Tổng hợp 18 bài Phân tích Sang thu của Hữu Thỉnh siêu hay

Bài thơ Sang thu là bức tranh giao mùa tuyệt đẹp, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Với 17 bài phân tích Sang thu, kèm theo dàn ý chi tiết sẽ giúp những em học sinh lớp 9 cảm nhận rõ nét sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời, của lòng người.

Bạn Đang Xem: Tổng hợp 18 bài Phân tích Sang thu của Hữu Thỉnh siêu hay

Với những hình ảnh thu đầy thơ mộng trong bài thơ Sang thu, đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về bức tranh thu để nhanh chóng viết bài cảm nhận Sang thu thật hay. Chi tiết mời những em cùng tải miễn phí 17 bài cảm nhận Sang thu để ngày càng học tốt môn Văn 9.

Dàn ý phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

I. Mở bài

  • Mùa thu luôn là đề tài thân thuộc gợi nhiều xúc cảm cho những thi nhân
  • Bài thơ “Sang Thu” khiến cho thi sĩ ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển giao mùa từ mùa hạ sang thu, cả bài thơ là một bức tranh thu tươi đẹp.

II. Thân bài

* Bức tranh thiên nhiên mùa thu được Hữu Thỉnh phác họa một cách sinh động và giàu sức biểu cảm bằng khứu giác, thị giác, xúc giác.

– thi sĩ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người, tâm hồn của mình qua những tín hiệu:

  • Sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng, tiếng lá vàng rơi xào xạc.
  • Hương ổi bỗng phả vào gió se thơm ngạt ngào, nồng nàn đánh thức những xúc cảm trong lòng người.
  • Màn sương sử dụng dắng qua ngõ, một tí ngỡ ngàng, bâng khuâng trong tâm hồn thi sĩ và sung sướng thầm thốt lên “Hình như thu đã về”.
  • Dòng sông, mưa, đám mây cũng có những tín hiệu sang thu => Tác giả khẳng định rằng “Thu tới thật rồi”.

– tín hiệu của mùa thu trong thơ rất bình dị, sắp gũi. Tác giả rất tinh tế, khéo léo để trông thấy sự thay đổi rất nhẹ nhõm, dịu dàng của mùa thu chỉ vừa mới chớm.

– Hình ảnh đám mây mùa hạ duyên dáng “Vắt nửa mình sang thu” thật thú vị và độc đáo.

– Tất cả như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

* Tác giả khởi đầu suy ngẫm, chiêm nghiệm thể hiện qua giọng thơ trầm hẳn ở bốn câu thơ cuối

– Khổ cuối nói lên một vài cảm nhận, suy ngẫm của thi sĩ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu qua hình ảnh nắng, mưa, sấm.

– Tác giả chiêm nghiệm và sự từng trải qua hình ảnh “Hàng cây trung niên” : hình ảnh gợi cho người đọc nhiều liên tưởng như một đời người trưởng thành rồi già cỗi đi

=>Hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc.

– Mùa thu khép lại những tháng ngày sôi nổi, xốc nổi của tuổi xanh để mở ra một mùa mới, một không gian mới điềm đạm hơn.

* Nghệ thuật

– Với thể thơ 5 chữ, tiếng nói giản dị, hình ảnh đơn sơ, thân thuộc, giải pháp nghệ thuật nhân hóa những hình ảnh màn sương, đám mây, … làm cho bài thơ trở nên sinh động hơn.

III. Kết bài

  • Hữu Thỉnh đã vẽ nên một bức tranh thu tươi đẹp với nhiều xúc cảm tinh tế.
  • Cả bài thơ là bức tranh tuyệt mỹ được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim người nghệ sĩ.

Xem thêm: Top 25+ bài Phân tích Viếng lăng Bác của Viễn Phương hay nhất

Phân tích Sang thu ngắn gọn

Mùa thu, mùa của sự lãng mạn. Nó gợi lên cho con người biết bao nhiêu xúc cảm dâng trào. Chẳng khó có thể lý giải lý do vì sao mà có rất nhiều bài thơ hay viết về mùa thu tới vậy. Vẻ đẹp của mùa thu chắc hẳn bất cứ ai cũng có thể nhìn ra. Nhưng cái khoảnh khắc sang thu có nhẽ phải nhờ tới tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ mới có thể cảm nhận được. Bài thơ Sang thu của thi sĩ Hữu Thỉnh đã chỉ ra cho người đọc cái nhìn đầy tinh tế về sự chuyển giao giữa mùa hạ sang mùa thu.

Bài thơ được tác giả viết theo thể thơ 5 chữ. Toàn bộ bài cũng chỉ có 3 khổ, ngắn gọn nhưng súc tích. Bài thơ không chỉ vẽ lên được được cảnh đẹp của giây phút chuyển mùa mà còn thể hiện được tâm trạng và xúc cảm của tác giả trước cảnh đẹp thiên nhiên. Mở đầu bài thơ Hữu Thỉnh viết:

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Khác với thơ xưa khi mô tả mùa thu thường nhắc tới màu vàng của lá với hình ảnh lá rụng mùa thu. Ở thơ Hữu Thỉnh, ông cảm nhận mùa thu qua nhiều giác quan khác nhau. Đó là khứu giác, là xúc giác, là thị giác và là tri giác. Mùa thu trong Hữu Thỉnh tới từ mùi hương của những bông hoa ổi và những quả ổi chín vàng ươm. Mùa thu còn tới từ những cơn gió se, không lạnh như gió mùa đông cũng không nóng như gió mùa hè. Nó dịu mát và làm tâm hồn con người thêm thư thái. Mùa thu với đặc trưng sương mù cũng khởi đầu hiện hữu, chúng “sử dụng dắng qua ngõ” và len lỏi khắp mọi ngõ ngóc của đường phố. Tất cả những điều ấy khiến cho tác giả đặt ra một câu nghi vấn. Ông không khẳng định mà chỉ nói rằng “hình như thu đã về”. Từ “hình như” gợi lên cho người đọc một sự ngỡ ngàng, một sự bâng khuâng không dám tin rằng đây lại là sự thực.

Sau sự cảm nhận của những giác quan thì lúc này, nhịn nhường như mùa thu đã hiện hữu rõ nét hơn thông qua những hình ảnh cụ thể:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Tác giả Hữu Thỉnh đã rất khéo léo khi sử dụng những tính từ để chỉ sự chảy trôi của dòng sông và của những cánh chim bay. Sông thì “dềnh dàng” bởi mùa thu những cơn gió sẽ khiến cho dòng nước lững lờ trôi. “Dềnh dàng” ý chỉ sự chậm rãi, ung dung, tự tại cũng giống như từ “sử dụng dắng” khi mô tả sương ở câu thơ trên. Nhưng đối lập với sự chậm rãi ấy lại là sự “vội vã” của những chú chim. Đó là sự nhạy cảm của tác giả khi nhìn cảnh vật xung quanh. Ông hiểu rằng, mùa đông là thời khắc lũ chim sẽ bay về phương nam tránh rét. Vì vậy mà khi trời chuyển sang thu, chúng sẽ khởi đầu chuẩn bị cho một hành trình dài bay về phương xa. Sự vội vã ở đây cũng là điều rất dễ hiểu. Nhưng hình ảnh đám mây mới là hình ảnh tinh tế nhất. Vì đây là khoảnh khắc sang thu nên tiết trời vẫn còn chút vương vấn của mùa hạ. Điều đó thể hiện qua hình ảnh đám mây “vắt nửa mình sang thu”. Một nửa của nó vẫn còn đang ở mùa hạ. nhịn nhường như giữa hai mùa chỉ cách nhau một ranh giới trên bầu trời. Chỉ cần đám mây kia vận chuyển qua vạch ranh giới ấy là mùa thu sẽ chính thức gõ cửa.

Khổ thơ cuối cùng, tác giả đã cảm nhận mùa thu bằng lý trí của mình. Ông lồng ghép trong đó những tâm sự của con người trước thời cuộc:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên

Mùa thu mới chớm tới, nắng dù vẫn còn nhiều nhưng những cơn mưa đã thưa thớt dần, sấm chớp cũng không còn dữ dội và khiến người ta bất thần như những ngày đầu hè nữa. Ở đây, có thể hiểu câu thơ của tác giả theo hai lớp nghĩa, một là đơn thuần tả cảnh thiên nhiên, hai là nói tới xúc cảm của con người. nếu như những hàng cây cổ thụ không còn bất thần bởi tiếng sấm thì những con người đã trải qua biết bao biến cố của cuộc thế cũng không e ngại bất cứ một sóng gió nào nữa.

Bằng cách sử dụng tính từ chỉ con người để nói về cảnh vật, thi sĩ Hữu Thỉnh đã sử dụng giải pháp nghệ thuật nhân hóa một cách tài tình khiến cảnh vật trở nên sống động và có hồn hơn. Câu thơ đọc lên tới đâu là gợi mở xúc cảm cho con người tới đó. Bài thơ cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên, quốc gia khi mùa xuân về.

Phân tích Sang thu hay nhất

Giữa bộn bề mưu sinh của cuộc sống, chẳng mấy ai còn bận tâm hay dành thời gian để cảm nhận thời khắc giao mùa. nếu như mùa xuân là của của sự sống đâm chồi nảy lộc, mùa hạ là mùa của hoa thơm trái ngọt, mùa đông là mưa dầm gió bấc thì mùa thu là mùa của lá rơi và kỷ niệm. Bài thơ “Sang thu” của thi sĩ Hữu Thỉnh thực sự đã mang giây phút giao mùa sang thu chạm tới sự rung động của người đọc. Khoảnh khắc trông thấy thu về vừa ấn tượng lại dịu dàng và rất tinh tế.

Đối với Hữu Thỉnh, tín hiệu để nhận diện mùa thu sang không phải là lá vàng rơi rụng mà là hương ổi chín thơm ngọt ngào. Một mùi hương tuy bình dị, dân dã nhưng lại rất đặc trưng và thân thuộc.

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về”

Từ “bỗng” mở đầu bài thơ cho thấy tác giả khi ấy rất ngỡ ngàng, bỗng dưng trông thấy một mùi hương thân thuộc từ trong ngọn gió se se lạnh. Động từ “phả” được đảo lên đầu câu không chỉ diễn tả sự giao trâm, hòa quyện giữa hương ổi và gió se mà còn gợi sự vận động, lan tỏa nhẹ nhõm của một hương thơm thanh mát, dịu nhẹ của hương ổi trong không gian. Tác giả Hữu Thỉnh đã cảm nhận được tín hiệu mơ hồ của mùa thu bằng những giác quan: khứu giác, thị giác và bằng cả tâm hồn nhạy cảm của một con người tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống.

“Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về”

Cách cảm nhận của tác giả thật khéo léo, những màn sương sớm được thi sĩ ví là đang “sử dụng dắng” đi qua ngõ, mang vẻ ngập ngừng, thong dong, không chắc rằng thu đã về hay chưa, và để rồi cảm thấy bâng khuâng trông thấy “thu đã về”. “Hình như” đã diễn tả sự mơ hồ, không xác định trong cảm giác của thi sĩ khi bắt gặp những tín hiệu chưa thực sự rõ nét của mùa thu.

nếu như trong khổ thơ đầu Hữu Thỉnh mơ hồ cảm nhận được những tín hiệu của mùa thu thì sang khổ thơ thứ hai, sự thay đổi của đất trời khi thu sang được cảm nhận vô cùng rõ ràng. Quá trình chuyển biến của thiên nhiên khi sang thu hiện hữu ở mọi cảnh vật, khiến cho con người ta trông thấy mùa thu đang ngày càng hiện hình rõ nét chứ không còn mơ hồ nữa.

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Có thể thấy, sự biến chuyển của không gian, thiên nhiên trong quá trình sang thu đã được thi sĩ cảm nhận tinh tế qua nhiều yếu tố và bằng nhiều giác quan, đặc biệt đó là sự cảm nhận từ chính sự rung động của tác giả trước mùa thu. Dòng sông bước vào mùa thu không còn nước dâng cao chảy xiết mà “dềnh dàng” một cách nhẹ nhõm, yên ả, gợi lên vẻ đẹp dịu dàng của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Những cánh chim cũng khởi đầu “vội vã” bay về phương Nam tránh rét. Hình ảnh thú vị đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu” khiến người đọc liên tưởng đám mây kia không phải vật vô tri vô giác mà bỗng trở nên có hồn, có xúc cảm. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây mùa hạ cuối cùng vận chuyển một cách nhẹ nhõm, uyển chuyển “vắt nửa mình sang thu”, nhịn nhường như đám mây ấy vừa mong chờ thu sang nhưng cũng như lưu luyến, nuối tiếc phải chia tay mùa hạ.

nếu như như cuộc thế con người cũng như bốn mùa trong năm thì mùa thu là mùa mà ở đó con người ta đã trưởng thành, đã đủ chín chắn để chiêm nghiệm ra nhiều điều.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Tiết trời mùa thu vẫn còn vương vấn cái oi nồng của mùa hạ “còn bao nhiêu nắng”, tuy vẫn sáng nhưng không chói chang gay gắt mà nhạt dần, dịu dần. Vẫn có mưa, nhưng không còn là những cơn mưa rào tới bất thần và đi trong thoáng chốc “vơi dần cơn mưa”. Trời vào thu cũng đã bớt đi những tiếng sấm đột ngột và bất thần trên những hàng cây trung niên. Hai câu thơ cuối bài được coi là câu thơ hay nhất cũng là kết tinh trị giá tư tưởng cho toàn bộ bài thơ:

“Nắng cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Nắng, mưa hay sấm đều là những tác động bất thần và thất thường tự nhiên. Từ hiện tượng thất thường của thời tiết, tác giả Hữu Thỉnh đã gợi cho người đọc những chiêm nghiệm sâu sắc về tác động của nghịch cảnh trong cuộc thế mỗi người. “Hàng cây trung niên” là những hàng cây cổ thụ, đó cũng là biểu tượng cho những con người đã trưởng thành. Khi con người đã trưởng thành, đã từng đi qua những bão táp, giông tố sẽ vững vàng, kiên cường hơn hơn trước những biến cố bất thần của cuộc sống.

Đất trời cuối hạ sang thu chuyển mình một cách rất nhẹ nhõm nhưng rõ rệt, nhờ có thi sĩ Hữu Thỉnh với bài “Sang thu” mà người đọc đã có thời cơ lắng mình trong giây phút để cảm nhận thu về. Không chỉ là sự cảm nhận về thay đổi thời tiết, thiên nhiên mà còn để nhìn nhận về chính bản thân mình sau những thay đổi.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 1

Những hiện tượng, sự vật của tự nhiên luôn khiến cho những tâm hồn nhạy cảm, thơ mộng rung động trước vẻ đẹp của nó, và thi sĩ Hữu Thỉnh cũng không ngoại lệ. Ông là một thi sĩ viết rất hay, rất xúc cảm về cuộc sống, về con người với những vần thơ mềm mại, tinh tế chỉ riêng ông có được. Sự chuyển mình từ mùa hạ sang mùa thu là một trong những thay đổi của tự nhiên đã lọt vào trái tim đa cảm của nhà thi sĩ này. Bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh cho tới nay vẫn được đánh giá là một trong những bài thơ mô tả hay nhất về mùa thu.

Mở đầu bài thơ là xúc cảm ngạc nhiên, ngỡ ngàng của tác giả khi thấy sự chuyển mình từ hạ sang thu:

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se”

nếu như như thi sĩ Xuân Diệu cảm nhận mùa thu qua những chiếc lá vàng, thi sĩ Xuân Quỳnh cảm nhận mùa thu bằng vẻ đẹp của hoa cúc và làn gió heo may thì cách cảm nhận của Hữu Thỉnh lại vô cùng đặc biệt: hương ổi. Ở đây, tác giả đã đón nhận mùa thu bằng khứu giác. Thu tới, những chùm ổi chín phất phơ trong gió tỏa hương thơm vô cùng quyến rũ. Hương thơm này không quá ngạt ngào, cũng không quá nhẹ mà nó thoang thoảng, hòa cùng làn gió như đánh thức xúc cảm trong lòng người. thi sĩ đảo những động từ “Bỗng” và “Phả” lên đầu câu như để nhấn mạnh rằng mùa thu tới thật tự nhiên, không báo trước, làm cho tác giả ngạc nhiên, thảng thốt. Sự chuyển mình của đất trời không chỉ được tác giả cảm nhận bằng khứu giác mà còn bằng thị giác:

“Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về”

Từ láy “sử dụng dắng” cho thấy sự quyến luyến, không nỡ rời đi của màn sương. Sự sử dụng dắng của màn sương hay chính là sự luyến lưu của tác giả khi không muốn mùa hạ đi qua mà cũng lỡ yêu mùa thu mất rồi. Hẳn không có gì là lạ khi Hữu Thỉnh cảm nhận mùa thu bằng cả tâm hồn tương tự, bởi bài thơ được ông sáng tác vào năm 1977 – một trong những mùa thu độc lập trước hết của quốc gia. Mỗi một thay đổi của đất trời đều khiến cho con người ta để ý và rung động tới mức khó quên. trước hết là hương ổi và bây giờ là cả màn sương, tất cả cho thấy một mùa thu đang về rồi. Từ “hình như” là một nhận định lấp lửng của tác giả, trước những thay đổi ấy, thi sĩ đã khởi đầu cảm nhận được sự xuất hiện của mùa thu.

Ở khổ thơ thứ hai, ta thấy mùa thu tới rõ ràng hơn trước sự chứng kiến của thi sĩ Hữu Thỉnh:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Thu tới, dòng sông không còn phải gồng mình lên trước những cơn mưa lũ của mùa hạ, những cánh chim đã khởi đầu đi tìm nơi trú ẩn cho mình trước khi một mùa đông lạnh giá ghé thăm. Và cả những đám mây trắng trên bầu trời cao vợi cũng đã tới lúc nói lời chào tạm biệt mùa hè rồi. Đoạn thơ được tác giả sử dụng một loạt những từ láy “dềnh dàng”, “vội vã” là những động từ thể hiện sự đi lại của sự vật. Những sự vật của tự nhiên được nhân hóa với những hành động khi nhanh, khi chậm, vô cùng sinh động trong con mắt của tác giả. Lại một lần nữa động từ được đặt lên đầu câu. Động từ “Vắt” cho thấy hình ảnh một đám mây mềm mại, vắt ngang trên bầu trời, một nửa còn vương vấn mùa hạ, nửa còn lại đã bước chân sang mùa thu.

Sang tới khổ thơ cuối, thi sĩ Hữu Thỉnh không còn cảm nhận mùa thu bằng những sự thay đổi của tự nhiên nữa mà thay vào đó là sự đan xen những chiêm nghiệm về cuộc thế:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Nắng cuối hạ vẫn còn hồng, vẫn còn sáng nhưng đã nhạt đi nhiều so với thời khắc giữa mùa hè chói chang. Bầu trời cũng không còn những cơn mưa ồ ạt, sấm nổ vang trời khiến cho mọi người phải giật thột nữa bởi thu đã tới thật rồi! Hai dòng thơ cuối là sự chiêm nghiệm của tác giả về cuộc thế:

“Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Hình ảnh ẩn dụ “hàng cây trung niên” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Ở đây, ta có thể hiểu “hàng cây trung niên” tượng trưng cho một con người từng trải, đã đi qua bao giông bão của cuộc thế để trưởng thành hơn. Mùa thu của quốc gia hay chính là mùa thu của đời người, khi đã đi qua những tháng năm xuân, hè của tuổi xanh rực rỡ, xốc nổi thì con người ta trở nên trưởng thành hơn, chín chắn hơn và không còn bị bất thần trước những tác động của ngoại cảnh. Có thể nói, đây là một hình ảnh ẩn dụ nhiều ý nghĩa, gợi liên tưởng sâu xa về cuộc thế. Phải là một người từng trải mới có thể có những xúc cảm tương tự.

Bằng những câu chữ mộc mạc, giản dị nhưng không kém phần tinh tế, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đã mở ra trước mắt độc giả một bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp và sinh động. Tất cả đều tới từ mạch xúc cảm tự nhiên của tác giả. từ đó, ta có thể thấy được tình yêu thiên nhiên sâu sắc của thi sĩ, hiểu được vì sao Hữu Thỉnh được coi là một trong những cây bút xuất sắc khi viết về tự nhiên, về cuộc sống.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 2

Mùa thu là đề tài muôn thuở của thơ ca cổ kim, ta bắt gặp một không gian thấm đẫm chất thu của Nguyễn Du: “Người lên ngựa, kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan sơn”; ta lại gặp một mùa thu rất hiện đại trong thơ Xuân Diệu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng”. những thi sĩ đều có những khám phá, phát hiện riêng về mùa thu. Nhưng ít có thi sĩ nào lại có những cảm nhận tinh tế về bước chuyển mình từ hạ sang thu như thi sĩ Hữu Thỉnh trong bài “Sang thu”.

Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ hào chiến đấu tới thành phố”. Ngay từ nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, và còn đâu đó ẩn dấu khoảnh khắc giao mùa của đời người. Khổ thơ đầu là những cảm nhận vô cùng tinh tế, là giác quan nhạy bén của tác giả để cảm biết được hết những mỏng manh tín hiệu khi thu về:

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về.

Cảm nhận trước hết của tác giả chính là hương ổi, một mùi hương thật thân quen, sắp gũi. Hương ổi phối hợp với từ “bỗng” gợi lên biết bao cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng, cùng với đó là động từ “phả” cho thấy hương thơm đậm sánh lại hòa vào trong cơn gió se se của mùa thu. Không chỉ vậy từ phả còn cho thấy tư thế chủ động của hương ổi, khiến hương thơm càng sánh, càng đậm hơn.

Hương ổi cũng gợi nên không gian rất làng quê với những ngõ xóm sum suê cây lá, đó chính là hương vị mùa thu chỉ có riêng trong thơ Hữu Thỉnh. “Sương sử dụng dắng” – nghệ thuật nhân hóa, cho ta thấy dáng vẻ của sương cũng như đang quyến luyến, cố đi chậm thật chậm để tận hưởng nốt cái rét mướt của mùa hè, nhịn nhường như nó chưa muốn bước hẳn sang thu. Với hệ thống hình ảnh độc đáo, mô tả sinh động tác giả đã mô tả một cách tài tình những tín hiệu trước hết của mùa thu.

Trước những tín hiệu thu về lòng người nhịn nhường như cũng có sự băn khoăn, xốn xang. Tình thái từ “Hình như” diễn đạt xúc cảm mơ hồ, chưa xác định, nhịn nhường như thi sĩ vẫn còn đôi chút băn khoăn, đôi chút ngỡ ngàng: liệu có phải mùa thu đã tới thật không? Khổ thơ là những cảm nhận tinh tế, mới mẻ của tác giả lúc thu sang.

Ẩn sau những thay đổi của đất trời khi sang thu là tâm hồn tinh tế của thi sĩ, là niềm vui, hạnh phúc khi thu về. Những băn khoăn của tác giả ở khổ thơ trên, đã được trả lời bằng những tín hiệu của đất trời thấm đẫm chất thu:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

khởi đầu từ những khúc sông “dềnh dàng”, chậm chạp chảy, ta không còn thấy cái dữ dội, những dòng nước cuồn cuộn như mùa hè nữa mà thay vào đó là dòng sông thu vô cùng trong trẻo, tĩnh lặng, chảy hiền hòa như đang ngẫm ngợi điều gì. Nghệ thuật nhân hóa khiến dòng sông như đang ngơi nghỉ sau một mùa hạ cuộn xiết chảy.

trái lại những chú chim lại vội vã về phương Nam tránh rét, đồng thời cũng gợi lên những toan lo, tất bật của cuộc sống đời thường. Hình ảnh đặc sắc nhất là đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Nghệ thuật nhân hóa khiến đám mây vừa hư vừa thực, tái tạo được tiết điệu của thời gian. Đồng thời tác giả cũng hữu hình hóa cánh cổng thời gian vốn vô hình qua hình ảnh đám ấy.

Khoảnh khắc giao mùa hiện lên tinh tế, sống động qua những câu thơ giàu chất tạo hình. Ông quả là một người tinh tế và nhạy cảm khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong khoảnh khắc giao mùa. Khổ thơ cuối cùng lại thể hiện rõ hơn nữa sự tinh tế của tác giả trong việc khám phá những biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa

Hữu Thỉnh sử dụng linh hoạt phép đối “vẫn còn – vơi dần” , “nắng – mưa” gợi sự vận động ngược chiều của những hiện tượng thiên nhiên tiêu biểu cho hai mùa. Những cơn mưa mùa hè đã vơi dần, bớt dần; nắng cũng không còn chói gắt, làm người ta lóa mắt nữa mà đã là ánh nắng mùa thu dịu nhẹ như màu mật ong.

Tín hiệu thu về đã rõ nét hơn bao giờ hết. Cái đặc sắc, tinh nhạy của Hữu Thỉnh còn được thể trong cách ông sắp xếp từ ngữ giảm dần về mức độ: vẫn còn – vơi – bớt cho thấy sự nhạt dần của mùa hạ, và mùa thu mỗi ngày lại đậm nét hơn. Hai câu thơ cuối thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc về cuộc thế, con người của tác giả:

Sấm cũng bớt bất thần
Bên hàng cây trung niên

Câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trước hết về ý nghĩa tả thực: sấm là hiện tượng tự nhiên, thường là tín hiệu của những cơn mưa rào mùa hạ. Sang thu tiếng sấm cũng trở nên nhỏ hơn, không còn đủ sức lay động những hàng cây đã trải qua bao mùa thay lá nữa.

không những thế tiếng sấm còn để chỉ những biến động thất thường của cuộc thế, những gian truân, thử thách mà mỗi chúng ta phải trải qua. Tương ứng với nghĩa biểu tượng của “sấm” , “hàng cây trung niên” là tượng trưng cho những con người trưởng thành, đã trải qua biết bao sóng gió, giông tố trong cuộc thế. Bởi vậy, dù có thêm những thất thường, biến động cũng không dễ dàng khiến họ lung lay, gục ngã; họ trở nên tĩnh tâm, ung dung hơn trước những biến cố, thăng trầm của cuộc sống.

Bằng giác quan nhạy bén, Hữu Thỉnh đã xuất sắc ghi lại khoảnh khắc giao mùa của đất trời từ hạ sang thu. tái tạo bức tranh đẹp đẽ nhiều hương sắc, nhiều phong vị rất đặc trưng của đất Bắc. Cùng với đó là thể thơ năm chữ giàu tiết điệu, tiếng nói mộc mạc giản dị mà cũng vô cùng sâu sắc đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 3

“Sang thu” là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được rất nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu – thu mới về, thu chợt tới.

“Sang thu” thể hiện một văn pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc quốc gia ta.

Với thi sĩ Xuân Diệu thì tín hiệu đầu thu là sắc “mơ phai” của lá được bàn tay tạo hóa “dệt” nên giữa muôn vàn cây:

“Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.”

(Đây mùa thu tới)

Nhưng với Hữu Thỉnh là “hương ổi” của vườn quê được “‘phả vào” trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc thế:

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió dịu.”

“Phả” tức là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (tự điển Tiếng Việt – Hoàng Phê). Hữu Thỉnh không tả mà chỉ gợi, đem tới cho người đọc những liên tưởng về màu vàng ươm, về hương thơm nức, thơm ngát tỏa ra, bốc lên từ những trái ổi chín nơi vườn quê trong những ngày cuối hạ, đầu thu. Vì gió thu “se” lạnh, nên hương ổi mới thêm nồng nàn phả vào đất trời và hồn người.

Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bằng Sơn, Nguyễn Đình Thi, … đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương quốc gia:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới…”

(quốc gia – Nguyễn Đình Thi)

“Hương ổi” trong bài “Sang thu” là một cái mới trong thơ, mặn mà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh.

Sau “hương ổi” và “gió se”, thi sĩ nói tới sương thu. Cũng không phải là “Sương thu lạnh… Khói thu xây thành” trong “Cảm thu tiễn thu” của Tản Đà. Cũng ko phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: “Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun” (Chinh phụ ngâm). Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng “sử dụng dắng” cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian:

“Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ “sử dụng dắng” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu về. nếu như những từ ngữ “bỗng trông thấy” biểu lộ xúc cảm ngạc nhiên thì hai chữ “hình như” thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận.

Chữ “se” vần với chữ “về” (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhõm, mênh mông gợi cảm.

Không gian nghệ thuật của bức tranh “Sang thu” được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Sông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi: “Trắng xóa tràng giang, phẳng lặng tờ” (“Tức cảnh chiều thu” – Bà Huyện Thanh Quan). Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng”, nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ… Chim bay “vội vã”, đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đổi mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay “vội vã” ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà thi sĩ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong “Thu vịnh”:

“Một tiếng trên không ngỗng nước nào?”

Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Hữu Thỉnh không sử dụng những từ ngữ như: lang thang, lửng lơ, bồng bềnh, nhẹ trôi, … mà lại sử dụng chữ vắt.

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo: cách lựa chọn từ và sử dụng từ rất sáng tạo.

Khổ thơ cuối nói lên một vài cảm nhận và suy ngẫm của thi sĩ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời khắc giao mùa: mùa hạ – mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. những từ ngữ: vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất thần, gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà thi sĩ suy ngẫm về cuộc thế. “Sấm” và “hàng cây trung niên là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài “Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những trắc trở thử thách trong cuộc thế. Hình ảnh “hàng cây trung niên” là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi rèn trong nhiều gian khổ, khó khăn:

“Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Hữu Thỉnh viết bài thơ “Sang thu” vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, quốc gia ta tuy đã được độc lập và thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều vấn đề, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.

“Sang thu” là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, được in trong tập thơ “Từ hào chiến đấu tới thành phố” xuất bản vào tháng 5/1985. Bao xúc cảm dâng đầy trong những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. thi sĩ không sử dụng bút màu để vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang… đầy thi vị.

Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách lựa chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Thơ ngũ ngôn trong “Sang thu” thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, lắng đọng và hồn nhiên. “Sang thu” là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương quốc gia; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 4

Vào cuối năm 1977, khi chiến tranh đã kết thúc, hòa bình lập lại, trong một buổi chiều thu, ra ngoại thành Hà Nội, tới thăm một vườn ổi chín, hương vị dịu dịu… một tí ngỡ ngàng, một tí xao xuyến, Hữu Thỉnh tức cảnh sinh tình. Trong ánh nắng hoàng hôn vàng óng, bài thơ Sang thu ra đời. Hãy tưởng tượng ta đang cùng với thi sĩ đứng giữa vườn ổi mà ngâm nga bài thơ tuyệt vời của ông.

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Xem Thêm : Nghị luận về truyện ngụ ngôn Đẽo cày giữa đường (5 mẫu)

Bài thơ được viết theo thể thơ 5 chữ, cô đọng, súc tích. Cả bài thơ là giọng điệu nhẹ nhõm, đôi lúc trầm lắng suy tư. Bài thơ là sự rung động của hồn thơ trước thiên nhiên khi đất trời sang thu, một bức tranh giao mùa tuyệt đẹp.

Mở đầu bài thơ, người đọc có thể trông thấy ngay cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi tiết trời sang thu:

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se”.

Từ “bỗng” thể hiện sự đột ngột, bỗng dưng trong cảm nhận. Nhưng chính cái bất thần ấy mới thật nên thơ và đáng yêu trong một buổi chiều thu ở làng quê Bắc Bộ, thi sĩ đã chợt trông thấy điều gì? “Hương ổi phả vào trong gió se”. Vì sao lại là hương ổi chứ không phải là những hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bức tranh mùa thu những hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu… nhưng Hữu Thỉnh thì không. Đứng giữa vườn ổi chín vàng, giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông trông thấy hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất thân thuộc với quê hương. vậy mà ít ai trông thấy sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận thật tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, thi sĩ đã chợt trông thấy những tín hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng trông thấy” ấy của tác giả. Chắc hẳn thi sĩ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm, nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế?

tín hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút tương đối lạnh, còn gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật, thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được sử dụng trong câu thơ “Phả vào trong gió se” mới độc đáo làm sao! Nó diễn tả được tốc độ của gió, vừa góp phần thể hiện sự bỗng dưng trong cảm nhận: hương ổi có sẵn mà chẳng ai trông thấy, vậy mà Hữu Thỉnh đã bỗng dưng trông thấy và xao xuyến vì cái hương đồng gió nội ấy.

Không chỉ có hương ổi trong “gió se”, tiết trời sang thu còn có hình ảnh:

“Sương sử dụng dắng qua ngõ”

Từ “sử dụng dắng” gợi nhiều liên tưởng. Tác giả nhân hóa làn sương nhằm diễn tả sự cố ý đi chậm chạp của nó khi đi lại. Nó bay qua ngõ, giăng mắc vào giậu rào, hàng cây khô trước ngõ xóm đầu thôn. Nó có cái vẻ duyên dáng, yểu điệu của một làn sương, một hình bóng thiếu nữ hay của một người con gái nào đó. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “sử dụng dắng” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang ưu tư hay tâm trạng tác giả cũng “sử dụng dắng”?

Khổ thơ thứ nhất khép lại bằng câu thơ: “Hình như thu đã về”.

“Hình như” không tức là không chắc chắn mà thể hiện cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên và chút bâng khuâng. Từ ngọn gió se mang theo hương Ổi chín thơm, vàng ươm nơi vườn tược tới cái duyên dáng yểu điệu của một làn sương cứ sử dụng dắng không vội vàng trước ngõ, tác giả đã trông thấy sự chuyển mình nhẹ nhõm nhưng khá rõ rệt của thời tiết và thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa bằng đôi mắt tinh tế và tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ yêu thiên nhiên, yêu mùa thu gắn bó với cuộc sống nơi làng quê, của một người lính đã từng trải qua những năm tháng chiến tranh. nếu như không phải là Hữu Thỉnh, liệu ta có cảm nhận được cái duyên hương thu, có được cái tâm trạng như thi sĩ không?

sử dụng dằng hoa quan họ
Nở tím bên sông Thương
Nắng thu đang trải đầy
Đã trăng non múi bưởi
Bến cần con nghé đực
Cả chiều thu sang sông?

(Chiều sông Thương)

Sang thu đậm chất dân gian làng quê dân dã, mang đậm tương đối thở của ruộng đồng, nhưng vẫn rõ nét triết lí.

“Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”.

Mưa bớt dần, sấm mùa hạ ít đi khi sang thu, hàng cây không còn phải giật thột đột ngột. Đó là quy luật tự nhiên. Nhưng hai câu thơ còn có ý nghĩa hàm ngôn: “Sấm” là những âm vang, tiếng động thất thường của ngoại cảnh, của cuộc thế. “Hàng cây trung niên” chính là những con người từng trải, trung niên và họ sẽ vững vàng hơn trước tác động của ngoại cảnh.

Khi sáng tác Sang thu, Hữu Thỉnh cùng với dân tộc vừa trải qua những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Cuộc chinh chiến ấy như một mùa hạ oi ả, bức bối. Sống những năm tháng hòa bình, vào một buổi chiều thu yên ả yên bình ở làng quê, tác giả cảm nhận sự thảnh thơi trong tâm hồn như “sông được lúc dềnh dàng” bởi trước kia dẫu muốn con người cũng không thể dềnh dàng, sử dụng dắng, cho nên dẫu có gặp sóng gió cuộc thế, tác giả vẫn “tĩnh tâm chấp nhận đương đầu, không trở ngại nào đánh gục được”. Hai câu thơ chất chứa suy tư và trải nghiệm về con người và cuộc sống.

nếu như ở khổ 1, trạng thái xúc cảm của tác giả mới chỉ là “bỗng”, “hình như”, thì ở khổ còn lại, sự vận động của mùa thu đã được cụ thể hóa bằng những sắc thái thay đổi của tạo vật:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã”.

Vì sao sông thì “dềnh dàng” còn chim lại “vội vã”? Đây là những cảm nhận rất tinh tế và có cơ sở khoa học nhưng vẫn giàu sức biểu cảm. “Sông được lúc dềnh dàng” vì sang thu sông khởi đầu cạn, chảy chậm lại, không cuồn cuộn ồ ạt như mùa hè, rất thư thả và đi lại chậm rãi. Còn những đàn chim vội vã vì mùa hè chim trú mưa, ít có thời cơ kiếm mồi. Bây giờ sang thu khô ráo hơn, chúng tranh thủ đi kiếm mồi và trú rét ở phương Nam khi trời rét mướt. Hai hoạt động nhịn nhường như có vẻ đối lập nhau, nhưng với lối nhân hóa, Hữu Thỉnh đã phả hồn người vào vật, tác giả đã làm cho con sông trở nên duyên dáng, sắp người hơn, thể hiện một không gian đẹp, khơi gợi hồn thơ.

tín hiệu sang thu còn được mô tả rất sinh động qua hình ảnh:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.

Đây là một liên tưởng sáng tạo, thú vị. Mây mùa hạ thường xám xịt, đen kịt tạo cảm giác nặng nề. Mây mùa thu trong veo, xanh ngắt. “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” (Nguyễn Khuyến). sự thực, không hề có đám mây nào như thế. Vì sao có sự phân chia rẽ ròi, mắt nhìn thấy được trên bầu trời. Đó là đám mây trong liên tưởng, tưởng tượng của tác giả. Nhưng chính cái hình ảnh mùa hạ nối với mùa thu bởi nửa đám mây lững lờ, cũng dềnh dàng, sử dụng dắng, bảng lảng trên tầng không làm cho người đọc cảm nhận không gian và thời gian lúc chuyển mùa mới đẹp làm sao! Có thể nói đây là hai câu thơ đẹp nhất trong bài và tiêu biểu nhất của tiết trời sang thu.

thi sĩ cảm nhận những biểu hiện nào khác của thời tiết khi chuyển hạ qua thu?

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa”.

Đại từ phiếm chỉ “bao nhiêu” diễn tả số nhiều. Không đếm được. Làm sao đếm được nắng, nhưng tác giả cảm nhận rằng cuối hạ đầu thu đã bớt nồng nàn, oi ả, tia nắng đã bớt rực rỡ và những cơn mưa rào ồ ạt cũng đã thưa dần, không chỉ vơi mà mưa cũng ít dần.

Hữu Thỉnh cũng đã có những câu thơ, đoạn thơ sắp tứ thơ này nhưng không tài hoa, bất thần, thú vị bằng. Chẳng hạn:

“Đi suốt cả ngày thu
Vẫn chưa về tối nao”

Sang thu là một khúc giao mùa nhẹ nhõm, thơ mộng, bâng khuâng mà cũng thầm thị triết lí, đã tiếp nối hành trình thơ thu dân tộc, góp một tiếng thu đằm thắm về mùa thu quê hương, đem tới cho chúng ta tình quê hương quốc gia qua nét đẹp mùa thu Việt Nam.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 5

Cũng như mùa xuân, mùa thu luôn là đề tài gợi nhiều xúc cảm cho những thi nhân. Mỗi người lại có cách nhìn, cách mô tả rất riêng, mang đậm dấu ấn tư nhân của mình. Có thi sĩ, mùa thu là dáng liễu buồn, là màu áo mờ phai, là tiếng đạp lá vàng của con nai ngờ ngạc. Hữu Thỉnh cũng góp vào tuyển tập thơ mùa thu của dân tộc một cái nhìn mới mẻ. Ông là thi sĩ viết nhiều, viết hay về những con người, cuộc sống ở nông thôn, về mùa thu. Những vần thơ thu của ông mang xúc cảm bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo đang chuyển biến nhẹ nhõm. Điều này thể hiện rõ qua bài “Sang thu” được ông sáng tác cuối năm 1977.

Bài thơ diễn tả tâm trạng ngỡ ngàng trước cảnh đất trời đang chuyển biến giao mùa từ hạ sang thu.

Không như những thi sĩ khác, cảm nhận mùa thu qua sắc vàng của hoa cúc, của lá ngô đồng hay qua tiếng lá vàng rơi xào xạc. Hữu Thỉnh đón nhận mùa thu với một hương vị khác: Hương ổi.

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se”

“Bỗng trông thấy” là một trạng thái chưa được chuẩn bị trước, như là vô tình, sửng sốt để cảm nhận, giữa những âm thanh, hương vị và màu sắc đặc trưng của đất trời lúc sang thu. thi sĩ trông thấy tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió nhè nhẹ, lành lạnh se khô mang theo hương ổi. “Phả” là một động từ mang ý tác động được sử dụng như một cách khẳng định sự xuất hiện của tương đối thu trong không gian: “hương ổi”, một mùi hương không dễ trông thấy, bởi hương ổi không phải là một mùi hương thơm ngạt ngào, nồng nàn mà chỉ là một mùi hương thoảng đưa êm dịu trong gió đầu thu, nhưng cũng đủ để đánh thức những xúc cảm trong lòng người.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác mà thi sĩ còn cảm nhận màn sương thu trong phút giao mùa. Màn sương hình như cũng muốn tận hưởng trọn vẹn khoảnh khắc vào thu nên sử dụng dắng chưa muốn dời chân:

“Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về”

Từ láy tượng hình “sử dụng dắng” gợi cảm giác về sự lưu luyến ngập ngừng, làm ta như thấy một sự sử dụng dằng, gợi cảnh thu sống động trong tĩnh lặng, thong thả, yên bình. “sử dụng dắng” là sự ngắt quãng nhịp nhàng, đi lại chầm chậm hay cũng chính là sự rung động trong tâm hồn thi sĩ? một tí ngỡ ngàng, một tí bâng khuâng, thi sĩ phát hiện ra vẻ đẹp rất riêng của không gian mùa thu. “Hình như” là một từ tình thái diễn tả tâm trạng của tác giả khi phát hiện sự hiện hữu của mùa thu. Sự góp mặt của màn sương buổi sáng cùng với hương ổi đã khiến cho thi sĩ giật thột thảng thốt. Không phải là những hình ảnh đã trở nên ước lệ nữa mà là chi tiết thật mới mẻ, bất thần. có nhẽ với Hữu Thỉnh, làn hương ổi rất quen với người Việt Nam, mà rất lạ với thơ được tác giả đưa vào một cách hết sức tự nhiên.

Rồi mùa thu được quan sát ở những không gian rộng hơn, nhiều tầng bậc hơn:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội và
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

nếu như ở khổ một, mùa thu mới chỉ là sự đoán định với ít nhiều bỡ ngỡ, thì ở khổ thơ này, tác giả đã có thể khẳng định: Thu tới thật rồi. Thu có mặt ở khắp nơi, rất hiện hình, cụ thể. Dòng sông không còn cuồn cuộn dữ dội như những ngày mưa lũ mùa hạ mà trôi một cách dềnh dàng, thảnh thơi. Mọi đi lại nhịn nhường như có phần chậm lại, chỉ riêng loài chim là khởi đầu vội vã. Trời thu lạnh làm cho chúng phải chuẩn bị những chuyến bay chống rét khi đông về. Phải tinh tế lắm mới có thể trông thấy sự khởi đầu vội vã trong những cánh chim bay bởi mùa thu chỉ vừa mới chớm, rất nhẹ nhõm, rất dịu dàng. Điểm nhìn của thi sĩ được nâng dần lên từ dòng sông, rồi tới bầu trời cao rộng:

“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Cảm giác giao mùa được Hữu Thỉnh diễn tả thật thú vị. Đây là một phát hiện rất mới và độc đáo của ông. Mùa thu mới khởi đầu vì vậy mây mùa hạ mới thảnh thơi, duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây như một dải lụa mềm trên bầu trời đang còn là mùa hạ, nửa đang nghiêng về mùa thu. Bức tranh chuyển mùa vì vậy càng trở nên sinh động và giàu sức biểu cảm.

Ở khổ cuối, khoảnh khắc giao mùa không còn được thi sĩ diễn tả bằng cảm nhận trực tiếp mà bằng sự suy ngẫm, chiêm nghiệm:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đang nhạt dần. Những ngày giao mùa này đã vơi đi những cơn mưa rào ồ ạt. Vẫn là nắng, vẫn là mưa, sấm như mùa hạ nhưng mức độ đã khác rồi. Lúc này, những tiếng sấm bất thần cùng những cơn mưa rào không còn nhiều nữa. Hai câu thơ cuối gợi cho ta nhiều suy nghĩ, liên tưởng thú vị.

“Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là gượng gạo kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm. Cụm từ “hàng cây trung niên” gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Đời người như một loài cây, cũng non tơ, trưởng thành rồi già cỗi. Phải chăng, cái trung niên của cây chính là cái trung niên của đời người. Hình ảnh vừa có ý nghĩa tả thực, vừa có ý nghĩa biểu tượng. Vẻ chín chắn, trầm tĩnh của hàng cây trước sấm sét, bão giông vào lúc sang thu cũng chính là sự từng trải, chín chắn của con người khi đã trung niên. Phải chăng mùa thu của đời người là sự khép lại những tháng ngày sôi nổi xốc nổi của tuổi xanh, để mở ra một mùa mới, một không gian mới trầm lặng, điềm đạm, vững vàng hơn. Ở tuổi “sang thu”, con người không còn bất thần trước những tác động thất thường của ngoại cảnh, của cuộc thế.

Xưa nay, mùa thu thường gắn liền với hình ảnh lá vàng rơi ngoài ngõ, lá khô kêu xào xạc… Và ta ngỡ như chỉ những sự vật ấy mới chính là đặc điểm của mùa thu. Nhưng tới với “Sang thu” của Hữu Thỉnh, người đọc chợt trông thấy một làn hương ổi, một màn sương, một dòng sông, một đám mây, một tia nắng. Những sự vật sắp gũi thế cũng làm nên những đường nét riêng của mùa thu Việt Nam và chính điều này đã làm nên sức hút của “Sang thu”.

Bài thơ kết câu theo một trình tự tự nhiên. Đó cũng là diễn biến mạch xúc cảm của tác giả vào lúc sang thu. Bài thơ gợi cho ta hình dung một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp vào thời khắc giao mùa hạ – thu ở vùng nông thôn Bắc Bộ. Những câu thơ của Hữu Thỉnh như có một tí gì đó trầm lặng, kín đáo, rất hợp với cách nghĩ, cách nói của người thôn quê. Bài thơ giúp ta cảm nhận được tình cảm thiết tha, tâm hồn tinh tế của thi sĩ giàu lòng yêu thiên nhiên của thi sĩ.

Bài thơ ngắn với thể thơ năm chữ mộc mạc, tiếng nói giản dị mà ý nghĩa sâu sắc, hình ảnh đơn sơ mà gợi cảm. Hữu Thỉnh đã phác họa một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp bằng nhiều xúc cảm tinh nhạy. Đọc thơ Hữu Thỉnh ta càng cảm thấy yêu quê hương quốc gia hơn, càng cảm thấy mình cần phải ra sức góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 6

Mùa thu luôn là đề tài khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhõm và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, sắp gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ quốc gia nghìn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của thi sĩ cũng thật duyên. Bài thơ đã phác họa thành công sự chuyển mùa kỳ diệu của đất trời và của lòng người.

“Sang thu” là một bài thơ tái tạo lại một cách nhẹ nhõm sự chuyển mùa tinh tế, trời đất lúc sang thu có chút gì đó bối rối, có chút gì đó ngập ngừng và hơn hết là sự ngỡ ngàng, bổi hổi của thi sĩ khi trông thấy sự thay đổi của trời đất. Mùa thu về, mùa thu mang lại cho con người ta những nhạc điệu dịu êm nhất.

tín hiệu của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh thực sự rất bình dị và sắp gũi, không phải là hương cốm mùa thu, không phải mặt hồ tĩnh lặng, cũng không phải những mùa lá rụng. Mùa thu trong thơ ông chính là “hương ổi”, là thứ hương đặc trưng của vùng quê Việt Nam mỗi khi thu về.

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se

Phải thật tinh tế, thật khéo léo tác giả mới có thể trông thấy được thứ hương rất đỗi nhẹ nhõm và có thể bị gió cuốn đi lúc nào. Cụm từ “bỗng trông thấy” giống như một phát hiện mới, một sự ngạc nhiên rất thú vị như khi khám phá ra điều gì đó đẹp đẽ. Đây là cụm từ diễn ra trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi trông thấy mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen khiến những người con xa quê khó quên được. Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã làm toát lên thần thái của mùa thu, của hương ổi. Nó diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang lại cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về những điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Hai câu thơ rất duyên, rất tinh tế nhưng rất sâu sắc, gợi lên sự mơ hồ của giây phút chuyển mùa. Hình ảnh “sương sử dụng dắng qua ngõ” khiến người đọc tưởng tượng ra quang cảnh sương đang ngập ngừng giăng mắc ở đầu ngõ. Từ láy “sử dụng dắng” sử dụng rất đắt, đã làm toát lên thần thái của mùa thu, không vội vàng, hồ hởi mà luôn tạo nên sự mơ hồ và mung lung nhất. Tác giả phải thốt lên “hình như”, là chưa chắc chắn, không chắc chắn nhưng thực ra là tác giả tự khẳng định rằng mùa thu về thật rồi.

có nhẽ mùa thu đã sang, là mùa thu của đất trời và mùa thu của lòng người mênh mang, nhiều tâm trạng. tới khổ thơ thứ hai thì nhịn nhường như mùa thu đã hiện rõ ra từng đường nét hình khối trong cảm nhận của tác giả:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Nước mùa thu dâng lên theo mùa “dềnh dàng”, những cánh chim trời khởi đầu “vội vã” bay. Thiên nhiên khi mùa thu về có chút gì đó vội vàng, gấp gáp hơn và trĩu nặng hơn nhưng vẫn giữ được thần thái đặc trưng nhất. Đường nét của mùa thu hiện lên rất rõ nét, không còn mơ hồ như ở khổ thơ thứ nhất nữa. Đây cũng là quá trình và là sự chuyển biến trong thiên nhiên và trong nhận thức của tác giả. Sự quan sát tinh tế, tỉ mỉ của tác giả còn thể hiện ở cách nhìn “đám mây mùa hạ” như “vắt” sang thu. Thật tài hoa, thật khéo léo và nhịn nhường như ông động lòng với mùa thu, khí thu, vị thu rất nhiều nên mới tưởng tượng ra viễn cảnh đám mây cao trên trời như đang chuyển mình cùng nhịp đập của mùa thu.

Từ “vắt” sử dụng rất hay, rất độc đáo đã diễn tả được quá trình chuyển mình của mùa thu rất uyển chuyển, nhịp nhàng. Mùa thu có chút gì đó độc đáo, tinh nghịch và cũng không kém phần duyên dáng qua cảm nhận của Hữu Thỉnh. Mùa thu đã tới thật rồi, mùa thu mang theo những gì tinh khôi, nhẹ nhõm và dịu êm nhất.

Bức tranh chuyển mùa qua lời thơ Hữu Thỉnh thực sự mềm mại, nhẹ nhõm và uyển chuyển biết bao. Đó chính là cái Tài của tác giả, tài sử dụng chữ vẽ tranh.

Điều bất thần nằm ở khổ thơ cuối, mùa thu đã thực sự tới rồi và đất trời đã có những chuyển biến khiến con người có thể trông thấy, nhưng tác giả đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cách nhìn nhận của một đời người:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên

Mùa thu có nắng, là thứ nắng dịu nhẹ và tinh khôi, thứ nắng có chút se se lạnh của gió đầu mùa. Thiên nhiên mùa thu cũng trở nên tĩnh lặng và trầm ngâm hơn. Tiếng sấm không còn khiến con người giật thột nữa mà nó trở nên lặng lẽ hơn trên hàng cây trung niên. Tác giả đã đúc kết chiêm nghiệm và sự từng trải của một đời người qua sự liên tưởng tới “hàng cây trung niên”. Tiếng sấm và hàng cây ở hai câu thơ cuối nhịn nhường như là hiện thân của những con người từng trải, đã qua giai đoạn tuổi xanh xốc nổi, nhiều tong tả. Ở giai đoạn con người ta “trung niên” mọi thứ cần chắc chắn và đứng đắn, tĩnh lặng hơn. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây trung niên” để nói lên đời người ở tuổi xế chiều, cũng như mùa thu vậy; có chăng mùa thu là mùa của tuổi con người ta không còn trẻ trung nữa. Nhịp đập của mùa thu, sự đi lại của mùa thu rất nhẹ nhõm và êm đềm. có nhẽ khi con người ta trải qua tuổi xốc nổi, tới một lúc nào đó cần thản nhiên nhìn lại và nhẹ nhõm cảm nhận chúng. Khổ thơ cuối với giọng điệu trầm lắng khiến người đọc trông thấy rất nhiều điều trong cuộc sống này đáng suy ngẫm.

Hữu Thỉnh với bài thơ “Sang thu” độc đáo và thú vị, cách cảm nhận tinh tế nhẹ nhõm cùng những chiêm nghiệm đáng suy ngẫm đã khiến cho người đọc có cái nhìn khái quát và mới mẻ hơn về mùa thu. Gấp trang sách lại, mùa thu của Hữu Thỉnh vẫn còn quẩn quanh đâu đây trong trí óc của mỗi chúng ta.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 7

thi sĩ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942, quê ở huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, Hữu Thỉnh tòng ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và khởi đầu sáng tác thơ. Ông là ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam những khóa III, IV, V. Từ năm 2000, Hữu Thỉnh giữ chức vụ Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam.

Hữu Thỉnh là thi sĩ đi nhiều, viết nhiều và có một số bài thơ đặc sắc về con người cùng cuộc sống ở nông thôn. Bài thơ Sang thu được sáng tác vào cuối năm 1977, in lần trước hết trên báo Văn nghệ. Nội dung thể hiện tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ trước những chuyển biến tinh tế của trời đất và là bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp của nông thôn đồng bằng Bắc bộ lúc giao mùa từ hạ sang thu.

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên.

Từ cuối mùa hạ sang đầu mùa thu, đất trời có những biến chuyển nhẹ nhõm mà rõ rệt. Những biến chuyển này đã được Hữu Thỉnh cảm nhận bằng sự rung động của trái tim thi sĩ và thể hiện qua những hình ảnh thơ mộng, giàu sức biểu cảm.

Ở khổ thơ đầu, tín hiệu của mùa thu không phải là Ngô đồng nhất diệp lạc, Thiên hạ cộng tri thu như trong thơ cổ; cũng không phải là Rặng liễu quạnh vắng đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống; lệ nghìn hàng như trong thơ Xuân Diệu cách đây hai phần ba thế kỉ. Vốn hiểu biết nhiều về nông thôn nên Hữu Thỉnh đã đưa vào bài thơ những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc mà vô cùng thân thuộc của quê hương

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Đây là quang cảnh một sáng chớm thu ở làng quê Bắc Bộ. Trước hết thi sĩ bỗng dưng trông thấy tín hiệu của sự chuyển mùa từ ngọn gió mang hương ổi chín. Gió se là làn gió nhẹ, thoáng chút tương đối lạnh, còn gọi là gió heo may. Hương ổi gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng thi sĩ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ.

Tiếp theo là hình ảnh màn sương giăng trước ngõ. Lập thu, tiết trời mát mẻ. Sáng sớm và chiều tối thường có sương. Sương cũng là một trong những tín hiệu của mùa thu. Sương sử dụng dắng qua ngõ như để nhắc nhở lòng người đang mong đợi rằng mùa thu đã tới. thi sĩ ngỡ ngàng và sung sướng thầm thốt lên: Hình như thu đã về.

Hai từ bỗng và hình như làm tăng thêm cảm giác bâng khuâng, xao xuyến, rất đúng với tâm trạng của thi sĩ trước quang cảnh mùa thu – nguồn cảm hứng vô tận của thơ, ca, nhạc, họa.

thi sĩ cảm nhận mùa thu bằng tất cả con người mình, tâm hồn mình. khởi đầu là khứu giác: Bỗng trông thấy hương ổi, Phả vào trong gió se. Tiếp theo là thị giác mở rộng để tiếp nhận những tín hiệu báo thu sang. Từ làn sương vấn vít trong những rặng cây, lũy tre dọc theo lối ngõ cho tới dòng sông đã qua mùa lũ, giờ đây nhẹ nhõm, thảnh thơi trôi xuôi. Trên nền trời mùa thu trong xanh, những cánh chim nhịn nhường như cũng vội vã hơn.

Cảm giác giao mùa được thi sĩ diễn tả bằng một hình ảnh bất thần đầy thi vị: Có đám mây mùa hạ, Vắt nửa mình sang thu. Đây là hình ảnh đặc sắc mô tả cảnh mùa hạ chưa qua hẳn nhưng mùa thu đã tới. Ấn tượng về cái ồ ạt, mạnh mẽ của những cơn mưa mùa hạ vẫn còn nguyên những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu đã len nhẹ vào hồn từ lúc nào chẳng rõ.

Nắng cuối hạ vẫn còn nhưng đã bớt nồng nàn, rực rỡ và những cơn mưa rào ồ ạt cũng đã thưa dần:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa

thi sĩ thể hiện xúc cảm của mình rất thành công bằng những từ ngữ diễn tả cảm giác, trạng thái: bỗng, phả vào, sử dụng dắng, hình như; dềnh dàng, vắt nửa mình… Cả bài thơ là bức tranh thiên nhiên tuyệt mĩ của trời đất lúc vào thu được tác giả vẽ nên bằng sự rung động tinh vi của trái tim nghệ sĩ. Chính điều đó khiến cho mỗi từ ngữ, hình ảnh đều phập phồng sự sống.

Ba khổ thơ, mười hai câu thơ, câu nào cũng đẹp, cũng hay nhưng nét riêng của thời khắc giao mùa hạ – thu được Hữu Thỉnh thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối bài:

Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên.

Hai câu thơ này có hai tầng nghĩa. Tầng nghĩa thứ nhất tả thực hiện tượng sấm chớp và hình ảnh hàng cây trong cơn mưa cuối hạ. Tầng nghĩa thứ hai là nghĩa hàm ngôn thông qua hình ảnh có tính chất ẩn dụ nghệ thuật. Sấm là những vang động thất thường của ngoại cảnh, của cuộc thế; hàng cây trung niên ngụ ý chỉ con người đã từng trải.

Lúc sang thu, tiếng sấm dữ dội và bất thần của những cơn mưa giông mùa hạ đã bớt đi. Hàng cây không còn bị giật thột, run rẩy vì tiếng sấm. thi sĩ Hữu Thỉnh tâm sự rằng với hình ảnh có trị giá tả thực về hiện tượng thiên nhiên này, ông muốn gửi gắm suy ngẫm của mình: Khi con người đã từng trải thì bản lĩnh cũng vững vàng hơn trước những thử thách của cuộc thế.

Bằng cảm nhận tinh tế và cách sử dụng từ tự nhiên, chân thật, cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa tài tình, Hữu Thỉnh đã vẽ nên bức tranh đặc sắc về thời khắc giao mùa hạ – thu ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ. Với bài Sang thu, Hữu Thỉnh đã góp thêm một nét thu mang dấu ấn riêng của mình vào những chùm thơ thu hay và đẹp của thơ ca Việt Nam.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 8

có nhẽ, trong bốn mùa xuân, hạ, thu, đông thì mùa thu thường gợi cảm hứng cho thi ca, nhạc họa nhiều nhất. Ta có thể bắt gặp chùm thơ Thu của Nguyễn Khuyến, “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư hay “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu… và cũng viết về đề tài mùa thu, thi sĩ Hữu Thỉnh với thi phẩm “Sang thu” đã có những cảm nhận về phút giây giao mùa chuyển từ cuối hạ sang đầu thu thật mới mẻ, tinh tế, nhẹ nhõm. Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ hào chiến đấu tới thành phố”, rất tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ nhỏ nhẹ, thiết tha, sâu lắng của Hữu Thỉnh.

Mở đầu bài thơ là những cảm nhận ban đầu trước những tín hiệu dịu nhẹ lúc sang thu trong một không gian thu rất sắp và hẹp:

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về”

Tín hiệu trước hết báo hiệu thời khắc của sự giao mùa từ cuối hạ sang thu là hình ảnh “hương ổi” bay phảng phất trong gió se. Hương ổi chín thơm ấy, vừa thân thuộc lại vừa mới mẻ. thân thuộc vì nó là hương thơm thường gắn liền với đồng quê, thôn xóm của người Việt, rất dân dã, mộc mạc. Nhưng nếu như trong thơ xưa, những thi sĩ khi mô tả cảnh thu thường gắn liền với ao thu, bầu trời thu hay bông hoa cúc vàng rực rỡ, một chiếc lá vàng khô… thì ở đây, Hữu Thỉnh lại cảm nhận tín hiệu ban đầu báo hiệu thời khắc của sự chuyển giao mùa hạ sang thu là hương ổi. Điều đó đã tạo nên sự mới mẻ trong cách cảm nhận và mô tả cảnh thu của thi sĩ. Hương thơm ngát của ổi chín đã được tác giả mô tả qua động từ “phả”. Từ “phả” diễn tả một mùi hương nồng nàn, mặn mà, lan tỏa trong gió se. “Gió se” là một loại gió chỉ có trong mùa thu, tương đối khổ, se se lạnh. Và chính ngọn gió đầu mùa ấy đã đưa mùi hương bay tỏa ra khắp không gian làm nên vẻ đẹp của mùa thu.

Mùa thu tới không chỉ có gió, có hương ổi mà còn có cả làn sương. Không gian thu lãng đãng tương đối sương, tạo cho quang cảnh thu thêm lãng mạn. Làn sương được nhân hóa qua động từ “sử dụng dắng”, có tác dụng gợi tả những làn sương mỏng manh, nhẹ nhõm như cố ý chậm lại, như lưu luyến chưa muốn bước hẳn vào thu. Ngõ ở đây vừa là ngõ thực của thôn làng, ngõ xóm; lại vừa là ngõ cửa của thời gian như chao nghiêng ranh giới giữa hai mùa, mùa hạ thì chưa muốn qua mà mùa thu thì chưa muốn tới.

xúc cảm trước của thi sĩ trước những tín hiệu mùa thu đã được tác giả diễn tả qua từ “bỗng”, thể hiện sự ngỡ ngàng, ngạc nhiên, bất thần khi phát hiện ra những tín hiệu đó. Và thiên nhiên, trời đất đã được tác giả mở lòng ra mà đón nhận bằng tất cả những giác quan với những rung động thật tinh tế, nhẹ nhõm: khứu giác (mùi hương ổi), xúc giác (gió se), thị giác (sương sử dụng dắng). Từ tất cả những tín hiệu trên (gió, hương, sương) tác giả đi tới kết luận: “Hình như thu đã về”. Đây là một sự phỏng đoán bằng cảm giác, bằng tâm linh của tâm hồn. “Hình như” là từ tình thái thể hiện sự tin tưởng thấp, chưa chắc chắn, vẫn còn mơ hồ. Trạng thái xúc cảm này không chỉ thích hợp với cảnh thu mà cũng rất thích hợp với logic tâm trạng. Bởi những tín hiệu của mùa thu đều là những tín hiệu vô hình, không có hình khối, màu sắc rõ ràng, cụ thể nên thi sĩ mới có xúc cảm ngỡ ngàng, bâng khuâng, có phần tương đối bối rối trước tín hiệu mùa thu.

nếu như như khổ thơ đầu, không gian thu được co hẹp trong một không gian rất sắp và hẹp thì tới khổ hai, không gian thu đã được mở rộng về biên độ với tầm nhìn cao và xa hơn, từ mặt đất lên bầu trời:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Hình ảnh dòng sông được nhân hóa qua từ láy “dềnh dàng”, tức là chậm chạp, thong thả. Dòng sông không còn cuồn cuộn, gấp gáp chảy trước những cơn mưa lũ của mùa hạ nữa mà thay vào đó, nó trở nên lắng lại, từ từ, nhẹ nhõm, lững lờ trôi. nhịn nhường như, dòng sông cũng ngập ngừng như muốn níu kéo mùa hạ, chưa muốn sang mùa thu. trái lại với sự “dềnh dàng” của dòng sông là trạng thái “vội vã” của cánh chim đang mải miết bay đi tránh rét khi chúng khởi đầu cảm nhận được cái se se lạnh của tiết trời đầu thu. Nghệ thuật đăng đối ở hai câu thơ đầu tạo nên hình ảnh thơ thật đẹp, rất chỉnh, giàu tính chất tạo hình, đồng thời làm cho không gian thu trở nên rộng mở hơn, rất khoáng đạt.

Khép lại khổ thơ là hình ảnh đám mây được nhân hóa với hành động “vắt nửa mình”. Hình ảnh thơ rất giàu tính chất tạo hình trong không gian và có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian. Đám mây trắng buốt mềm mại trải dài như một tấm lụa treo ngang trên bầu trời, rất nhẹ nhõm, duyên dáng. Và mây cũng chính là ranh giới chao nghiêng giữa hai mùa hạ – thu. Cảnh vật trở nên vừa hư lại vừa thực, đó là sản phẩm của trí tưởng tượng rất nên thơ và hết sức độc đáo, mới mẻ của tác giả. Tóm lại, với một hệ thống những hình ảnh đẹp, giàu tính chất tạo hình trong không gian, phối hợp với nghệ thuật nhân hóa, tương phản, thi sĩ đã khắc họa thành công quang cảnh trời đất khi khởi đầu vào thu thật sống động, tinh tế, nhẹ nhõm. Chắc chắn Hữu Thirnh phải là một ngòi bút tài năng, một tâm hồn nghệ sĩ và tình yêu thiết tha với thiên nhiên tạo vật thì mới tạo nên câu thơ viết về mùa thu đẹp, lãng mạn tới tương tự.

Từ những xúc cảm bâng khuâng, xao xuyến và những rung động mãnh liệt trước những phút giây giao mùa vào thu ở khổ một, hai, thi sĩ chuyển sang giọng điệu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc thế:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên.”

thi sĩ thật tinh tế và nhạy cảm khi phát hiện ra những thay đổi về mặt thời tiết. Vẫn là sấm, mưa, nắng, những hiện tượng thời tiết của mùa hè nhưng trong khoảnh khắc giao mùa này đã có sự thay đổi về mức độ. Cái nắng nóng chói chang của mùa hạ đã dần nhạt màu, không còn gay gắt như còn ở giữa mùa hạ; những cơn mưa rào bỗng dưng ào ào kéo tới cũng đã vơi dần đi. Sấm chớp kéo theo những cơn dông lốc dữ dội cũng bớt đi, cũng trở nên thưa thớt hơn rất nhiều. Những từ như “vẫn còn”, “vơi dần”, “cũng bớt” đã có tác dụng diễn tả những hiện tượng của tự nhiên đó (sấm, mưa, nắng) đã giảm đi về mức độ và cường độ khi trời đất đang giao mùa cuối hạ, đầu thu rất nhẹ nhõm, khó nhận diện. Thế nhưng, với một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, thi sĩ đã phát hiện ra sự chuyển biến đó của thiên nhiên, vũ trụ.

Từ hiện tượng của tự nhiên, thi sĩ suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc thế:

“Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

“Sấm” là hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng cho những tác động của ngoại cảnh với những biến động của cuộc thế. “Hàng cây trung niên” là những cành cây lâu năm, cành lá sum suê, rễ cắm sâu xuống lòng đất vô cùng chắc chắn. Những hàng cây này đã trải qua biết bao nhiêu mùa bão giông với những biến thiên của trời đất. Và nó tượng trưng cho những con người từng trải đã đi qua biết bao nhiêu những trắc trở, vất vả, nguy hiểm trên phố đời. tương tự, bằng nghệ thuật ẩn dụ, thi sĩ thể hiện sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc thế con người: con người từng trải sẽ trở nên vững vàng hơn trước những thử thách trong cuộc thế. Lúc viết bài thơ này, Hữu Thỉnh mới chỉ hơn ba mươi tuổi, ấy vậy nhưng Hữu Thỉnh đã tự nghĩ rằng mình là người từng trải. có nhẽ điều này xuất phát từ hoàn cảnh của ông xuất thân từ một người lính, đã trải qua biết bao nhiêu là khó khăn, gian truân, vất vả; với biết bao nhiêu tóc tang, hi sinh, mất mát nơi chiến trường khốc liệt… nên đã rèn luyện cho thi sĩ một bản lĩnh cứng cỏi và nghị lực vươn lên, dám đương đầu với mọi biến động thất thường mà cuộc sống sẽ xảy ra. Đặt câu thơ “sấm cũng bớt bất thần” vào trong một hệ thống những câu thơ ở khổ một, hai như làn “sương sử dụng dắng qua ngõ” và “vắt nửa mình sang thu”, người đọc chợt trông thấy sự lưu luyến muốn níu kéo thời gian của thi sĩ khi trông thấy sự sang thu của tạo vật cũng chính là sự “sang thu” của đời người…

Bài thơ được viết theo thể năm chữ, hình ảnh thơ đẹp, giàu sức gợi , tiếng nói trong sáng, giàu sức biểu cảm đã có tác dụng diễn tả những trạng thái của cảnh vật và sự cảm nhận tinh tế, nhạy cảm của thi nhân trước thiên nhiên, vũ trụ đất trời khi khởi đầu sang thu. Đọc xong bài thơ, chúng ta thấy được sự mới mẻ trong cách cảm nhận mùa thu của Hữu Thỉnh, đồng thời thấy được tình yêu đời, yêu thiên nhiên quốc gia sâu sắc của thi sĩ.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 9

Hữu Thỉnh là thế hệ thi sĩ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, thơ ông thường chứa đựng xúc cảm tha thiết, thực tình và rất giàu chất suy tư, triết lý. Sang thu cũng là một tác phẩm tương tự. Bài thơ được khơi nguồn xúc cảm từ khoảnh khắc giao mùa nhưng đằng sau đó còn là xúc cảm của tác giả về đời người lúc sang thu.

Tính chất suy tư, triết lí trong thơ Hữu Thỉnh được thể hiện ngay từ nhan đề bài thơ. Sang thu không chỉ là khoảnh khắc giao mùa của đất trời khi hè đã qua và mùa thu đang cựa mình đi tới. Mà sang thu còn ẩn dụ về cuộc thế con người. Đây là thời khắc con người đã sang thu, đã trải qua biết bao sóng gió, bởi vậy cũng trở nên vững vàng hơn trước mọi cơn giông bão của cuộc thế.

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Tín hiệu trước hết mà tác giả cảm nhận được chính là hương ổi, một mùi hương thật dung dị, đậm chất thôn quê. Hương ổi thật chủ động, tự nhiên “phả vào trong gió se”. Với động từ “phả” tác giả đã mô tả được hương thơm mặn mà như sánh lại, quyện lại và ùa vào gió se đầu thu. Sau sự cảm nhận về thính giác, tác giả tiếp tục cảm nhận mùa thu bằng thị giác với những đám sương sử dụng dắng đi qua ngõ. Nghệ thuật nhân hóa cùng từ láy “sử dụng dắng” đã làm cho làn sương trở nên sinh động, có hồn. Câu thơ như gợi ra trước mắt người đọc hình ảnh những hạt sương lí tí, bé nhỏ, giăng mắc với nhau tạo thành màn sương mỏng nhẹ. Dáng đi của nó cũng thật chậm rãi, thong thả trước cửa ngưỡng mùa thu, như còn đang lưu luyến, quyến luyến với mùa hè.

Trong giờ phút giao mùa ấy, lòng thi sĩ như đắm chìm vào không gian bàng bạc chất thu. Đó là cảm giác bất thần khi gặp tín hiệu thu về “bỗng” – là sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, một niềm vui, một thoáng xúc động trước những khoảnh khắc thu thật thu, con người thoát khỏi bộn bề cuộc sống để hòa mình vào thiên nhiên. Và tiếp tới là những mỏng manh xúc cảm, một tí bối rối tự hỏi mình “hình như”. Tình thái từ thể hiện rõ sự bâng khuâng, xao xuyến trong lòng thi nhân khi trông thấy những tín hiệu mùa thu. Hữu Thỉnh quả là người có giác quan vô cùng nhạy cảm thì ông mới có những cảm nhận tinh tế tới vậy về phút giao mùa.

Sang tới khổ thơ thứ hai, bức tranh mùa thu đã có những chuyển biến rõ ràng, đậm nét hơn. Từ không gian ngõ vườn nhỏ bé, Hữu Thỉnh vươn ngòi bút của mình tới không gian rộng lớn hơn, không gian bầu trời, sông nước. Dòng sông hiền hòa, thong thả chảy không còn cuồn cuộn, đỏ ngầu như những ngày nước lũ mùa hè. Đối lập với hình ảnh dòng sông là hình ảnh những cánh chim vội vã. nhịn nhường như những cơn gió se lạnh đã đâu đó len lỏi trong không gian bởi vậy những loài chim phải vội vã bay về phương nam tránh rét. Cách ông sử dụng từ cũng hết sức tinh tế: “khởi đầu”, chỉ mới là khởi đầu chứ chưa hẳn là vội vã bởi thu cũng chỉ mới chớm sang thôi. Mọi sự vật hiện tượng đi lại thật thong thả, khẽ khàng bởi vậy chỉ có những tâm hồn tinh tế mới nhận thấy được.

Hai câu thơ sau là một điểm nhấn, tạo nên sự độc đáo cho bức tranh mùa thu: “Có đám mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Đây là trường liên tưởng hết sức mới mẻ, độc đáo, gợi ra quang cảnh một làn mây mỏng nhẹ, đang uyển chuyển cựa mình chuyển bước sang thu. Đồng thời cũng có thấy tâm trạng lưu luyến, quyến luyến của đám mây: nửa lưu luyến mùa hạ, nửa phấn chấn nghiêng mình hẳn sang thu. Ở đoạn này tác giả tỏ ra hết sức tài tình khi mượn cái hữu hình của đám mây để gợi ra cái vô hình của không gian, ranh giới giao mùa. Thể hiện trường liên tưởng thú vị này không chỉ là cảm nhận bằng thị giác mà còn được cảm nhận chính bằng tâm hồn tinh tế nhạy cảm và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của thi sĩ.

Bức tranh mùa thu nhịn nhường như được hoàn chỉnh, rõ nét hơn qua hai câu thơ tiếp theo: “Vẫn còn bao nhiêu nắng/ Đã vơi dần cơn mưa”. Mùa thu hiện ra rõ nét hơn qua sự thay đổi của những hiện tượng thiên nhiên: mưa, sấm – vốn là những tín hiệu đặc trưng của mùa hạ, nay cũng “vơi dần”, “bớt bất thần”, mùa thu ngày một đậm nét hơn. Sau những cảm nhận ấy, lắng lại là những suy tư chiêm nghiệm của tác giả về con người về cuộc thế:

Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên

Xem Thêm : Nghị luận Học học nữa học mãi (5 mẫu)

Câu thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực: sang thu những cơn mưa lớn kèm sấm đã vơi dần, bớt dần, đồng thời trải qua một mùa hè đầy giông bão những hàng cây đã không còn giật thột bởi những tiếng sấm mùa hạ nữa. Nhưng không những thế, câu thơ còn mang ý nghĩa biểu tượng: “sấm” là những vang động, những biến cố mà con người đã trải qua trong cuộc thế; “hàng cây trung niên” là những con người trưởng thành đã từng trải qua bao thăng trầm, biến cố. Từ ý nghĩa đó thi sĩ gửi gắm suy tư, chiêm nghiệm của mình: khi con người đã trải qua những giông bão của cuộc thế sẽ tĩnh tâm hơn trước những thất thường, những tác động của ngoại cảnh. Câu thơ chất chứa biết bao suy tư, chiêm nghiệm của tác giả về cuộc thế, về con người.

Hữu Thỉnh sử dụng thể thơ năm chữ tài hoa, giàu tiết điệu. Bài thơ có tiết điệu chậm, nhẹ nhõm, sâu lắng như chính bước đi chậm rãi của thời gian trong khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Lớp ngôn từ giản dị, giàu trị giá tạo hình: phả, vắt, sử dụng dắng, dềnh dàng, vội vã, … diễn tả tinh tế những tín hiệu mùa thu. Ngoài ra ông còn có những trường liên tưởng bất thần, độc đáo làm tứ thơ sinh động, hấp dẫn hơn. Hình ảnh thơ có lựa chọn lọc, đặc sắc mang nét đặc trưng của thời tiết lúc giao mùa: hạ – thu.

Tác phẩm đã đem tới cho thi ca Việt Nam một bức tranh phong cảnh sang thu thật đặc biệt, ý nghĩa. Đồng thời qua bài thơ ta còn thấy được những cảm nhận tinh tế của tác giả trong việc tái tạo khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu với sự giao trâm của nhiều lớp nghĩa: đất trời khi sang thu, đời sống sang thu và đời người sang thu.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 10

Mùa thu là nguồn cảm hứng vô tận trong thơ ca, chỉ một cái mùa thu ấy thôi nhưng giới văn nhân nghệ sĩ đã biết bao lần cảm thán, rồi tự sáng tác riêng cho mình những vần thơ, những câu hát rất riêng, rất đặc sắc. Ví như Xuân Diệu viết trong Đây mùa thu tới bằng một xúc cảm sầu não, ủ rũ khi “Rặng liễu quạnh vắng đứng chịu tang” với “Hơn một loài hoa đã rụng cành” và “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”. Có thể thấy rằng đề tài mùa thu trong thi ca Việt Nam và cả thi ca phương Đông là không mới, nét đặc sắc, riêng biệt của mỗi thi phẩm về mùa thu tới từ xúc cảm tư nhân, cách sử dụng từ, nghệ thuật và tài năng của từng tác giả,… Hữu Thỉnh chính là một trong những thi sĩ tiêu biểu khi viết về thu với một nét rất riêng, ông không viết về cuối thu, giữa thu mà ông lựa chọn một khoảnh khắc tương đối nhạy cảm là thời khắc giao mùa, sang thu. Thế nhưng khoảnh khắc ấy khi vào thơ, đã được tác giả diễn tả một cách vô cùng mượt mà và tinh tế trong bài thơ Sang thu.

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về”

Khoảnh khắc thi sĩ trông thấy mùa thu đã về cũng thật đặc biệt, khác hẳn với những tác giả từ xưa tới nay thường nhận định mùa thu qua những thứ rất đặc trưng như tiếng lá xào xạc rơi, sắc vàng của khi vào thu như Lưu Trọng Lư từng viết trong Tiếng thu những vần thơ rất ngộ “Con nai vàng ngờ ngạc/Đạp lên lá vàng khô”. Cũng không phải là cái cảnh trời xanh cao vời vợi như trong Thu điếu của Nguyễn Khuyến, lại càng không phải hương cốm mới, cúc họa mi, hay cơn gió heo may lạnh mà người ta vẫn nhắc khi nghĩ về mùa thu ở Hà Nội. Cái khoảnh khắc chớm thu của Hữu Thỉnh nói dân dã, giản dị lắm, nó tới từ “hương ổi” thơm ngạt ngào, ngọt ngào, một thức quà quê quá đỗi thân thuộc với mỗi người dân Việt Nam. Cái hương ổi ấy, nó không phải chỉ thoang thoảng mà “Phả vào trong gió se” hòa quyện, đặc quánh, khiến thi nhân cảm nhận được một cách rõ nét và ý thức được sự chuyển giao giữa mùa hạ và mùa thu. Đồng thời “cơn gió se” mang hương ổi ấy, cũng phần nào gợi cho người ta cảm giác khô ráo, se se lạnh của mùa thu. kế bên hương ổi chín trong làn gió se lạnh, khoảnh khắc giao mùa còn được thể hiện thông qua một hình ảnh rất độc đáo và đặc biệt mà có nhẽ cũng như hương ổi, từ trước tới nay chưa từng thấy thi nhân nào lại hình dung về mùa thu độc lạ thế. “Sương sử dụng dắng qua ngõ”, từ láy “sử dụng dắng” ấy gợi cho độc giả cảm giác chậm rãi, giăng mắc của làn sương sớm, nhịn nhường như màn sương ấy đang cố nán lại quanh ngõ nhỏ cùng với hương ổi chín để báo hiệu với thi sĩ rằng “Hình như thu đã về”. Hoặc trong một cảm nhận khác, thỉnh thoảng người ta nghĩ rằng cái màn sương sử dụng dắng ấy tựa như một dải khăn lụa trắng đang vắt ngang giữa cái ranh giới của mùa hạ và mùa thu, có nhẽ còn chút gì đó vương vấn cái rét mướt của mùa hạ chưa muốn chuyển hẳn sang mùa thu hiu lạnh chăng. tới câu thơ cuối đoạn “Hình như thu đã về” vừa là lời khẳng định mùa thu đã chính thức khởi đầu với những tín hiệu rõ nét bao gồm hương ổi ngọt ngào, gió se se lạnh và màn sương chậm rãi sử dụng dắng. Nhưng đồng thời câu thơ cũng thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của thi nhân trước khoảnh khắc mùa thu tới.

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”

Ở khổ thơ tiếp theo, sự chuyển giao mùa đã không còn nằm trong hương ổi hay làn sương sớm mà nó thể hiện một cách rõ rệt thông qua sự chuyển biến của thiên nhiên đất trời, mở ra một không gian cao rộng và khoáng đạt của đất trời mùa thu. Đó là hình ảnh dòng sông “dềnh dàng” đại diện cho mặt đất, đang chậm rãi chảy, khác hẳn với với một dòng sông của mùa hạ liên tục đón nhận những cơn mưa nặng hạt, những dòng nước cuồn cuộn vội vã. Và có nhẽ người ta cũng phần nào cảm nhận được cái vẻ đẹp hiền hòa của dòng sông thu, giống như cái vẻ đẹp mà Nguyễn Khuyến đã nhắc tới trong Thu điếu “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”, thì nước sông mùa thu có nhẽ cũng mang những vẻ tương tự vậy, trong trẻo, thanh khiết và dịu dàng. Cái vẻ đẹp tuyệt diệu mà Nguyễn Du đã từng sử dụng để mô tả vẻ đẹp của cô Kiều rằng “Làn thu thủy, nét xuân sơn/Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”. Trái ngược với vẻ “dềnh dàng”, thư thả của dòng sông, thì cánh chim mùa thu lại mang một vẻ vội vã, khẩn trương “Chim khởi đầu vội vã”. Cánh chim chính là đại diện cho bầu trời khoáng đạt rộng lớn, mùa thu tới cũng tức là thời tiết khởi đầu chớm lạnh, cánh chim ấy có nhẽ khởi đầu vội vã đi kiếm ăn, xây tổ cho kiên cố để đợi đông về, hoặc cũng có thể loài chim đang vội vã bay về phương Nam tránh rét. Chung quy lại sự đối lập, tương phản giữa dòng sông dềnh dàng và cánh chim vội vã mục đích làm vượt bậc lên cái khoảnh khắc giao mùa vốn dĩ mờ mờ trong không gian, chính điều này đã thể hiện được tâm hồn vô cùng tinh tế, óc quan sát tỉ mỉ của thi sĩ trước thời khắc chuyển mùa. Hai câu thơ “Có đám mây mùa hạ/Vắt nửa mình sang thu” là một đột phá nghệ thuật, là cách liên tưởng rất thú vị của Hữu Thỉnh trong thời khắc chuyển giao giữa hạ và thu. Tác giả sử dụng phép nhân hóa đám mây tạo cho nó một dáng vẻ, một hành động giống như một con người, có chút gì đó lười biếng, có chút gì đó vương vấn lắm cái mùa hạ nên mới chỉ “vắt nửa mình sang thu”. Đồng thời câu thơ còn lần nữa nhấn mạnh vào chủ đề của bài thơ là “Sang thu” tức là chưa bước hẳn vào mùa thu thực thụ.

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”

Đây là khổ thơ đúc kết nhiều triết lý mà tác giả muốn gửi gắm tới độc giả sau khi đã bước qua nhiều những năm tháng của cuộc thế. Bằng sự trải nghiệm và óc quan sát tinh tế tỉ mẩn của mình, Hữu Thỉnh đã đưa ra những nhận định so sánh về hai mùa hạ và thu rồi cho ra một cảm nhận rất sâu sắc về khoảnh khắc giao mùa. Ở thời khắc giao mùa hạ – thu nắng tuy vẫn tồn tại thế nhưng nó đã kém đi cái phần gay gắt, bức bối của mùa hạ mà trở nên dịu dàng, rét mướt xen lẫn chút se lạnh của mùa thu, đem tới cho con người khoảnh khắc dễ chịu và thư thái. Cùng với đó nếu như như mưa của mùa hạ là những cơn mưa dài, nặng hạt thì mưa những lúc đầu thu – cuối hạ đã bớt đi cái tính dồn dập, triền miên, mà chỉ là những cơn mưa phùn nhẹ, thưa thớt. Đi từ xúc cảm của sự trải nghiệm, Hữu Thỉnh đã để lại cho độc giả những triết lý rất hay về cuộc thế trong hai câu thơ cuối bài “Sấm đã bớt bất thần/Trên hàng cây trung niên”. Sấm là một hiện tượng tự nhiên thường đi kèm với những cơn mưa, khi mưa bớt dần thì tiếng sấm cũng thưa đi. Thế nhưng ngoài ra tiếng sấm này còn tượng trưng cho những giông bão của cuộc thế, của những năm tháng tuổi xanh, mà khi con người đã ngả mình sang thu tức là đã bước qua dốc bên kia của cuộc thế, đã là “hàng cây trung niên”, thì bấy nhiêu giông bão ấy, bấy nhiêu tiếng sấm vốn đã từng gây bất thần, dao động nay lại trở nên thông thường. Bởi một lẽ đương nhiên rằng ai cũng phải trải qua những năm tháng non dại xốc nổi, những vấp ngã trong cuộc thế thì mới có thể trưởng thành và con người ta khi có trải nghiệm rồi thì cũng dần trở nên thân thuộc với sự thay đổi của cuộc sống, trở nên vững vàng và nhìn đời bằng đôi mắt thản nhiên và chậm rãi hơn hẳn.

Sang thu được viết khi tác giả đã bước vào ngưỡng tuổi 35, tức là hơn một phần ba chặng đường đời, có nhẽ khi ấy ngay cái lúc mà Hữu Thỉnh nghe thấy hương ổi chín, ông đã ngạc nhiên, giật thột trông thấy thu về, đồng thời cũng chợt nghĩ tới dải đời đang bước sang thu của mình. Để rồi Hữu Thỉnh, cố viết cái khoảnh khắc chuyển giao ấy thật chậm rãi, thế nhưng cũng không ngăn được cái bước đi vội vã của thời gian, thu tới bất thần, thời trẻ trai cũng trôi đi vùn vụt. Bao nhiêu năm tháng rực rỡ huy hoàng như mùa hạ cuối cùng cũng đang lưu luyến rời đi để lại trong lòng tác giả nhiều xúc cảm.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 11

Viết về đề tài mùa thu, nếu như trong thơ ca trung đại có chùm ba bài thơ thu “Thu điếu”, “Thu vịnh”, “Thu ẩm” của Nguyễn Khuyến, thơ Mới có “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư thì thơ ca hiện đại sau năm 1975 vượt bậc với bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Đây là bài thơ đã khắc họa bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa với những biến chuyển nhẹ nhõm của tạo vật. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện sự cảm nhận tinh tế của tác giả.

Hữu Thỉnh là thi sĩ trẻ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc. Bài thơ “Sang thu” được ông sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ hào chiến đấu tới thành phố”. Mở đầu tác phẩm là tâm trạng bất thần, thảng thốt của tác giả khi trông thấy mùa thu đã về với thiên nhiên và con người:

“Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về”

tín hiệu trước hết giúp Hữu Thỉnh trông thấy tiết trời đã sang thu là hương ổi. Đây là một trong những đặc trưng tiêu biểu của mùa thu Bắc Bộ. Những làn gió thu nhè nhẹ lướt qua mang theo hương ổi đang ở độ chín khiến con người cảm thấy dễ chịu vô cùng. Gió thu không quá mạnh như gió mùa Đông Bắc, nó chỉ là những làn gió heo may mang theo cái se lạnh đầu mùa. Không quá nhẹ nhõm cũng không quá ồ ạt nhưng loại gió này đủ sức làm hương ổi ở vùng quê lan rộng ra trong không gian. Theo “tự điển tiếng Việt” của Hoàng Phê, “phả là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng” gợi mùi hương ổi nồng nàn đang phiêu du cùng làn gió. nếu như những thi sĩ khác gắn mùa thu với hương cốm hay những chiếc lá vàng thân thuộc thì Hữu Thỉnh lại gắn mùa thu với hương ổi. Có thể nói đây là nét mới mẻ, sự sáng tạo thu hút độc giả của tác giả.

Không chỉ cảm nhận mùa thu bằng khứu giác, xúc giác, Hữu Thỉnh còn cảm nhận mùa thu bằng thị giác qua hình ảnh sương thu đang “sử dụng dắng”. nhịn nhường như chúng đang nửa muốn đi, nửa muốn ở lại và đang cố ý trôi chầm chậm để giăng mắc vào cảnh vật thiên nhiên, để được con người chiêm ngưỡng vẻ đẹp mỏng manh của mình. Những làn sương trăng trắng đi lại chầm chậm, sử dụng dằng như đang cố tình để khiến con người thụ hưởng ra chúng, trông thấy tín hiệu của mùa thu. Mặc dù được cảm nhận bằng sự tổng hòa của những giác quan nhưng có nhẽ do thu về một bất thần quá nên thi sĩ chưa kịp chuẩn bị ý thức đón nhận. Từ ngữ “hình như”đã thể hiện sự bâng khuâng, mơ hồ tới ngạc nhiên của tác giả.

Hữu Thỉnh đã mở rộng tầm nhìn, quan sát bao quát và tỉ mỉ hơn để có thể chắc chắn với cảm nhận của mình:

“Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”.

Dòng sông mùa thu trở nên hiền hòa hơn bao giờ hết. Nó chảy thong thả gợi sự bình yên, êm dịu. nhịn nhường như dòng sông còn vương vấn mùa hạ chưa muốn dứt nên cố tình chảy chậm lại để lưu giữ những gì còn sót lại của mùa hạ đã qua. Trái ngược với sự chậm rãi của dòng sông là sự gấp gáp, vội vã của cánh chim. Thu sang cũng là lúc những đàn chim chuẩn bị về phương Nam tránh rét để chống chọi với thời tiết khắc nghiệt của mùa đông. giải pháp nhân hóa đã làm bức tranh thiên nhiên khi chớm thu trở nên có hồn, sắp gũi và sinh động. giải pháp này khiến đám mây mang trạng thái nuối tiếc của con người. Vì nuối tiếc mà đám mây chỉ “vắt nửa mình sang thu” còn nửa kia thì đang thương nhớ mùa hạ.

Tác giả đã khép lại bài thơ bằng những lời thơ mang đầy tính chiêm nghiệm sâu sắc:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”.

Nắng, mưa, sấm là những đặc trưng không thể thiếu của mùa hạ. Nắng vẫn còn nồng nàn nhưng cũng không quá gay gắt như những ngày hạ oi bức. Những cơn mưa rào của mùa hạ cũng thưa dần và tiếng sấm cũng nhẹ nhõm hơn. những từ “vơi dần”, “bớt”vừa thể hiện mức độ, vừa thể hiện cường độ của những hiện tượng nắng, mưa, sấm. Tiếng sấm của mùa thu đã thưa đi, ít dữ dội hơn nên cây cối không còn bị giật thột vì sấm sét. Hai câu thơ cuối bài còn mang ý nghĩa hàm ẩn. “Sấm” tượng trưng cho những âm thanh, vang động thất thường xảy tới trong cuộc thế, “hàng cây trung niên” là ẩn dụ cho những con người từng trải qua biết bao khó khăn, vấp ngã. Giống như “hàng cây trung niên”, khi con người đã trải qua những giông tố trong cuộc thế thì sẽ vững vàng hơn, tĩnh tâm và bản lĩnh hơn. Đồng thời cũng có được những chiêm nghiệm hữu ích cho bản thân.

Chúng ta không còn bị bất thần trước những điều xảy ra thất thường của toàn cầu xung quanh nữa. Bởi lẽ giông tố sẽ giúp cây bám rễ sâu hơn vào trong lòng đất, giông tố sẽ giúp mỗi con người trưởng thành hơn. Đó cũng là triết lí mà thi sĩ Hữu Thỉnh muốn gửi gắm tới độc giả. Chúng ta hãy giữ một thái độ tích cực, tâm thế chủ động để có thể đương đầu với những trắc trở, thử thách trong cuộc sống này.

Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn giúp tác giả dễ dàng thể hiện mạch xúc cảm và sự cảm nhận tinh tế về bức tranh thiên nhiên lúc sang thu. tiếng nói thơ giản dị, hình ảnh thơ có tính biểu cảm cao đã tạo nên một bức tranh giao mùa tuyệt đẹp. Đó là bức tranh được thổi hồn từ Hữu Thỉnh – một con người giàu sự trải nghiệm.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 12

Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng

Là tiếng thơ reo vui, hồi hởi của thi sĩ Xuân Diệu trước khoảnh khắc thu sang, câu thơ hiện đại mà vẫn thấm đẫm chất cổ điển. Còn tới với thi sĩ Hữu Thỉnh ta sẽ được cảm biết một mùa thu rất đỗi thân thuộc, rất đỗi Việt Nam qua bài thơ “Sang thu”.

“Sang thu” không sử dụng thứ ngôn từ mĩ lệ, quá cầu kì trau chuốt mà rất đỗi giản dị tự nhiên, phối hợp hài hòa với tình cảm thực tình đã đem tới cho thi ca Việt Nam một bức tranh mùa thu rất khác:

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Bỗng – cảm giác bỗng dưng, tự nhiên ùa về, một mùi hương vừa lạ, vừa quen, mùi hương ấy giản dị biết bao, ấy chính là hương ổi. Hương ổi là mùi hương tiêu biểu của làng quê Việt Nam, mỗi độ thu về, theo cơn gió se lạnh, hương ổi cũng tung mình bay đi xa. Hương thơm ấy không hề nhạt nhòa, mà đậm và sánh lạnh phả vào cơn gió se, khiến cả không gian tràn ngập hương thơm dịu dàng đồng quê ấy.

Câu thơ không chỉ giúp người đọc cảm nhận được mùi hương mà còn hình dung ra sắc màu vàng ươm, chín thơm của những trái ổi đang lúc lỉu trên cành. Không chỉ cảm nhận ở hương ổi, mà Hữu Thỉnh còn lắng lòng mình để thấy bước thu về trên những dòng sương thu thong thả, chậm chạp trên bầu trời. Và để cuối cùng ông chợt giật thột trông thấy: “Hình như thu đã về”. Chữ hình như ấy còn như một tiếng reo vui, sự ngỡ ngàng chào đón thu sang.

nếu như như ở khổ thơ đầu nhưng cảm giác về mùa thu vẫn còn rất đỗi mỏng manh, thì sang tới khổ thơ thứ hai mùa thu đã rõ ràng hơn. Tiếp tục sử dụng ngôn từ giản dị, mộc mạc, Hữu Thỉnh đưa người đọc đi tuần tự bóc tách từng tín hiệu khi thu về:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Ngôn từ quá đỗi dung dị, khiến ta ngỡ như chỉ là những lời nói, lời tâm sự của tác giả với mọi người. Nhưng cái giản dị đó lại được phối hợp hài hòa với những giải pháp nghệ thuật, tạo nên chất thơ cho tác phẩm. Con sông được nhân hóa, cũng dềnh dàng khi thu sang. Nước thôi cuồn cuộn chảy, mà đỏ nặng phù sa, chậm chạp trôi. Trên bầu trời những chú chim cũng chỉ mới “khởi đầu vội vã” tìm về phương Nam tránh rét.

Đặc biệt nhất là hình ảnh đám mây mang trên mình hai mùa: một nửa mùa hạ và một nửa mùa thu. Đám mây không còn là đám mây đơn thuần nữa mà nó tựa như một tấm lụa mỏng, vắt ngang bầu trời, khiến cho khái niệm thời gian vốn vô hình nay cũng trở nên hữu hình. Đám mây nửa lưu luyến, quyến luyến mùa hè sôi động, nửa lại phấn chấn nghiêng hẳn mình sang mùa thu để khám phá.

Không chỉ ngừng lại ở đó những hiện tượng thiên nhiên như sấm, chớp, mưa cũng trở nên thưa dần và ít dần đi. tới đây mùa thu đã thực sự hiện hình một cách rõ nét. Chỉ với những nét phác họa hết sức đơn sơ nhưng cũng đủ để cho ngòi bút tài hoa của Hữu Thỉnh dựng lên bức tranh thu nồng đượm tình người, tình yêu cuộc sống. Hình ảnh thu không u áng, héo úa, mà tươi tỉnh, tràn đầy sự sống và hết sức giản dị.

Tác giả đã sử dụng liên tục những từ láy: sử dụng dắng, dềnh dàng, vội vã và giọng thơ biến đổi linh hoạt, khi ngỡ ngàng khi vui mừng, reo ca để đưa người đọc tới một quang cảnh thu thật thu của làng quê Việt Nam. Hai câu thơ cuối mang tính ẩn dụ rõ nét:

Sấm cũng bớt bất thần
Bên hàng cây trung niên

Cũng như những hàng cây, trải qua một mùa hè đầy giông bão, nó cũng trở nên chín chắn hơn. Và một cơn mưa rào rơi rớt của của hạ đầu thu, với tiếng sấm thưa thớt dần không còn làm cho hàng cây sợ hãi. Con người cũng vậy, khi trải qua bao giông tố trong cuộc thế, họ cũng dần dần trở nên chín chắn và trưởng thành hơn.

Bởi vậy, đối với những sóng gió họ không còn bất thần mà sẵn sàng đương đầu với những trắc trở thử thách. Đây chính là điểm nhấn của bài thơ, đằng sau bức tranh thu còn là những triết lí sâu sắc về cuộc thế và con người.

“Sang thu” không chỉ là khúc ca giản dị, mộc mạc mô tả bước chuyển mình của thiên nhiên từ hạ sang thu. Mà nó còn là một bài thơ thấm đẫm chất triết lí về con người về cuộc thế. Với tiếng nói dung dị, thể thơ năm chữ linh hoạt, giàu tiết điệu phối hợp với những giải pháp nghệ thuật đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 13

Từ xưa, bốn mùa luân chuyển xuân hạ thu đông luôn là ngọn nguồn sáng tác cho những thi nhân. Mùa thu luôn khiến thi nhân phải động lòng thương yêu bởi đó là mùa của những gì nhẹ nhõm và dịu êm nhất, mùa của sự tĩnh lặng và những rung động sâu sắc nhất. Mùa thu đi vào thơ Nguyễn Khuyến bình dị, sắp gũi; đi vào thơ Nguyễn Đình Thi là tiếng vọng từ quốc gia nghìn đời. Còn mùa thu của Hữu Thỉnh qua bài thơ “Sang thu” thật đẹp, thật nên thơ và trữ tình, và tấm lòng của thi sĩ cũng thật duyên. Sang thu đã thể hiện được tâm trạng xốn xang, bâng khuâng của thi sĩ trước những biến chuyển tinh tế của đất trời cũng như bức tranh thiên nhiên nơi đồng bằng Bắc Bộ lúc giao mùa.

thi sĩ là người trải nghiệm, đi nhiều và viết nhiều. Ông có rất nhiều sáng tác đặc sắc về cuộc sống thôn quê. Với hồn thơ dân dã, dung dị, nhẹ nhõm, đằm thắm mà đầy chất trữ tình, những bài thơ của Hữu Thỉnh luôn được độc giả yêu mến và đánh giá cao. Bài thơ Sang thu được tác giả sáng tác năm 1977 rất dung dị, nhẹ nhõm, giàu ý nghĩa như chính phong cách sáng tác của thi sĩ. Bài thơ Sang thu cho thấy vẻ đẹp của mùa thu có nhẽ là cảm hứng vô tận cho những người nghệ sĩ. thi sĩ đã cảm nhận cái thời khắc sang thu bằng cả một hệ thống hình ảnh thiên nhiên qua nhiều yếu tố và bằng nhiều giác quan với sự rung động thật tinh tế. Chính là sự cảm nhận tinh tế của ông đối với từng hiện tượng thiên nhiên lúc giao mùa mà những rung động ấy đã lan truyền sang ta như một tiếng nói đồng điệu.

Thiên nhiên nơi miền quê Bắc Bộ được cảm nhận từ những điều vô hình. Bức tranh thiên nhiên đẹp ấy đã được người thi nhân cảm nhận phác họa một cách tinh tế và sinh động, giàu sức biểu cảm qua xúc giác, khứu giác và thị giác. Những tín hiệu sang thu nhẹ nhõm khi đất trời giao mình chuyển mùa trong một không gian nên thơ nhẹ nhõm:

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về.

Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình (hương, gió), mờ ảo (sương sử dụng dắng), nhỏ hẹp và sắp (ngõ). Đó là những cảm nhận rất riêng của thi sĩ. trước hết là sự cảm nhận về hương vị. Cái hương ổi chín thường khó đọng lại trong những cơn gió nồm nam thổi mạnh của mùa hè, giờ đây bỗng “phả vào trong gió se”, đem tới hương vị dịu ngọt, đằm thắm của mùa thu khiến thi sĩ ngạc nhiên tới ngỡ ngàng trước sự thay đổi của thiên nhiên. Động từ “bỗng” đặt đầu câu như một sự ngạc nhiên kỳ lạ của thi sĩ về thời khắc giao mùa đầy xao xuyến này của tác giả. Từ “phả” là động từ mạnh diễn tả dư vị nồng nàn, mặn mà mùi hương ổi đang lan tỏa trong. Gió se là gió nhẹ, khô và tương đối lạnh – gió của mùa thu, gió báo hiệu mùa thu đã tới. Gió se mang theo hương ổi của đồng quê. Chính làn gió này đã mang hương ổi đi xa hòa quyện với không gian cùng đất trời tạo nên vẻ đẹp của bài thơ. trông thấy trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế của một người sống giữa đồng quê và thi sĩ đã đem tới cho ta một tín hiệu mùa thu thân thuộc dân dã mà thi vị, ông đã phát hiện ra một nét đẹp thật đáng yêu của mùa thu vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ. Cảm nhận được dư vị của trái ổi thơm phả trong gió, còn có sương thu. Nhưng không phải là “sương thu man mác đầu ghềnh” của Tản Đà mà là: “Sương sử dụng dắng qua ngõ”- một hình ảnh lung linh huyền ảo. Không còn là những hạt sương mà đã là một màn sương mỏng nhẹ trôi, đang đi lại chầm chậm nơi đường thôn ngõ xóm. “sử dụng dắng” là từ láy gợi hình diễn tả hành động chậm chạp như là cố ý chậm lại, làn sương nhẹ nhõm mỏng manh e lệ như nàng thiếu nữ đôi mươi xao xuyến trước những rung động. Màn sương được nhân hóa trở nên có hồn, tinh tế đầy sinh động. Sương qua ngõ sử dụng dắng – Ngõ ở đây vừa mang ý hiện thực là ngõ nhỏ nơi thôn xóm lại như là ẩn dụ với lối vào của thời gian đang từ từ bước qua ranh giới giữa hạ và thu. Hình ảnh sương về qua ngõ với nhịp điều sử dụng dắng, là cảm nhận của tác giả với những xúc cảm xốn xang… thi sĩ đã thổi hồn vào câu thơ khiến cho màn sương thu chứa đầy tâm trạng, như người đi còn vương vấn, ngập ngừng khi qua ngõ nhà ai…… Đã cảm nhận được thu sang qua “hương ổi”, “gió se”, “sương sử dụng dắng”, mà thi nhân vẫn cảm thấy ngỡ ngàng, bâng khuâng:

Hình như thu đã về.

Thu đã về thật rồi sao, lại còn phải ngơ ngẩn? Phải chăng lâu nay nay ta đã thờ ơ với nó để tới giờ ta cảm thấy lạc lõng khó có thể khẳng định được thu đã sang hay chưa. Cả đoạn thơ không chỉ đặc sắc ở tả cảnh mà còn là sự rung rinh cảm nhận trước một cái gì đó mơ hồ,như có, như không. Cảm nhận phút giao mùa sang thu là sự ngỡ ngàng. Do ngỡ ngàng nên cả khứu giác, cả xúc giác và thị giác đều như méc bảo thu về mà vẫn chưa thể tin, chưa dám chắc. “Hình như” là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, là cái ngỡ ngàng, ngạc nhiên trong cái xúc cảm bâng khuâng, xao xuyến của thi sĩ. Mở đầu bằng một sự tình cờ “bỗng” và khép lại khổ thơ bằng cái “hình như”, Hữu Thỉnh gửi vào lòng ng­ười đọc sự thoáng chốc, bất giác về tiết lập thu cũng như­ cảm nhận, mơ hồ mỏng manh trong tâm thế về sự trở về của mùa thu. từ đó, ta hiểu tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu hương thu với tình yêu tha thiết.
Từ một phản xạ tự nhiên, thi sĩ đã định thần trở lại để ngắm nhìn thu sang. Thu sang với những hình ảnh thân thuộc tiếp tục được thi sĩ phát hiện:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã.
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.

nếu như như ở khổ đầu không gian bị bó hẹp, thì tới đây không gian đã rộng mở hơn, từ tầm cao cũng như tầm xa. Sự vận động của thiên nhiên trong thời khắc chuyển mùa được cụ thể hoá bằng những thay đổi của vạn vật. Từ láy “dềnh dàng” “vội vã” đã phần nào thể hiện sinh động nhịp thở của đất trời khi sang thu. Sông lúc sang thu được nhân hóa trở nên có hồn không còn cuộn chảy dữ dội như những ngày hè mưa lũ, mà yên ả dềnh dàng như đang lắng lại, đang trầm xuống, lắng lại để rồi lững lờ trôi. Một chữ “dềnh dàng” mà nói lên được cái dáng vẻ thong thả, thong thả của con sông mùa thu, ngỡ như nó được ngơi nghỉ thoải mái khi mùa nước lũ cuồn cuộn đã đi qua. Ta như nhận thấy dòng sông cũng sử dụng dằng và ngập ngừng níu kéo nhịp thở của mùa hạ. Đối lập với hình ảnh đó là hình ảnh đàn chim khởi đầu “vội vã” bay về tổ lúc hoàng hôn. Hẳn là đàn chim đã khởi đầu cảm nhận được chút se lạnh của tiết trời. Từ “khởi đầu” trong ý thơ được sử dụng rất độc đáo “khởi đầu vội vã” chứ không phải là “đang vội vã”. Phải tinh tế lắm, yêu và sắp gũi với thiên nhiên lắm mới trông thấy được sự khởi đầu trong những cánh chim bay. Nghệ thuật đăng đối vô cùng điêu luyện của tác giả đã tạo điều kiện cho hình ảnh thơ trở nên giàu chất tạo hình, đẹp hơn và thơ mộng hơn.

Cánh chim trời vội vã bay đi, “có đám mây mùa hạ” còn vương lại. Và mây lưu luyến bắc chiếc cầu: Vắt nửa mình sang thu. Hành động được nhân hóa này mang ý diễn tả sự vận động của thời gian. Không gian thơ cũng như trở nên rộng mở hơn, mênh mông hơn với hình ảnh đầy chất tạo hình này. Hình ảnh đám mây mềm mại như một tấm lụa nhẹ nhõm vắt ngang bầu trời. Đây là một hình ảnh rất giàu tính tưởng tượng. Một liên tưởng thú vị, một hình ảnh đầy chất thơ. Người ta thường nói: khăn vắt vai, tuyến đường mòn vắt ngang sườn núi… Hữu Thỉnh điểm vào bức tranh thu của mình một hình ảnh mới mẻ, gợi cảm: hai nửa của một đám mây thuộc về hai mùa. Cảnh vật như trở nên vừa hư vừa thực. Mây trời cũng giống như người chỉ qua nhột từ “vắt” như giao trâm giữa hai mùa cũng chỉ ngắn ngủi trong khoảnh khắc. Phải chăng, cái ranh giới giữa mùa hạ và mùa thu mỏng manh lắm chỉ trong tấc gang, cái trôi lững thững của mây hạ đã dạt nửa mình sang thu. Không phải vẻ đẹp của mùa hạ cũng chưa hẳn là vẻ đẹp của mùa thu mà đó là vẻ đẹp của thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế và nhạy cảm đang say thời khắc giao mùa này. Hữu Thỉnh hẳn phải là người có tâm hồn tinh tế cùng với tình yêu tha thiết với thiên nhiên và quốc gia mới có thể sáng tạo nên những vần thơ đặc sắc này. Ngòi bút tài năng này đã khiến chúng ta không thể không cảm phục.

Từ những rung động mãnh liệt và xúc cảm xuyến xang khi đất trời vào thu, thi sĩ chuyển sang giọng điệu chiêm nghiệm và suy ngẫm sâu xa:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên.

Những biến chuyển của nắng, mưa, sấm trong lúc giao mùa với những nhận xét tinh tế của một người thông hiểu tường tận những hiện tượng thời tiết này. Là sấm, là mưa, nắng, là những hiện tượng tiêu biểu của mùa hạ nhưng đã có sự thay đổi mức độ trong cái khoảnh khắc giao mùa. Cái nắng chói chang của những ngày hạ đã dần nhạt màu, những cơn mưa rào vội vã cũng đã vơi dần. Lại thêm một sự đối lập: nắng vẫn còn nhưng mưa đã vơi dần. Mùa thu nắng sẽ nhạt dần, nhưng lúc giao mùa, nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng. Những ngày sang thu, đã ít đi những cơn mưa rào ồ ạt và cũng bớt đi những tiếng sấm bất thần thường chỉ có trong mùa hạ. những từ ngữ: “Vẫn còn” “vơi dần” “cũng bớt bất thần” đã diễn tả mức độ giảm dần của hiện tượng khi đất trời sang thu. Tất cả đã đi vào chừng mực, vào thế ổn định mang nét đặc trưng của mưa nắng phút giao mùa sang thu. Những câu thơ vừa tả cảnh, vừa kín đáo bộc lộ xúc cảm giao mùa của lòng người trong mối luyến giao thấm quyện với thiên nhiên. Nhịp thơ nhịp nhàng khiến cho ta tưởng những câu mang ý nghĩa tương đương nhau nhưng không phải. Rõ ràng sự tăng cấp được sử dụng thật khéo léo trong cả ba câu thơ. Cuối cùng, chúng trở thành đòn bẩy để tôn lên vẻ trầm tư im lìm trên những hàng cây trung niên.

Trên hàng cây trung niên

Lấy động tả tĩnh chính là một giải pháp nghệ thuật được sử dụng thành công trong bài thơ. Việc này khiến cho người đọc hình dung được rằng sự thét gào dữ dội hay chính mùa hạ đang mất dần và thu đậm nét hơn trước mắt bao người. Từ thu của thiên nhiên, thu của đất trời mà ở đây ta cũng có thể hiểu là thu của quốc gia Việt Nam. Có nơi nào mang sắc thu vàng mộng mơ, lãng mạn như­ Việt Nam. Hữu Thỉnh không nói thu cụ thể ở nơi nào nhưng ông đã ngầm đem tới cho ta cái ngọt ngào của thu Việt Nam, thu Bắc Hà, thu Hà Nội. Mùa thu quá đẹp chắc tại lòng người yêu quê hương lắm hay sao?

Ngẫm lại cho kỹ, hình như bài thơ còn có một ngụ ý khác. Thu thiên nhiên, thu quốc gia và cũng là thu của lòng người. Đơn cử hai câu kết bài thơ:

Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên.

Không đơn thuần tả cảnh, đôi câu thơ kết lại bao suy ngẫm sâu sắc. Sấm chớp hay chính là tác động của ngoại cảnh, những vạng động, biến cố thất thường trong cuộc thế. Hình ảnh ẩn dụ độc đáo“hàng cây trung niên” vừa gợi lên hình ảnh những hàng cây sang thu (những cành cây xum xuê, lâu năm, rễ đã cắm sâu dưới lòng đất rất chắc chắn. Những mùa mưa giông qua đi đã tôi rèn sự dẻo dai dai sức của những hàng cây.) vừa gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những trắc trở, những thăng trầm biến động của cuộc thế. Từ những thay đổi của mùa thu thiên nhiên, liên tưởng tới những thay đổi của mùa thu đời người, để rồi ta thấu hiểu ra rằng: “Hãy biết chấp nhận, tĩnh tâm sống với niềm tin. Hãy mở rộng lòng mình để yêu thiên nhiên, quốc gia, con người.” Bài thơ kết thúc, nhưng dư vị vẫn còn để người đọc tiếp tục suy nghĩ thêm về cái điều thi sĩ tâm sự. Chúng khâm phục sự cảm nhận tinh tế của tác giả cũng như những chiêm nghiệm và suy ngẫm sâu sắc.

Với giọng thơ êm ái, chậm rãi và nhẹ nhõm, bài thơ đã đưa người đọc vào toàn cầu tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ. Đắm mình trong âm điệu, trong từng chữ, từng câu lắng lại với những hình ảnh thân thuộc, người đọc trông thấy những rung cảm tinh tế của thi sĩ về sự biến đổi nhẹ nhõm mà rõ rệt của đất trời, của tuổi đời những con người từng trải. Đó là biểu hiện của một tâm hồn yêu sống, một tâm hồn không già theo năm tháng, một niềm tin vào cuộc thế, một hồn thơ, một nguồn thi cảm không bao giờ vơi cạn trước thiên nhiên.

Từng trải tạo nên bản lĩnh. Có nhà văn nước ngoài đã đặt tên cuốn hồi kí đời mình: Tôi thú nhận là tôi đã sống. Cái tên nặng chắc những từng trải chất chứa của đời người. Sang thu thế ra không chỉ tả cảnh mà còn là bài thơ chính luận thế sự, kín đáo thuyết phục chúng ta tìm sức mạnh chủ động ngay trong tình thế đã “sang thu” của năm tháng đời người. Thế là tử tâm trạng thiên nhiên để tả cảnh chuyển mùa, bài thơ đã hạ trại vào tâm trạng con người mà bàn luận cách xử sự việc đời. Gấp lại những vần thơ thu của Hữu Thỉnh, người đọc như thấy vương vấn trong tâm hồn, đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương quốc gia và suy ngẫm về cuộc thế.

Phân tích bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh – Mẫu 14

Mùa thu quê hương là đề tài gợi xúc cảm đối với thi nhân song mỗi người xúc cảm về mùa thu theo cảm nhận riêng của mình. Với thi sĩ Hữu Thỉnh, khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu đã rung động hồn thơ để thi sĩ vẽ nên một bức tranh thơ: “Sang thu” thật hay. Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ: nhịp nhàng, thong thả, êm ái, trầm lắng và thoáng chút suy tư… thể hiện một bức tranh thu trong sáng, đáng yêu ở vùng nông thôn đồng bằng Bắc Bộ.

Bài thơ mở đầu bằng một phát hiện bất thần. Đó là những cảm nhận ban đầu của thi sĩ về cảnh sang thu của đất trời:

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về

Thiên nhiên được cảm nhận từ những gì vô hình. “Hương ổi” phả trong gió thu se se lạnh (se lạnh và tương đối khô), “Hương ổi” là làn hương đặc biệt của mùa thu miền Bắc được cảm nhận từ mùi ổi chín rộ. Từ “phả”: động từ tức là toả vào, trộn lẫn. Người ta có thể sử dụng những từ: toả, bay, lan, tan… thay cho từ “Phả” nhưng cả bấy nhiêu từ đều không có cái nghĩa đột ngột bất thần. Từ “phả” cho thấy mùi hương ổi ở độ đậm nhất, thơn nồng quyến rũ, hoà vào trong gió heo may của mình thì lan toả khắp không gian tạo ra một mùi thơm ngọt mát của những trái ổi chín vàng – hương thơm nồng nàn hấp dẫn của những vườn cây sum suê trái ngọt ở nông thôn Việt Nam.

Sương sử dụng dắng biểu thị trạng thái tĩnh lặng của không gian, tuy có đi lại nhưng rất nhẹ nhõm. Những hạt sương nhỏ lí tí giăng mắc như một làn sương mỏng nhẹ nhõm trôi, đang “cố ý” chậm lại thong thả, nhẹ nhõm, đi lại chầm chậm sang thu. Hạt sương sớm mai cũng như có tâm hồn, có cảm nhận riêng cũng nhẹ nhõm, thong thả qua ngưỡng cửa của mùa thu. Tác giả lấy động tả tĩnh, gợi nhiều hơn tả, khắc họa rõ nét trạng thái của cảnh vật ngay lúc giao mùa.

Sự góp mặt của làn sương buổi sớm cùng với hương ổi đã làm con người giật thột thảng thốt: “Hình như thu đã về”. Đó là cái giật thột thảng thốt trước tín hiệu trước hết của mùa thu, chưa chắc chắn lắm nhưng hết sức rõ ràng. Tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ đã méc bảo ông điều đó. Trong khi, thời gian đã chạm tới thời khắc thì ông chưa có sự chuẩn bị nào để đón nhận. bởi vậy, ông giật thột, ông vội vã đi xác minh. Từ “hình như” trong câu thơ biểu thị rõ ràng xúc cảm ấy. Nó như vừa là một sự ngạc nhiên vừa như là tiếng reo vui khẽ động đậy trong tâm hồn thi sĩ.

Cách phối hợp một loạt những từ: “bỗng, phá, hình như” thể hiện tâm trạng ngỡ ngàng, xúc cảm bâng khuâng trước thoáng đi bỗng dưng của mùa thu. thi sĩ giật thột, tương đối bối rối, hình như còn có chút gì chưa thật rõ ràng trong cảm nhận. Vì đó là những cảm nhận nhẹ nhõm, thoáng qua, hay là vì quá đột ngột mà tác giả chưa trông thấy? Tâm hồn thi sĩ biến chuyển nhịp nhàng với phút giao mùa của cảnh vật. Từng cảnh sang thu của cảnh vật đã thấp thoáng hồn người cũng sử dụng dắng quyến luyến lưu luyến, bâng khuâng…

Để minh chứng cho những cảm nhận của mình, thi sĩ mở rộng tầm nhìn ra với không gian rộng lớn của đất trời. Hình ảnh thiên nhiên sang thu được thi sĩ phát hiện bằng những hình ảnh thân thuộc làm nên một bức tranh mùa thu đẹp đẽ và trong sáng:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

Dòng sông quê hương thướt tha mềm mại, hiền hoà trôi một cách nhàn hạ, thảnh thơi sau những ngày hè nước lũ, gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu. Những cánh chim chiều khởi đầu vội vã bay về phương nam tránh rét trong những buổi hoàng hôn.

Đối lập với hình ảnh trên, hình ảnh “đám mây mùa hạ” được thi sĩ cảm nhận đầy thú vị qua sự liên tưởng độc đáo: “vắt nửa mình sang thu”. Gợi hình ảnh một làn mây mỏng, nhẹ, kéo dài của mùa hạ còn sót lại như lưu luyến, đó là vẻ đẹp của bầu trời sang thu. Cảm giác giao mùa được diễn tả cụ thể và tinh tế bằng một hình ảnh đám mây của mùa hạ cũng như đang bước vào ngưỡng cửa của mùa thu vậy. nhịn nhường như giữa mùa hạ và mùa thu có một ranh giới cụ thể, hữu hình, hiển hiện.

Phép liên tưởng đầy thú vị không chỉ cảm nhận bằng thị giác mà là sự cảm nhận bằng chính tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết của Hữu Thỉnh. (Liên hệ trong bài thơ “Chiều sông Thương”, ông cũng có một câu thơ tương tự về cách viết: “Đám mây trên Việt Yên, Rủ bóng về Bố Hạ).

Bằng sự cảm nhận qua nhiều giác quan, sự liên tưởng thú vị, bằng tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả, tất cả không gian cảnh vật như đang chuyển mình từ từ trầm tĩnh bước sang thu. Người đọc cảm nhận cả về không gian và thời gian chuyển mùa thật là đẹp, thật là khơi gợi hồn thơ.

hoan hỉ đó nhận mùa thu về, với tất cả những biểu hiện của nó, thi sĩ bỗng nhiên nghĩ về cuộc thế, nghĩ về kiếp nhân sinh, đời người. cuộc thế vốn gắn kết với đất trời. nay đất trời có những bước chuyển biến mạnh mẽ không khỏi khiến thi sĩ ngậm ngùi:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên.

Nắng là hình ảnh cụ thể của mùa hạ. Nắng cuối hạ vẫn còn nồng, còn sáng nhưng đã nhạt dần, yếu dần bởi gió se đã tới chứ không chói chang, dữ dội, gay gắt. Mưa là hình ảnh của đất trời biến động. Nắng đã vơi dần. Mưa cũng đã ít đi. Cơn mưa mùa hạ thường bất thần chợt tới rồi lại chợt đi.

Tác giả sử dụng từ “vơi” có trị giá gợi tả như sự đong đếm những sự vật có khối lượng cụ thể để diễn tả cái số lượng vô định – diễn tả cái thưa dần, ít dần, hết dần những cơn mưa rào ồ ạt, bất thần của mùa hạ. Tất cả đều chầm chậm, từ từ, không vội vã, không tong tả.

Hình ảnh “Sấm cũng bớt bất thần. Trên hàng cây trung niên” biểu thị sự chiêm nghiệm của thi sĩ trước dòng đời nghiệt ngã. Trước hết, hình ảnh mang ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất thần đi liền với những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sấm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu). Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật thột, bất thần bởi tiếng sấm mùa hạ.

“Sấm” và “hàng cây trung niên” là một phép ẩn dụ (gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm ở người đọc). “Sấm” chính là những biến cố thất thường của ngoại cảnh, của cuộc thế. “Hàng cây trung niên” gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những trắc trở, những thăng trầm của cuộc thế. Khi con người trải nghiệm nhiều sẽ trở nên hiểu mình, hiểu người, hiểu đời hơn. Con người sẽ tĩnh tâm đón nhận mọi biến cố trong cuộc thế. Nhưng con người không ngậm ngùi nuối tiếc mà chỉ thấy mình vững vàng hơn. Thời gian trôi nhanh qua cửa, cuộc thế mỗi con người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi qua. bởi vậy tiếc nuối vẫn mãi là xúc cảm của con người trước thời gian.

Đất trời sang thu khiến lòng người cũng bâng khuâng, xúc cảm, gợi bao suy nghĩ về đời người lúc sang thu. Mùa thu tới không chỉ làm cho cảnh vật thay đổi mà suy nghĩ của con người cũng thay đổi. Thời khắc giao mùa thường đem tới cho người ta nhiều điều mới mẻ, thú vị. Và thấp thoáng trong 2 câu thơ cuối bài thể hiện suy ngẫm về đời người “Sấm cũng bớt bất thần. Trên hàng cây trung niên”. Lòng người đã lắng lọc rất sâu để trông thấy những xao động mơ hồ huyền ảo của thiên nhiên và những sao động bâng khuâng sâu lắng của con người.

Trong một bài phỏng vấn sắp nhất, Hữu Thỉnh đã giảng giải “Sấm là những trắc trở thử thách mà dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt chống Pháp và Mỹ. Còn hàng cây là hình ảnh của quốc gia, dân tộc ta vững vàng vượt qua thử thách. Trải qua bao nhiêu thử thách, bom đạn khốc liệt, chúng ta không còn sợ bất cứ thế lực nào, vững vàng vượt lên phía trước trong công cuộc xây dựng quốc gia”.

“Sang thu” của Hữu Thỉnh đã không chỉ mang lại cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu quê hương mà còn làm sâu sắc hơn tình cảm quê hương trong trái tim mọi người. mô tả mùa thu bằng những bước chuyển mình của vạn vật, Hữu Thỉnh đã góp thêm một cách nhìn riêng, một lối mô tả riêng cho mùa thu thi ca thêm phong phú.

Phân tích vẻ đẹp bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh

Hữu Thỉnh thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta. Ông viết nhiều, viết hay về những con người ở nông thôn, về mùa thu. Nhiều vần thơ thu của ông mang xúc cảm bâng khuâng, vương vấn trước đất trời trong trẻo, đang biến chuyển nhẹ nhõm. Thơ ông mang đậm hồn quê Việt Nam dân dã, mộc mạc tinh tế và giàu rung cảm. Sang thu là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ ấy.

Bài thơ đưa ta tới với cảnh đất trời Việt Nam khi sang thu, từ sắp tới xa, với những nét rất sắp gũi, thân yêu:

Bỗng trông thấy hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương sử dụng dắng qua ngõ
Hình như thu đã về.

Mọi hình ảnh, hiện tượng đó của đất trời khi chuyển từ hạ sang thu mọi người đều biết, đều quen. Vậy mà tới bài thơ này của Hữu Thỉnh ta mới cảm nhận được đầy đủ vẻ đẹp yên ả, yên bình của nó. Hương ổi, gió se, sương mỏng, mây nhởn nhơ bay, chim vội vã về phương nam, nắng vẫn rực vàng, mưa vơi dần, tiếng sấm bớt hẳn… những tín hiệu báo mùa thu về ấy sao mà thân yêu, sắp gũi, nao nao gợi nhớ một miền quê thời thơ ấu trong kí ức của mỗi chúng ta.

thi sĩ không viết “Thu sang” mà lựa chọn tựa đề là “Sang thu” tức là mùa thu chỉ mới khởi đầu. Từ “thu” làm bổ ngữ cho động từ “sang” gợi chủ thể cảm nhận sự chuyển mùa ấy là con người. Cách đặt tựa đề báo hiệu những cảm nhận tinh tế và riêng biệt về mùa thu.

Hương thơm của những trái ổi chín trong vườn “vào trong gió se” tức là hương thơm bốc mạnh và tỏa ra thành luồng, chứ không thoang thoảng. thi sĩ vừa ngửi thấy mùi hương ổi, lại vừa cảm nhận được cái se lạnh của gió đầu thu. Hương thì mặn mà mà gió thì nhè nhẹ nên không gian rất đỗi nồng nàn.

Sương thu thì “sử dụng dắng”qua ngõ, tức là nó cố ý nhởn nhơ, chậm chạp lại, vấn vít bên ngõ xóm, đường làng hay vấn vít, giao hòa cùng người ngắm cảnh? Hương ổi, gió se, sương thu là những kí hiệu làm thi sĩ giật thột trông thấy: “Hình như thu đã…”. xúc cảm của tác giả vừa nhẹ nhõm, vừa bâng khuâng.

Bằng sự tinh nhạy của tất cả những giác quan, thi sĩ cảm nhận những nét đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Mùa thu có “hương ổi”, có “gió se” và làn sương mơ “sử dụng dắng” trước ngõ. Mùa thu đã về trên quê hương. Vậy mà thi sĩ vẫn còn dè dặt. Thu tới nhẹ nhõm quá. nhẹ nhõm tới nỗi chưa hẳn tin đó là sự thực. bởi vậy, có thể thấy, đằng sau không gian làng quê sang thu ấy ta cảm nhận được tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống tới đắm say, cuồng nhiệt của thi sĩ.

Sau giây phút bối rối, ngỡ ngàng thi sĩ bước ra với đất trời để “kiểm chứng” nỗi hoài nghi của mình. hực là, mùa thu đã “sang” rồi. Mùa thu đã về khắp đất trời. Đây không phải là mùa thu trước hết trong đời nên sự hoan hỉ đã nhường chỗ cho sự đằm lắng, dịu nhẹ, thong thả mà đón nhận:

Sông được lúc dềnh dàng
Chim khởi đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu

“Sông được lúc dềnh dàng” chậm chạp, rề rà, không vội vàng gì. Người đọc như được thấy mặt nước phẳng lặng của sông thu soi chiếu cánh chim vội vã bay từ khung trời chói chang của mùa hạ sang khung trời rét mướt của mùa thu. có nhẽ, vì luyến lưu bờ xinh bãi đẹp mà con dòng nước cũng không muốn trôi đi chăng?

Những đám mây trên bầu trời cũng “vắt nửa mình sang thu” như chưa muốn rời xa mùa hạ nồng ấm. Đám mây lưu luyến lúc giao mùa được cảm nhận bằng tâm hồn tinh tế và trong trẻo. Và mùa hạ dần qua cũng vơi dần những cơn mưa rào, trả lại cho trời thu sắc xanh muôn thuở. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng.

nếu như ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, tín hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian và thời gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng xúc cảm ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người, về cuộc thế:

Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất thần
Trên hàng cây trung niên”.

Nắng ấm và mưa giông là những tín hiệu đặc trưng của mùa hạ. Nay những tín hiệu ấy tuy có vơi nhưng hãy còn rộn rực lắm. Hai từ “bao nhiêu” thể hiện sự tiếc nuối mênh mang của thi sĩ đối với màu hạ. Đối với thi sĩ, bốn mùa đều đẹp tươi. Mùa thu mang tới bao điều mới mẻ nhưng mùa hạ cũng lắm kỉ niệm rét mướt. Chia biệt cái cũ, đón nhận cái mới, ở giữa ranh giới ấy khiến cho tâm hồn nhạy cảm của thi sĩ không khỏi ngậm ngùi.

Hai câu kết vừa có ý nghĩa tả thực, lại vừa có ý nghĩa hàm ẩn. Ý nghĩa tả thực là tả hiện tượng sấm và hàng cây lúc sang thu. Còn ý nghĩa hàm ẩn mà thi sĩ gửi gắm ở đây có nhẽ là những vang động thất thường của ngoại cảnh, của cuộc thế (sấm) đã bớt đi sự bất thần đối với những người từng trải (cây trung niên). Đây là sự suy ngẫm của tác giả về nhân sinh, về quy luật của cuộc sống nhân nói về cảnh thiên nhiên đất trời sang thu.

Rõ ràng, khi viết bài thơ này, Hữu Thỉnh đã bước vào tuổi trung niên, đã đi qua một thời trẻ trai trong chiến tranh nên những chiêm nghiệm của thi sĩ có sức khơi gợi cho mọi người về lẽ sống làm người: Ta hãy tĩnh tâm mà đón nhận và khắc phục mọi vấn đề gặp phải trong cuộc sống.

“Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc thế mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

Biểu hiện về màu thu, thơ xưa lấy động để tả tĩnh, gợi nhiều hơn tả. Nguyễn Khuyến trong bài thơ Mùa thu câu cá đã diễn tả tài tình cảnh sắc mùa thu, vừa tinh khôi, sạch sẽ, vừa gợi buồn, gợi nhớ:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn tương đối gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

“Ao thu trong veo”, “lá vàng”, “tầng mây”, “ngõ trúc” vốn là thi liệu mặc định của mùa thu. Nguyễn Khuyến với cái tài tả cảnh bậc thầy đã khéo léo sắp đặt nên bức tranh thu tuyệt đỉnh, trước và sau ông khó ai suy bì kịp.

thi sĩ Lưu Trọng Lư trong bài Tiếng thu cũng đã có những cảm nhận tinh tế, đầy xúc cảm trước sự dịch chuyển của mùa thu:

“Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngờ ngạc
Đạp trên lá vàng khô?”

Không biểu hiện rõ ràng như Hữu Thỉnh trong bài Sang thu, Lưu Trọng Lư gợi nhiều hơn tả. Tiếng lá vàng khô vỡ vụn dưới những bước chân nai ngờ ngạc biểu thị rõ ràng của mùa thu tới. Nó vừa tới, chưa rõ ràng nên khiến cho con nai – chủ thể cảm nhận – ngờ ngạc. Tiếng thu thực thụ của Lưu Trọng Lư là tương tự đó. Ta không nghe tiếng thu ấy bằng tai mà nghe bằng trí tưởng tượng, nghe vang lên trong tâm hồn, mỗi khi thấy lá ngoài đường rụng nhiều và những đám mây bàng bạc trên không…

Bằng hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm, thể thơ năm chữ linh hoạt, giọng thơ ngọt ngào, đằm thắm, nghệ thuật đan xen mô tả và xúc cảm tự nhiên, hài hòa, bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh đánh thức tình cảm của mỗi người về tình yêu quê hương quốc gia và suy ngẫm về cuộc thế.

Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 9