– Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông tự ti về thời gian cuộc thế ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp và Hàn Mặc Tử cũng không đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc thế.

3. Phân tích khổ thơ thứ ba:

– Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang, nhưng rồi người nghệ sĩ lại tiếp tục sống trong khát khao của mình

– Hình ảnh “khách đường xa” nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, thương nhớ của tác giả dành cho người thương.

– Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh / Ai biết tình ai có mặn mà?”

– Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi

– thắc mắc tu từ cuối cùng đựng lên như một tiếng ngậm ngùi, tự vấn qua một trái tim khát khao với tình yêu nhưng trước mắt lại có quá nhiều gian truân trở ngại

– Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em mặn mà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình mặn mà không? Liệu em có biết tình anh mặn mà không? Liệu anh có biết tình em có mặn mà không?

– Một thắc mắc trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu thắc mắc đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng vô vọng.

– Càng tha thiết một tình yêu mặn mà Hàn Mặc Tử càng thấy sự tan vỡ vô vọng với tình yêu. Vì vậy mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu vô vọng.

III. Kết bài:

Mọi sự vô vọng đều làm cho ta bi quan nhưng tình yêu vô vọng của Hàn Mặc Tử lại khơi lên trong ta ánh sáng của khát khao mãnh liệt da diết. Chính tình yêu đã tiếp thêm nghị lực cho người thi sĩ trong hoàn cảnh khó khăn trong những giây phút đớn đau chống chọi với bệnh tật. Cũng trị giá nhân văn ấy đã khẳng định tên tuổi của Hàn Mặc Tử trên bầu trời thơ ca Việt Nam và tạo điều kiện cho thi phẩm mãi xanh trong lòng bao thế hệ độc giả.

Sơ đồ tư duy phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi – Mẫu 1

Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên vượt trội nhất với lối thơ đặc biệt vừa lãng mạn tươi trẻ, vừa bi thương day dứt, tất cả đều tới từ cuộc thế có quá nhiều đớn đau, đau xót của người nghệ sĩ trẻ bạc phận. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác vượt trội và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của tác giả khi vừa chứa đựng những nội dung trong sáng, thanh khiết vô ngần, bộc lộ tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc thế tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ những nỗi khiếp sợ, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt ngã của bản thân thông qua những vần thơ kỳ dị, phức tạp đan xen giữa cảnh thực và cảnh mơ.

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ tài năng nhưng có cuộc thế nhiều xấu số đắng cay, khi ông không may mắc phải căn bệnh phong quái ác khi tuổi đời còn trẻ, sự nghiệp đang thời kỳ nở rộ nhất, đặc biệt trong tình yêu Hàn Mặc Tử cũng lại là người kém may mắn khi phải chịu nhiều tổn thương, day dứt. Trong giai đoạn cuối đời, ông trở về mảnh đất Quy Nhơn để chữa trị thì bỗng nhận được tấm bưu thiếp có in hình phong cảnh Huế, trên bức thiếp ấy là những dòng chữ nhắn gửi của nàng Kim Cúc, cô gái mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã dấy lên trong cõi lòng cô độc của người nghệ sĩ những xúc cảm hạnh phúc, vui tươi, lòng ông dào dạt những tình cảm nhớ mong Huế, nhớ về một xứ Huế đẹp tươi, đồng thời bộc lộ tấm lòng khát khao sống, khát khao hạnh phúc tới tột cùng thông qua những vần thơ đầu thật tươi sáng, trong trẻo.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một lời hỏi ngỏ rất dễ thương, đậm chất xứ Huế “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”, đó có thể là lời hờn trách vu vơ của một người con gái trông ngóng mãi người thương về thăm Huế, thăm mình cho thỏa nỗi nhớ mong, rồi ấy cũng có thể là một lời mời mọc thân tình của một người bạn xa, muốn tác giả một lần về lại Huế, thăm lại chốn cố đô yên bình. Rồi sau thẳm trong lời hỏi ngỏ ấy, ta cũng nhường như nhìn thấu lòng tác giả, Hàn Mặc Tử phải chăng cũng đang hỏi chính bản thân sao không về thăm lại chốn quê cũ, thể hiện sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh ngang trái của bản thân.

Trong dòng hồi ức, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử đã hiện ra với một hình ảnh đặc trưng, ấy là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng lên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đặc biệt, có tính khái quát và ấn tượng, nắng hàng cau tức là nắng buổi sớm, mặt trời đã lên khá cao, đương độ rét mướt nhất, và cũng không nóng gắt như buổi ban trưa. Giữa quang cảnh ấy, ánh nắng bao trùm không gian, phủ lên những ngọn cau xanh một màu vàng nhạt, mở ra một không gian trong trẻo, tràn đầy sức sống, cũng như sự yên bình, yên tĩnh nơi làng quê. “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”, từ phiếm chỉ “vườn ai” đã đem vào cho bức tranh thiên nhiên thêm sự rét mướt của tình người, kế bên cái rét mướt của nắng sớm, quang cảnh càng trở nên hài hòa khi có sự giao hòa giữa con người với thiên nhiên.

Những tính từ “mướt quá”, “xanh như ngọc” đều là những nét vẽ thật tài tình và đầy tinh tế của Hàn Mặc Tử khi nhớ về thôn Vĩ Dạ, chúng đã khéo léo, mở ra một bức tranh thiên nhiên dịu dàng, sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Ấy là cái non tươi mỡ màng của cây lá, là sự trong sạch mát mẻ của những giọt sương sớm còn đọng lại sau một đêm dài, mà dưới cái nắng rét mướt chúng ánh lên thật đẹp như những ngọc ngà châu báu, khiến người ta không khỏi suýt xoa ngỡ ngàng. tới câu thơ cuối, văn pháp thi trung hữu họa đã thực sự làm rõ và vượt trội vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh quê, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, lấy cái sự mảnh nhỏ, vắt ngang của lá trúc để làm vượt trội lên khuôn mặt chữ điền, phúc hậu, dịu dàng và thông minh của người con gái Huế, đó có thể cũng là bóng hình mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ, một con người với những vẻ đẹp cổ điển và tâm hồn đáng quý, đại diện cho cả một vùng đất với những con người thân yêu mà tác giả ngày đêm hướng về.

Xem Thêm : Top 8+ mẫu Dàn ý Chiều tối chi tiết nhất

nếu như như ở khổ thơ trước hết, Hàn Mặc Tử nhìn đời, nhìn người với ý thức tích cực, lạc quan, tràn đầy hy vọng, bằng bức tranh thiên nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì tới khổ thơ tiếp theo, mạch xúc cảm của tác giả đã nhanh chóng thay đổi theo sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh thiên nhiên hoàn toàn khác biệt với những gam màu mới.

“Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ bức tranh thiên nhiên tươi sáng, với những gam màu rét mướt, thanh mát, giản dị, Hàn Mặc Tử đã chuyển ngay sang quang cảnh đêm tối với bức tranh sông nước mênh mông lạnh lẽo, sâu kín thể hiện sự trống vắng, cô độc đang len lỏi trong lòng tác giả. Hình ảnh “Gió theo lối phong vân đường mây” là hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly, tan rã không ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn liền, gió thổi kéo mây bay, nhường như gắn bó như hình với bóng, ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt, hai thứ hai nơi nhường như chẳng chút liên hệ. Phải chăng đây là hàm ý cho mối tình của ông với nàng Kim Cúc, hai người giờ đây đã nhường như cách biệt phương trời, và rồi nay mai nữa chính là âm dương chia cắt. Rồi cảnh mây gió ấy cũng lại gợi liên tưởng tới sự liên quan của tác giả với thế gian, nhường như giây phút này, ông cũng đã khởi đầu cảm nhận được bản thân không còn nhiều thời gian, nhường như sự sống đối với ông ngày càng xa vắng, cuộc thế trần thế của ông có nhẽ cũng chẳng còn nhiều nữa. Chính những suy nghĩ và hiện thực đã càng dày vò thêm trái tim mới vừa được thắp lên hy vọng của Hàn Mặc Tử. Một tấm thiếp đã khiến ông vui, tưởng chừng đã thoát khỏi cái u mê, tăm tối của cuộc thế, thế nhưng nó vẫn không thể thắng lợi được sự nghiệt ngã của số phận và bản thân ông bị buộc phải tỉnh mộng quay trở về với thực tế đau thương.

tới câu thơ tiếp theo “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, ông nhường như thấy dòng nước ấy cũng như đang hiểu được nỗi buồn của mình, lặng lẽ buồn thiu, một nỗi buồn lặng thầm không biết tỏ bày cùng ai, cô độc, lạc lõng không một người bầu bạn. Hình ảnh “hoa bắp lay” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc biệt, hoa bắp vốn là loài hoa không sắc, không hương, mờ nhạt lại nhanh héo tàn. Nó nhường như chính là hình ảnh cuộc thế của Hàn Mặc Tử lúc cuối đời, tàn úa chỉ mặc cho gió lung lay mà không thể chống đỡ lại số phận, điều đó khiến cho người ta không khỏi xót xa cho cuộc thế người nghệ sĩ bạc phận, cũng như những nỗi đau mà ông đã phải chịu đựng trong suốt cuộc thế.

Đang trong lúc buồn khổ, vô vọng và đơn chiếc nhất Hàn Mặc Tử lại nhớ tới trăng, người bạn tri kỷ duy nhất ông có thể tâm tình và thấu hiểu ông. Cảnh bến thuyền, ánh trăng sáng là một trong những hình ảnh thường thấy xuất hiện trong thơ ca cổ điển, trình bày cảnh sông nước thanh vắng, êm đềm, và có đôi chút hiu quạnh. tới trong thơ của Hàn Mặc Tử cảnh tượng này độc đáo và sáng tạo hơn với thắc mắc “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”, ấy là một thắc mắc đầy tâm sự, giữa cảnh sông nước mênh mông, ánh trăng loang vàng khắp mặt nước, có một chiếc thuyền lặng lẽ nằm yên, thật thơ mộng trữ tình biết mấy. Lòng Hàn Mặc Tử lại không được yên bình như thế, người vội hỏi thuyền ai neo bến, người vội hỏi có mang trăng về kịp không, có mang người bạn tâm giao về kịp không. nhường như ta thấy Hàn Mặc Tử đang vội vã, lo lắng, lòng ngập tràn nỗi hoang mang, sợ rằng bản thân không còn nhiều thời gian nữa, không còn có thể chờ kịp ánh trăng về chiếu rọi lòng ông. Càng đọc, càng hiểu sâu tấm lòng người thi sĩ, càng biết được những mối lo, những nỗi đơn chiếc, bất lực của ông ta lại càng thương cho một kiếp người nhiều đớn đau, khi cả tình yêu, cả sự sống đều nằm ngoài tầm tay với. Tất cả những nỗi đau trong thơ, những vô vọng về cuộc thế của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ thực rõ tấm lòng khát khao sự sống, khát khao tình yêu tới quằn quại, mặc dù trong thâm tâm tác giả đã nhiều lần buông bỏ, chấp nhận số phận, thế nhưng chỉ cần có một tẹo niềm tin, thì tấm lòng ấy lại rộn rực, vui sướng hơn bao giờ hết. mặc dù tất cả cũng như pháo hoa rực rỡ, đẹp, nhưng chóng nở chóng tàn.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà”

Đang từ cõi thực, Hàn Mặc Tử chuyển bước vào cõi mơ, thể hiện rất rõ cái hông thơ phức tạp và khó hiểu bậc nhất của mình trong làng thơ ca Việt Nam tiên tiến. “Mơ khách đường xa khách đường xa”, đó cũng là một câu thơ mập mờ, không rõ ý, “khách đường xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh sự xuất hiện của nhân vật này, tuy nhiên càng nêu bật lại càng mờ mịt. Vị khách ấy là từ trong mơ, không rõ mặt, không rõ dung mạo, chỉ biết là họ đang ngày càng xa tầm với, xa mãi không trở lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong mối tình với nàng Kim Cúc xứ Huế, cũng như sự tồn tại của ông trên cõi đời ngày càng trở nên mỏng mảnh, mờ mịt. Tác giả đã cách nhân thế rất xa, dần trở thành một vị khách xa lạ, đi một chặng đường ngắn ngủi chừng 28 năm, rồi rời đi vô thanh, vô sắc, liên tưởng ấy khiến người ta vừa khiếp sợ, vừa xót xa cho cuộc thế người thi sĩ.

tới câu thơ tiếp “Áo em trắng quá nhìn không ra”, là bóng vía chập chờn của người con gái ông yêu trong tiềm thức, bộc lộ khoảng cách ngày một xa xôi giữa ông và nàng, đó không chỉ là khoảng cách về địa lý, mà còn là khoảng cách tâm hồn, khoảng cách sinh ly tử biệt không thể vãn hồi. Chính những khoảng cách ấy, đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng vô vọng, và bóng vía cô gái năm xưa ngày càng trở nên mờ mịt, ông nhìn không rõ, sờ không được, muốn mà không thể chạm tới đầy xót xa. Để giảng giải cho cái sự mờ nhạt, không rõ của nhân vật “em”, tác giả đã viết “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nhằm xóa bớt khoảng cách, vịn vào lý do sương khói mờ mịt xứ Huế làm ông không thể thấy rõ, thế nhưng nó lại càng nhấn mạnh vào cái sự mờ mịt, bế tắc và vô vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc thế, khi chính bàn tay ông cũng không thể nào vén lớp sương mù để tìm thấy bóng hình yêu thương, cũng không thể chống lại số mệnh từ chối cái chết.

Sự đớn đau, tự ti số phận đã khiến tác giả không thể mở lòng mình để hiểu rõ tình cảm của nàng Kim Cúc, cũng như không thể đưa bản thân thoát khỏi những mộng tưởng dày đặc, trước tình cảnh ấy ông chỉ còn có thể thốt lên “Ai biết tình ai có mặn mà?”, đó như là lời gửi tới người con gái phương xa liệu có còn nhớ mong kẻ tội nghiệp này, rồi cũng là lời trách móc nhiều đau thương khi lòng ông lo sợ Kim Cúc vốn đã không còn mặn mà với đoạn tình cảm này từ lâu. Cuối cùng ấy còn có thể là lời yêu ông muốn nhắn gửi một cách thật ý nhị, kín đáo vì biết mình không còn sống được bao lâu tới cô gái xứ Huế, ông muốn nàng biết tình cảm của mình, lại cũng muốn nàng không biết, sự phức tạp và tranh chấp ấy chính là xuất phát bởi một tâm hồn có quá nhiều tổn thương, đồng thời đang tiến dần những ngày cuối của cuộc thế trần thế, chính lẽ đó người ta không thể có quá nhiều tự tin, hay là gieo rắc hy vọng, tình yêu cho một ai khác. Chi bằng tự ôm lấy nỗi đau, tình yêu vô vọng ấy một mình cho tới hết cuộc thế ngắn ngủi.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm xuất sắc và đặc biệt nhất trong suốt đời thơ của Hàn Mặc Tử khi chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời nội dung thơ ấn tượng với nhiều xúc cảm phong phú được thể hiện trong những bức tranh thiên nhiên từ sáng sớm tới tối muộn, từ cảnh thực tới cảnh mơ. Bộc lộ được tài năng sáng tác, cũng như một tâm hồn dù có chịu nhiều đau thương, xấu số, thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn giữ gìn vẹn nguyên được tấm lòng yêu cuộc sống, những khát khao hạnh phúc, tình yêu thực giản dị, mặc dù điều đó đối với người nghệ sĩ đã là quá xa tầm với.

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ lớp 11 – Mẫu 2

Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng bậc nhất của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có nhẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ”- một bài thơ đặc sắc trong sự nghiệp văn học của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa quang cảnh thiên nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm trạng của một cái tôi tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trằn trọc.

thắc mắc tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” như hờn trách nhẹ nhõm lại như lời mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Một lời hờn trách đầy dịu dàng nhưng đằng sau đó là lời mời ân cần và đầy thật tâm: “Sao anh không về chơi”. Ở đây tác giả không sử dụng từ “thăm” mà lại sử dụng từ “chơi” đủ để thấy sự thân thiết, thật tâm, mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân tình, sắp gũi. Và nhường như, đó cũng là thắc mắc mà thi sĩ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao lâu nay chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn. Trong câu thơ chất chứa cả mỗi nỗi khát khao được trở về với Vĩ Dạ thân yêu.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần hiện ra trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là vong linh của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu- cau gắn với tình yêu lứa đôi. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của thiên nhiên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng ấy. Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh tới kiều diễm. Thiên nhiên trở nên thanh thoát, trong trẻo tới lạ thường, không gian trở nên cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.

Xa xa là bóng hàng cau, khi lại sắp, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt mà:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ đựng lên như sự ngỡ ngàng tới xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá được tưới tắm bởi bàn tay khéo léo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ sắp gũi, bình dị mà bằng cách sử dụng ngôn từ độc đáo, bức tranh thôn Vĩ đầy đẹp đẽ, sống động và cao quý được gợi lên.

Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở nên hài hòa hơn khi có sự xuất hiện của con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Lối nói dáng điệu thể hiện vẻ đẹp e lệ, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở nên sinh động hơn khi có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:

“Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Không gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự tự ti của thi sĩ về tình yêu xa vắng, không thể đồng hành cùng người thương của mình. Vì lòng người mang sau bi nên thiên nhiên cũng vương buồn. Dòng sông nước vẫn chảy mà “buồn thiu”, gió xao động, hoa bắp lay trôi vô định trên làn nước. “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một khát khao vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm sự, tỏ bày. Nỗi ngóng trông, mong chờ, khát khao mãnh liệt được tâm giao được đựng lên trong tiếng thơ bình dị. Có chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc thế mình. Sợ rằng thời gian ngày một ngắn thêm mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi trống vắng, đơn chiếc, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc ấy về với kẻ mệnh bạc này không?

thực tế phũ phàng, đơn chiếc ngập lối, tác giả đành tìm tới giấc mơ, nơi đó có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo tượng:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà?”

Trong giấc mơ mang màu hy vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi biến mất trong phút chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo tượng khiến thi nhân không khỏi không lo sợ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà?”

Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm không chắc chắn. Một trái tim khát khao yêu và được yêu nhưng không bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Không biết tình người có mặn mà như chính lòng ta chăng?

Bài thơ khép lại bằng một thắc mắc tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ không chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ mà còn là bức tranh đẹp của một tấm lòng tha thiết với thiên nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 3

Mấy ai đã từng say trăng như Hàn Mạc Tử? Cả một toàn cầu trăng trong thơ ông:

Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
Đợi gió đông về để lơi lả…”

(xẻn lẻn)

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”

(Hãy nhập hồn em)

“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

(Đêm không ngủ)

Thi sĩ còn nói tới thuyền trăng, sông trăng, sông trăng… Cả một toàn cầu trăng mộng ảo, huyền diệu. Thơ Hàn Mạc Tử rợn ngợp ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu tha thiết cuộc thế, vừa thực vừa mơ. Ông là một trong những thi sĩ lỗi lạc nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông để lại cho nền thơ ca dân tộc hàng trăm bài thơ và một số kịch thơ đặc sắc. Thơ của ông như trào ra từ máu và nước mắt, có không ít hình tượng kinh dị. Cũng chưa ai biết hay về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về Huế đẹp và thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như Hàn Mạc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong “Tập thơ Điên” xuất bản năm 1940, sau khi thi sĩ đã qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về cảnh sắc thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, nhất là những cô gái duyên dáng, đa tình, đáng yêu. Hàn Mạc Tử đã viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương thơ mộng đắm say, lung linh trong sáng tới huyền ảo. Bài thơ giãi bày một nỗi niềm bâng khuâng, một khát khao về hạnh phúc của thi sĩ đa tình, có rất nhiều duyên nợ với cảnh và con người Vĩ Dạ.

Câu đầu của khổ thơ thứ nhất “dịu ngọt” như một lời chào mời vừa mừng vui hội ngộ, vừa nhẹ nhõm trách người thương xiết bao thương nhớ, đợi chờ. Giọng thơ êm dịu, đằm thắm và tình tứ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có mấy xa xôi. Cảnh cũ người xưa thấp thoáng trong vần thơ đẹp mang hoài niệm. Bao kỉ niệm sống dậy trong một hồn thơ. Nó gắn liền với cảnh sắc vườn tược và con người xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới. lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được nói tới là một sáng rạng đông đẹp nơi thôn Vĩ. Nhìn từ xa, thi nhân say mê ngắm nhìn những ngọn cau, tàu cau ngời lên dưới màu nắng mới, “nắng mới lên” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào mời, như vẫy gọi.

Quên sao được màu xanh cây lá nơi đây. thi sĩ trằm trồ thốt lên khi đứng trước một màu xanh vườn tược Vĩ Dạ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Sương đêm ướt đẫm cây cỏ, hoa lá. Màu xanh mỡ màng, non tơ ngời lên, bóng lên dưới ánh mai hồng trông “mướt quá” một màu xanh ngọc bích. Đất đai phì nhiêu, khí hậu thuận hòa, con người chuyên cần chăm bón mới có màu sắc “xanh như ngọc” ấy. Thiên nhiên như rộn rực, trẻ trung và đầy sức sống. Cũng nói về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã từng viết: “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá…” (“Thơ duyên”). Hai chữ “vườn ai” gợi ra nhiều ngạc nhiên và man mác bâng khuâng. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ với khóm trúc vườn xuân: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt trái xoan, mặt hoa da phấn, khuôn mặt búp sen là vẻ đẹp của mĩ nhân. Mặt chữ điền là gương mặt đầy đặn, vuông vắn, phúc hậu. “Lá trúc che ngang” là một nét vẽ thần tình đã tô đậm một nét đẹp của cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, tình tứ đáng yêu. Hàn Mạc Tử hơn một lần nói về trúc và thiếu nữ. Khóm trúc như tỏa bóng xanh mát chở che cho một mối tình đẹp đang nảy nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả trúc và thiếu nữ với một gam màu nhẹ, thoáng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc nhất là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người nơi Vĩ Dạ thật hồn hậu, thân thuộc đáng yêu.

Vĩ Dạ một làng quê nằm bên bờ Hương Giang, thuộc ngoại thành cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với những con đò thơ mộng, những mảnh vườn xanh tươi bốn mùa, sum sê hoa trái. Những ngôi nhà xinh xẻo thấp thoáng ẩn hiện sau hàng cau, khóm trúc, mà ở đây thường dìu dặt câu hát Nam ai, Nam bình, qua tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục huyền diệu, réo rắt. Thôn Vĩ Dạ đẹp nên thơ. Hàn Mạc Tử đã dành cho Vĩ Dạ vần thơ đẹp nhất với tất cả tấm lòng tha thiết mến thương. xa vắng Huế và Vĩ Dạ đã bao năm tháng rồi. vậy mà cảnh sắc và con người nơi thôn Vĩ vẫn được thi sĩ ôm ấp trong lòng, càng trở nên lung linh, biểu lộ niềm ước mong tha thiết được trở lại cố đô thăm cảnh cũ người xưa. Bức tranh tâm trạng đã được thể hiện một cách tài hoa bức tranh thôn Vĩ hữu tình nên thơ.

Khổ thơ thứ hai nói về cảnh mây trời, sông nước. Một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Hai câu 5, 6 là bức tranh tả gió, mây, dòng sông và hoa (hoa bắp). Giọng thơ nhẹ nhõm, thoáng buồn. Nghệ thuật đối tạo nên bên phiên cảnh hài hòa, tương xứng và sống động. phong vân đôi ngả như mối tình thi sĩ, tưởng sắp đó mà xa vời, cách trở. Dòng Hương Giang êm đềm trôi lững lờ, trong tâm tưởng thi nhân trở nên “buồn thiu”, nhiều bâng khuâng man mác. Hoa bắp lay, nhè nhẹ đung đưa trong gió thoáng. tiết điệu thư thả, thơ mộng của miền sông Hương núi Ngự được diễn tả rất tinh tế! những điệp ngữ luyến láy gợi nhiều vương vấn mộng mơ. Ngoại cảnh mênh mang chia lìa như nỗi lòng, như tâm tình thi nhân vậy;

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo, thi sĩ hỏi “ai” hay hỏi mình khi nhìn thấy, hay nhớ tới hình ảnh con đò nằm mộng bến sông trăng. Sông Hương quê em trở thành “sông trăng”. Hàn Mạc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã sáng tạo nên vần thơ đẹp nói về dòng sông Hương với những con đò dưới vầng trăng. Nguyễn Công Trứ đã từng viết: “trăng hoa chứa một thuyền đầy”. Hàn Mạc Tử cũng góp cho nền thơ Việt Nam hiện đại một vần thơ trăng độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn thi sĩ xao xuyến khi nhìn sông trăng và con thuyền. Thuyền em hay “thuyền ai” vừa thân quen, vừa xa lạ. Chất thơ mộng ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” là ở những thi liệu ấy. Câu thơ gợi tả một hồn thơ đang rung động trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, nói lên một tình yêu kín đáo, dịu dàng, thơ mộng và thoáng buồn. ở đây bức tranh tâm trạng tràn ngập ánh trăng, thấm thía một nỗi buồn đơn chiếc li biệt của khách đa tình.

Khổ thơ thứ ba nói về cô gái Huế và tâm tình thi nhân. Đương thời, thi sĩ Nguyễn Bính đã viết về thiếu nữ sông Hương: “Những nàng thiếu nữ sông

Hương – Da thơm là phấn, má hường là son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, những buổi sớm mai và chiều tà lắm sương khói. “Sương khói” trong Đường thi thường gắn liền với tình cố quốc, ở đây sương khói đã làm nhòa đi, mờ đi áo trắng em, nên anh nhìn mãi vẫn không nhìn thấy phết hình em (nhân ảnh). Người thiếu nữ Huế thoáng hiện, trong trắng, kín đáo và duyên dáng. sắp mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, trong trắng, kín đáo và duyên dáng. sắp mà xa. Thực mà mơ. Câu thơ chập chờn, bâng khuâng. Ta đã biết Hàn Mạc Tử từng có một mối tình đẹp đơn phương với một thiếu nữ Huế mang tên một loài hoa đẹp. Phải chăng thi sĩ nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà?”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” những điệp ngữ và luyến láy ấy tạo nên nhạc điệu sâu lắng, dịu buồn, mênh mang. Sự cách biệt và nỗi buồn xa vắng chia li như kéo dài trong không gian và thời gian vô tận. Người Xem thêm cảm thương cho thi sĩ tài hoa, đa tình mà bạc phận, từng say đắm với mối tình đơn phương nhưng suốt đời phải sống trong đơn chiếc và bệnh tật.

Cũng cần nói một đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả 4 lần chữ “ai” xuất hiện đều mơ hồ, khiếp sợ: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?” – “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó?” – “Ai biết tình ai có mặn mà?”. Con người mà thi sĩ nói tới là con người xa vắng, trong hoài niệm, bâng khuâng. thi sĩ luôn luôn cảm thấy mình hụt hẫng, chơi vơi trước một mối tình đơn phương mộng ảo. một tẹo hy vọng mỏng mảnh mà tha thiết như đang nhạt nhòa và mờ ảo cùng sương khói?.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho ta một bài thơ tình thật hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, say đắm và bâng khuâng, ngạc nhiên và thẫn thờ… bao hình ảnh và xúc cảm đẹp mà buồn tụ họp trong ba khổ thơ thất ngôn, câu chữ toàn bích. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Cái màu xanh như ngọc của vườn ai, cọn thuyền ai đậu bến sông trăng, và cái màu trắng của áo em như dẫn hồn ta đi về miền sương khói Vĩ Dạ thôn một thời xa vắng, tìm lại bóng mĩ nhân, thương nhớ thi sĩ tài hoa, đa tình mà mệnh bạc. Bức tranh tâm trạng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” vương vấn mãi lòng ta. thi sĩ Thu Bồn đã nói hộ lòng ta.

“Xin chào Huế một lần anh tới
Để nghìn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 4

“Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ hoài niệm. Theo tư liệu về Hàn Mạc Tử, khi còn làm việc ở Sở Đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử đã đem lòng yêu Hoàng Thị Kim Cúc – con gái ông chủ sở Đạc điền Quy Nhơn, quê ở thôn Vĩ, xứ Huế. Tất cả tình cảm của mình Hàn Mạc Tử gửi gắm vào tập Gái quê. Khi Hoàng Cúc theo cha về nghỉ hưu ở Huế – Vĩ Dạ, Hàn Mặc Tử xem như nàng đã đi lấy chồng.

Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi, hết ước mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng,
Ngồi lên đó thả cái hồn thơ.

Hàn Mặc Tử khi lâm bệnh hủi năm 1936. Năm 1939, Hàn nhận được tấm bưu ảnh của Kim Cúc gửi tặng, đó là một bức ảnh chụp phong cảnh xứ Huế, có sông nước, có thuyền, có bến có trăng, cùng những hàng cau cao vút kèm theo dòng chữ của Hoàng Cúc để yên ủi thi sĩ. Bức bưu thiếp đã đánh thức xúc cảm của thi sĩ, nên có bài thơ tuyệt bút này.

Khổ thứ nhất mở đầu bằng một thắc mắc tu từ. Câu thơ thoáng như một lời trách móc nhẹ nhõm có pha chút tiếc nuối của ai đó, nhưng đằng sau đó là lời chào mời tha thiết khách tới thăm để được thưởng thức cảnh đẹp của “thôn Vĩ”.

Về thôn Vĩ để được “nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. thi sĩ nói tới cây cau trước tiên vì cau là loài cây thanh nhã, xinh xẻo với thân thẳng tắp, tán lá xanh tươi, gợi sự ngay thẳng thủy chung. Hình ảnh hàng cau ở đây còn có một chi tiết khó quên, ấy là “Nắng hàng cau, nắng mới lên”. Điệp từ “nắng” gợi cho ta ánh nắng sớm mai, biểu tượng cho sức sống, niềm vui đang lan tỏa tràn đầy mặt đất. Trong ánh nắng sớm mai, những thân cau còn đọng sương đêm sáng lên nhấp nhánh như đang vươn lên hút lấy những ánh vàng rực rỡ

Cảnh đẹp, thu hút sự chú ý của tác giả. Câu thơ thứ ba đựng lên như một tiếng reo thích thú biểu hiện sự ngạc nhiên, ngưỡng mộ. quang cảnh Vĩ Dạ đẹp như một bức tranh: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. Vườn Vĩ Dạ với những cây trái được sự săn sóc bởi bàn tay khéo léo, lại được tắm gội mưa gió thường xuyên, nên mượt mà và dưới ánh nắng sớm mai nhấp nhánh như những viên ngọc bích. Hình ảnh so sánh của tác giả trong câu thơ vừa chuẩn xác, vừa gợi cảm. Có thể nói, tả vườn của Hàn Mặc Tử đã đạt tới độ tinh tế của một họa sĩ tài hoa.

Chỉ bằng vài nét vẽ chấm phá, Hàn Mạc Tử đã phác họa được quang cảnh khu vườn một làng quê xứ Huế vừa thân thuộc, bình dị, vừa thi vị độc đáo. Ngắm vườn xứ Huế trong cái “nắng mới lên” thật thư thái. Nhưng cảnh vật Vĩ Dạ bổng sinh động hẳn lên, khi bóng vía con người xuất hiện: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Mặt chữ điền thường gợi về vẻ đẹp phúc hậu. trọng thể, quý phái, còn lá trúc gợi cái dáng vẻ mảnh mai, xinh xẻo, thanh tú. Câu thơ ngoài ý nghĩa tả thực: thấp thoáng sau khóm trúc có khuôn mặt rất phúc hậu của ai đó hình như đang dõi theo khách đường xa, còn có ý nghĩa tượng trưng, dáng điệu hóa.

Cảnh và người tô điểm cho nhau: cảnh xinh xẻo, thơ mộng, người phúc hậu quý phái. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Nhờ thế câu thơ đã làm bật được cái vong linh vườn cây xứ Huế mà khổ thơ tập trung biểu hiện.

Xem Thêm : Phân tích 2 câu đầu bài Thương vợ – Tú Xương ( Dàn ý + văn mẫu)

Tóm lại, bằng những chi tiết rất thân thuộc và bình dị, Hàn Mạc Tử đã khắc họa một bức tranh quê Vĩ Dạ tràn đầy sức sống với vẻ đẹp bất thần, có sự hài hòa giữa cảnh và người. Đoạn thơ làm khơi dậy trong tâm hồn người đọc biết bao nỗi niềm quê hương làng mạc Việt Nam.

Khổ thơ thứ hai cho thấy một toàn cầu khác của Huế: Dòng sông Hương và vẻ đẹp êm đềm trầm tư của Vĩ Dạ nói riêng và Huế nói chung.

Về với Vĩ Dạ, về với Huế, với núi Ngự, sông Hương, Hàn Mạc Tử cũng cảm nhận được cái vong linh, cái tiết điệu rất Huế ấy. quang cảnh Huế dưới ngòi bút của Hàn Mặc Tử có sông nước, bờ bài, có gió, có mây và con thuyền ai đó đậu dưới trăng nơi bến vắng. Tất cả tạo nên một bức tranh êm đềm, thơ mộng.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Hai câu thơ tả cảnh nhưng thấm đẫm tình người. Hai câu thơ gợi cảm giác chia ly buồn vắng tới não nuột. Phải chăng một mối tình đơn phương, chưa có phút giây gặp gỡ ngọt ngào đã sớm chia li nên cảnh cũng hòa vào lòng người mà sầu tủi, phân li? Bởi đang trong tâm trạng buồn tương tự nên nhìn vào đâu cũng thấy buồn. Gió thổi mây bay thường là một chiều, nhưng đây lại đứt gãy, như là không có sự gặp gỡ. Điệp từ “gió” và “mây” đã thể hiện ra điều đó. Và ngay tới dòng nước vô tri kia cũng trở nên buồn hiu cùng với hoa bắp hiu hắt khẽ “lay”. Hai câu thơ không chỉ tả cảnh và tình trong cảnh, mà nhường như còn muốn tả cái tiết điệu của cảnh. Đó là cái tiết điệu êm đềm, lững lờ, nét trầm tư rất tiêu biểu không nơi nào có được của Huế. Hai câu thơ có cái nhịp thư thả chậm rãi cũng đã diễn tả rất thành công cái xúc cảm trên.

Viết về Huế không thể không tả trăng. Trăng dưới ngòi bút của Hàn Mạc Tử huyền ảo, tràn đầy vũ trụ, tạo nên một không khí nửa thực, nửa hư như trong mộng:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Chỉ có trong mộng thì sông mới là sông trăng và thuyền mới chở trăng. Ở đây Hàn Mặc Tử là con người có con mắt rất mơ, rất ảo. Nhìn vào sự thực thì sự thực thành chiêm bao, nhìn vào chiêm bao lại thấy sẽ sang địa hạc huyền diệu. Lời thơ của Tử thanh tao quá! Ngọt lịm cả người” (Bích Khê).

Trăng là biểu tượng cho cái đẹp của cuộc thế và thiên nhiên. Trăng cũng tượng trưng cho hạnh phúc yên bình. Vì vậy, hình ảnh thơ của Hàn Mặc Tử đã khơi dậy trong trái tim người đọc một niềm tin, niềm vui, một khát vọng hướng tới cái đẹp hoàn mỹ và thánh thiện. Những lời thư lại đựng lên như một thắc mắc vô vọng. Hai câu thơ sau của khổ thơ thể hiện tâm trạng khát khao gặp gỡ đồng thời cũng thể hiện nỗi niềm lo lắng. phấp phỏng về sự muộn màng. Chỉ một chữ “kịp” câu thơ cuối cùng đã nói lên điều đó.

tới với khổ thơ thứ ba cho thấy vẻ đẹp huyền ảo của xứ Huế và tình người tình đời thiết tha mà xa xăm vô vọng của tác giả.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra”

Điệp ngữ “khách đường xa” vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải nhớ mong tha thiết vừa diễn tả cái khoảng cách xa vời của mối tình đơn phương vô vọng. Vì vậy, “mơ khách đường xa” tác giả chỉ thấy “áo’’ nhưng “nhìn không ra”. Cô gái này là ai? Một cô gái Huế nào đó hay chính là cô gái thôn Vĩ chập chờn trong cõi mộng của thi sĩ khiến cho tác giả có cảm giác bâng khuâng hư thực? Chỉ biết đây là một hình ảnh vừa rất đỗi sắp gũi tha thiết vừa xa xôi. sắp gũi vì nó đã trở thành một hoài niệm túc trực, xa vời vì khoảng cách thời gian, không gian và làn khói sương của một mối tình chưa có lời ước hứa hẹn “Áo em trắng quá nhìn không ra” là một câu thơ khá đặc sắc. Màu trắng là màu áo dài của nữ sinh xứ Huế và cũng là màu gợi về sự thanh khiết trong trắng rất thích hợp với cô gái trong mộng tưởng. Cái màu trắng cả không gian, làm nhập nhòe cả thị giác của tác giả. Và “áo trắng quá” lại càng khó nhìn thấy khi lẩn vào sương khói hư ảo của Huế lắm nắng, nhiều mưa và sương khói của mối tình chưa có ước hứa hẹn. Vì vậy, tình cảm của người con gái thôn Vĩ hôm nào có bền chặt cho chăng? “Ai biết tình ai có mặn mà?”.

Trong đau thương tột cùng mà thi sĩ vẫn có những phút giây thả hồn trong trẻo để hướng về một miền quê thân thiết và một mối tình đây mộng ảo để tạo nên một “viên ngọc thơ tuyệt vời, chói lọi nghìn năm” Chế Lan Viên .

Bài thơ dĩ nhiên có một xuất xứ, có một nguồn cảm hứng cụ thể, nhưng qua việc phân tích, ta thấy, tác phẩm đã vượt xa ranh giới của những gì cụ thể, đạt tới sự khái quát hóa nghệ thuật cao độ để tới với cuộc thế mông mênh.

Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử không chỉ là một bài thơ thể hiện tình yêu với một người con gái xứ Huế, thậm chí không chỉ dành riêng cho một thôn Vĩ cụ thể mà còn là lời tâm sự thiết tha, là lời trăng trối của thi sĩ Hàn Mặc Tử về tình yêu day dứt và quá đỗi sâu nặng đối với cuộc thế này.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 5

Hàn Mặc Tử một thi sĩ tài hoa của văn học Việt Nam. Nhắc tới ông, chúng ta lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc phận. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Mở đầu bài thơ bằng một thắc mắc tu từ, như lời trách nhẹ nhõm, không có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhõm, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. Đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo Ngang” hay mang trong mình sự kì bí hư vô, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, mộng mơ, đúng chất Huế.

Cái đẹp được tả từ ánh nắng sớm mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhõm buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng trước hết đó. Tất cả như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó tất cả vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt xuôi tay cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh sớm mai. thi sĩ đã sử dụng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, sức sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc.

Giữa quang cảnh thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Chúng ta thường nhắc tới mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc tới “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu.

Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ mòng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, xinh đẹp, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng:

Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa tới não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động.

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “trăng hoa chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”.

Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có nào ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế.

“Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà thi sĩ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. thắc mắc tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. thắc mắc nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ làng trong tình yêu, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, nhường như đang nỗ lực chạy đua để bắt kịp với những đợi mong, hay với tình yêu mà thi sĩ hằng ấp ủ?

Nhưng tất cả những khắc khoải, thương nhớ ấy chỉ là trong tiềm thức, dễ dàng tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ tới phũ phàng:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà?

thi sĩ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa… khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu lắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, màu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế.

Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiện, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư vô ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng của chính tác giả “Ai biết tình ai có mặn mà?”.

Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phất sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. thi sĩ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “mặn mà” hay chỉ hư ảo như màu áo trong trắng mập mờ trong làn sương mờ buổi sớm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự phối hợp tuyệt đối giữa cảnh và tình. từ đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 6

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chính là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã sử dụng biết bao tâm huyết của mình viết lên. Bài thơ thể hiện niềm yêu thương nhung nhớ về quê hương xứ Huế nơi mà tác giả đã từng làm việc ở đây.

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) ông được sinh ra tại Bình Định nhưng có 1 thời gian ông được học tập tại Huế và làm việc tại đây. Đối với ông xứ Huế chính là quê hương thứ hai và cũng là nơi để lại trong ông có rất nhiều dấu ấn và kỷ niệm nhất. Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp chúng ta có thể hình dung được cảnh vật cũng như con người xứ Huế nơi đây.

Mở đầu bài thơ là lời nói ngọt ngào nghe sao mà tha thiết của một cô gái dành cho 1 chàng trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thôn Vĩ là một làng quê xinh đẹp nằm sắp bên con sống Huế thơ mộng. Làng Vĩ hay còn được gọi là làng Vĩ Dạ nơi tác giả nhắc tới là một làng quê yên bình và xinh đẹp.

Đây cũng chính là nơi mà tác giả đã làm việc và học tập tại đây. Phải chăng đây chính là những lời thì thầm nhắc nhở của cô gái dành cho chàng trai rằng hãy về làng Vĩ Dạ chơi vì có biết bao nhiêu cảnh quan đẹp kỳ bí mà chàng trai đã lâu rồi không ghé thăm. Cảnh vật ở đây đẹp tới lạ thường khi tác giả đã trình bày rõ nét từng hình ảnh dung dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ở đây cảnh vật có hai màu chủ đạo chính là màu xanh và màu nắng vàng. Cảnh vật ở đây có những hàng cau mọc lên cao và mang màu sắc xanh. Hình ảnh những hàng cau mọc theo hàng lối và tới mùa ra hoa cau thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm đó chính là lý do mà cây cau không thể thiếu ở Huế được. nếu như như bạn đã từng đi Huế thì sẽ có dịp được chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp tới mê li của những con người nơi đây.

Ở xứ Huế những bạn sẽ còn trông thấy những vườn cỏ rộng rãi bên trong là những cây cau. Một không gian toàn màu xanh và được điểm sáng bởi những ánh nắng vàng khiến cho không gian trở nên thơ mộng và trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả phải thốt lên: “mướt quá’’ một từ ngữ thể hiện được sự tươi tốt và phì nhiêu của cảnh vật nơi đây. Những giọt sương long lanh vẫn còn đọng lại ở những cây cỏ và khi ấy những ánh nắng đã khẽ chiếu vào tạo nên những viên ngọc được tác giả trình bày: “xanh như ngọc’’.

giải pháp so sánh được sử dụng ở đây khiến cho người đọc liên tưởng được hay hình dung được một bức tranh muôn màu sắc mà tác giả đã vẽ lên. Nhưng tới khổ thơ thứ hai giọng thơ trở nên sâu lắng và pha một tẹo tâm trạng buồn bã:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?’’

Hai sự vật là gió và mây khi được nhắc tới luôn gợi cho chúng ta suy nghĩ về tình yêu lứa đôi. Mây và gió vẫn luôn không rời thể hiện cho tình cảm khăng khít và gắn bó của lứa đôi. Nhưng ở đây thì tác giả lại thể hiện trái lại đó chính là sự chia ly và xa vắng giữa gió và mây mỗi vật lại đi một hướng. Phải chăng đây chính là lời nhắn nhủ của thi sĩ đối với người con gái Hoàng Kim Cúc ấy. Họ đã bị xa vắng nhau trong 1 thời gian dài khi Hàn Mặc Tử vào Sài Gòn viết báo và cô Cúc phụ cha làm việc.

Câu thơ thứ hai trong khổ chính là khắc họa về cuộc sống, nhịp sống đời thường của những người xứ Huế chậm rãi và yên bình như sự trình bày dòng nước thì buồn thiu chảy nước chầm chậm, từ từ. Hoa bắp lay động một cách nhẹ nhõm khi có gió thổi.

Câu thơ tiếp theo là một câu nhớ khiến cho người đọc liên tưởng ra được cảnh vật nhiều nhất có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và tỏa sáng cả một dòng sông khi có ánh trăng hiện lên soi tỏ cho cả một con thuyền. Liệu rằng thuyền có chở trăng về kịp tối nay hay không hay lỡ làng? Đây chính là cách nói ẩn của tác giả về chuyện tình yêu của mình có còn kịp để quay lại và yêu thương nữa hay không hay là hai người sẽ mất nhau mãi mãi?

Khổ thơ cuối cùng là lời thốt lên từ đáy lòng tác giả và cũng là những suy tư của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà?”

Câu trước hết trong khổ thơ cuối tạo sự ấn tượng cho người đọc với sự lặp từ hai lần khách đường xa càng gợi lên sự xa vắng hơn. Áo của người con gái ấy trắng quá tới nỗi mà tác giả không nhìn thấy nữa chính là vì người con gái ấy xinh đẹp mặc trên mình chiếc áo tinh khôi khiến tác giả không thể nhìn thấy được người con gái mình đã yêu năm nào. Sương khói dày đặc khiến làm mờ đi hình ảnh con người và tác giả tự hỏi liệu rằng cô ấy còn yêu còn tình cảm mặn mà với mình nữa hay không? Câu thơ cuối chính là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ chúng ta sẽ biết được rằng đây chính là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử đã viết lên trước khi qua đời bởi căn bệnh phong. Thông qua bài thơ chúng ta có thể tưởng tượng được cảnh đẹp của thiên nhiên cũng như con người nơi xứ Huế xinh đẹp nơi mà đã từng là cố đô của nước ta năm nào. Bài thơ cũng thể hiện khắc họa được tình yêu thật tâm mà thi sĩ đã dành tặng cho một người con gái xứ Huế thật mặn mà mà ngọt ngào xiết bao!

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 7

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà thi sĩ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. Đó là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong nhưng vẫn mang trong mình nỗi thương nhớ, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là nơi chứa biết bao nhiêu thời gian đẹp đẽ mà thi sĩ đã gắn bó ở đây.

Xứ Huế chính là quê hương thứ hai của thi sĩ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân viên sau đó mới chuyển vào Sài Gòn và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của thi sĩ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói tới:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhõm mà khi ai đọc tới cũng có thể đoán được đó chính là lời trách của một cô gái đối với một chàng trai. Nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu tới vậy! Cô gái trách cứ với chàng trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để xem những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.

Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa ngừng lại ở đó mà khi đọc tới hai câu thơ tiếp theo ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ tới khó tưởng:

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

nếu như những bạn đã từng đi thăm quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xẻo có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn thuần lắm họ chỉ cần sống sắp gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy thôi cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào tới Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiện diện thế nào.

Đường phố thì đông đúc người qua lại sức đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề vội vã. Tác giả trình bày: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn đẹp hơn khi có những tia nắng chiếu vào.

Cảnh vật như tráng lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá tới nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của thi sĩ Hàn Mặc Tử biết bao.

Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và nhân hậu của những con người nơi đây. tới khổ thơ thứ hai thì tác giả đã đặc biệt khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người nơi xứ Huế chậm rãi mà yên ả:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm tới nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa vắng giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa chàng trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – một cô gái mà ngày xưa thi sĩ đã thầm thương trộm nhớ.

Và khi đọc tới câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người đọc có thể liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đó có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi tới đâu như thể chở trăng đi theo tới đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?

Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được trình bày cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có mặn mà?”

Tác giả mơ tới một giấc mơ ở đó có người khách lạ mà đó chính là cô gái mà tác giả đang yêu. Áo trắng quá khiến thi sĩ không còn nhìn thấy được cô gái nữa rồi. Màu áo trắng cũng làm chúng ta dễ dàng liên tưởng tới màu áo trắng của tà dài nữ sinh Huế. Câu thơ lặp từ khách đường xa tới 2 lần càng thể hiện sự sâu lắng và xa lạ giữa thi sĩ với nhân vật mà tác giả nhắc tới.

Sương và khói đã làm mờ đi hình ảnh của người con gái khiến cho tác giả cảm giác xa xôi, khó sắp. Tác giả tự hỏi bản thân mình: “Ai biết tình ai có mặn mà?” không biết liệu rằng cô nàng đó còn nhớ và còn thương Mặc Tử hay không? Đọc xong câu thơ cảm thấy phảng phất nỗi buồn, đó là tình yêu dạt dào của tác giả đơn phương gửi gắm tới một cô gái mà không được đáp trả lại.

………………….

Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 11