Top 12+ mẫu Phân tích Vội vàng khổ 2 siêu hay

Phân tích khổ 2 Vội vàng của Xuân Diệu đem tới cho những bạn 12 bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao nhất. từ đó những bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý tham khảo, nắm vững tri thức cơ bản, củng cố kĩ năng viết văn, mở rộng vốn từ để biết cách viết bài văn cho riêng mình.

Phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng chúng ta không chỉ nhìn thấy tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc vậy mà còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà Xuân Diệu dành cho đời. Đọc mỗi dòng thơ, ta càng thêm yêu thêm quý những quan niệm sống mới mẻ đầy tích cực được thi sĩ Xuân Diệu. Vậy sau đây là 12 bài phân tích Vội vàng đoạn 2, mời những bạn cùng theo dõi tại đây.

Bạn Đang Xem: Top 12+ mẫu Phân tích Vội vàng khổ 2 siêu hay

Dàn ý phân tích đoạn 2 Vội vàng

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu bài thơ Vội vàng và khái quát nội dung của khổ 2.

II. Thân bài:

* Điều lo sợ:

  • Sự chảy trôi của thời gian: xuân tới → xuân qua; xuân non → xuân già
  • Lòng người rộng lớn với khát khao → lượng trời chật hẹp → đời người ngắn ngủi → thành xuân hữu hạn.

* Lời thúc giục sống vội:

  • Vạn vật nhuốm màu phải tàn, chia ly
  • Hãy tận hưởng mọi thứ nhân lúc trời còn tươi, xuân còn thắm
  • Hãy sống hết mình khi sức còn trẻ, ham mê còn chưa thoả

III. Kết bài:

Cảm nhận về đoạn thơ.

Xem thêm: Tuyển tập 20+ mẫu phân tích thương vợ ngắn gọn hay nhất

Dàn ý số 2

1. Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ “Vội vàng”

– Dẫn dắt, giới thiệu đoạn 2 của bài thơ:

Nhận xét về Xuân Diệu, Hoài Thanh từng chia sẻ: “Xuân Diệu là thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ Mới”. Quả thực, đọc và cảm nhận thơ văn Xuân Diệu, ta mới thực thấu điều đó. Ông mới trong cách nhìn nhận, trong cách cảm, cách nghĩ về cuộc thế, con người. thi sĩ coi thời gian cuộc thế không phải thứ gì tuần hoàn, bất biến mà một đi không trở lại, nên cần sống hết mình với nó. quan niệm đó được ông thể hiện rất rõ trong bài thơ “Vội vàng”. Đoạn thơ thứ hai trong bài được coi là một trong những đoạn thơ đặc sắc và giàu ý nghĩa nhất.

2. Thân bài:

Đoạn 2 của bài thơ tác giả thể hiện niềm tiếc nuối trước sự trôi chảy của thời gian:

tiết điệu thơ trong đoạn này không sôi nổi, vồn vập như đoạn thơ trên mà chậm hơn, lắng lại những suy tư.

Dấu chấm giữa câu thơ: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.” là một tín hiệu nghệ thuật nhiều dụng ý. Dấu chấm ấy đã chặn đứng niềm sung sướng của nhân vật trữ tình, xuân chưa qua mà đã thấy nhớ. Điều đó thể hiện sự nhạy cảm của nhân vật trữ tình hay cũng chính của thi sĩ Xuân Diệu khi ngay trong sung sướng đã thấy tiếc mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn ra trước bước đi của thời gian.

Thơ xưa khi nói về sự vận động của thời gian, họ coi thời gian là một chuỗi tuần hoàn bất biến, Nguyễn Du từng viết: “Ngày xuân con én đưa thoi”(Cảnh ngày xuân) hay “Ngày xuân như bóng câu qua cửa sổ”. Dẫu vậy, người xưa vẫn ung dung, tĩnh tâm vì tin rằng vũ trụ tuần hoàn, xuân đi xuân lại lại.

Còn Xuân Diệu, “xuân đương tới tức là xuân đương qua/ xuân còn non tức là xuân đã già”. Đó là lối nói đa nghĩa đầy mới mẻ rằng thời gian luôn chảy trôi, không đứng đợi.

Thời gian trôi, mùa xuân đi cũng là lúc tuổi xanh đã qua. Con người quý nhất là mùa xuân, quý nhất là tuổi xanh. Mùa xuân trôi, tuổi xanh trôi => tôi cũng mất => tưởng tượng ra cuộc chia li đầy ắp đất trời.

Một loạt động từ: “rớm, than, hờn, sợ” như là một sự nhân hóa để thể hiện nỗi buồn tiếc trong tâm hồn con người đã tràn sang vạn vật, thấm vào từng cảnh, từng giác quan của con người. Bởi vậy mà con người và vũ trụ đều buồn thê thiết.

Còn đang trong mùa xuân mà thi sĩ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và từ đó thi sĩ cũng gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi xanh, thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở lại.

3. Kết bài:

Khẳng định lại nội dung tư tưởng và trị giá nghệ thuật của đoạn thơ:

Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ đã khẳng định khát khao cháy bỏng được sống hết mình với cuộc thế của nhân vật trữ tình, song cũng chính là tâm tư, nỗi lòng của thi sĩ Xuân Diệu. Ông nhờ thơ ca để giãi bày, tâm sự với người đọc để họ chia sẻ và hiểu ông hơn, trân trọng thời gian tuổi xanh và sống hết mình với nó.

Dàn ý số 3

1. Mở bài: giới thiệu về đoạn 2 bài thơ Vội vàng

Ví dụ:

Trong tất cả những tác phẩm của Xuân Diệu, một tác phẩm thơ có sự phối hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch xúc cảm và triết lí sâu sắc là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. kế bên niềm say mê thiên nhiên và cuộc sống thì tác giả còn thể hiện nỗi lo lắng của mình trước thời gian và cuộc thế, hình ảnh này được thể hiện rõ qua đoạn 2 của bài thơ. Chúng ta cùng đi phân tích đoạn 2 của bài thơ để hiểu rõ về nỗi lo lắng và băn khoăn của tác giả về cuộc sống và thời gian.

2. Thân bài: phân tích đoạn 2 của bài thơ Vội vàng

a. Mở đầu đoạn thơ: Nỗi vui sướng vội vàng và chớp nhoáng của thi sĩ

Sự ham mê về thiên nhiên, cuộc sống hòa lẫn sự lo lắng về quả nhanh của thời gian, của bộn bề cuộc sống

b. Tác giả ý thức về sự hữu hạn của thời gian:

  • Thời gian ngày càng trôi đi
  • Con người, mọi vật đều sẽ thay đổi theo thời gian
  • Tác giả cảm thấy lo lắng, sợ hãi trước sự trôi đi của thời gian

c. Tình yêu cuộc sống cuồng nhiệt của tác giả:

  • Khát vọng sống vô cùng để cùng hòa nhịp với cuộc sống của tác giả
  • Yêu cuộc sống tới nồng nàn, tha thiết
  • Niềm ham sống, ham được sống và chưa toại nguyên cuộc sống mình đang sống

3. Kết bài: nêu cảm nhận của em về đoạn 2 bài thơ Vội Vàng

Ví dụ:

Đoạn 2 bài thơ Vội vàng thể hiện nỗi lo lắng của tác giả về thời gian và cuộc sống. đồng thời đoạn 2 còn thể hiện mong muốn cuộc sống, mong muốn được sống hòa cùng thiên nhiên của tác giả.

Phân tích 16 câu giữa bài Vội vàng – Mẫu 1

Xuân Diệu là một trong những thi sĩ lớn của phong trào Thơ Mới. Nhắc tới Xuân Diệu là nhắc tới một hồn thơ lãng mạn, rộn rực, bâng khuâng. Đó là một tâm hồn luôn thiết tha, gắn bó với cuộc thế. Khát khao giao cảm ấy đã được kết tinh lại trong bài thơ “Vội vàng”. Đây là một trong những bài thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Diệu và nhất là cảm nhận của ông về thời gian được thể hiện trong khổ 2 bài thơ.

Bài thơ Vội vàng in trong tập Thơ thơ – thi phẩm đầu tay của “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. nếu như ở khổ thơ đầu, Xuân Diệu gây ấn tượng với người đọc bằng bức tranh thiên nhiên tươi vui tràn đầy sức sống thì ở những dòng thơ tiếp theo thi sĩ lại thể hiện những suy nghĩ trằn trọc về thời gian, về cuộc sống.

Qua đoạn 2, người đọc cảm nhận được thi sĩ Xuân Diệu đã đưa ra những phát hiện về sự chảy trôi của thời gian. Mở đầu đoạn thơ là hai câu thơ với cách ngắt nhịp lẻ 3/5 như một sự vỡ lẽ. Bước chân của thời gian cứ vậy mà trôi đi qua từng câu chữ

“Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già”

những trạng thái của thời gian tuần tự được nêu ra. Nhưng đó không phải là quang cảnh nở rộ mà là những trạng thái đối lập “đương tới” – “đương qua” và “còn non” – “sẽ già”. những trạng thái ấy cũng chính là sự tiếp nối của chúng trong vòng xoay của thời gian.

Thời gian vận động không ngừng, mọi thứ cũng không ngừng thay đổi. nếu như trong văn học trung đại, thời gian là một vòng tròn tuần hoàn không ngừng lặp lại của sinh lão bệnh tử. Vì vậy, con người trung đại tuy ý thức được sự nhỏ bé của mình trước dòng chảy của thời gian nhưng rất ít khi ta thấy họ chứa lời than vãn vì cuộc sống ngắn ngủi. Như Mãn Giác thiền sư từng viết

“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai”

(Cáo tật thị chúng – Mãn Giác thiền sư)

Nhưng trong thời đại Thơ mới, con người đã ý thức rõ sự hạn hữu của đời người. Thời gian không còn là vòng tròn vô tận mà là một đường thẳng tuyến tính. Trong dòng chảy của thời gian, con người chỉ như một hạt cát nhỏ bé giữa sa mạc. Thời gian vô tận mà đời người hạn hữu. Vì vậy mà đứng trước thời gian con người thường thấy mình nhỏ bé bất lực, chỉ có thể buông xuôi nhìn thời gian qua lẽ tay. Mới khi nào mùa xuân còn tươi đẹp thì mai kia nó sẽ trở nên già cỗi như một quy luật thế tất

“Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết”

(Hoa nở để mà tàn – Xuân Diệu)

Bước đi của màu xuân cũng là bước đi của thời gian và bước đi của đời người. Phép điệp “tức là” càng nhấn mạnh thêm sự bất thần có phần hốt hoảng về dòng chảy của thời gian của cuộc thế. Người ta thường chỉ tiếc mọi thứ khi nó đã qua đi, khi nó chỉ còn là kỷ niệm nhưng Xuân Diệu là tiếc mùa xuân ngay khi nó đang tới, ngay khi ông đang đắm mình trong bức tranh xuân ấy. Đó không chỉ là mùa xuân của đất trời mà còn là mùa xuân của đời người. Phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 để thấy Xuân Diệu còn lấy thời gian của đời người để làm thước đo cho thời gian của vũ trụ.

“Mà xuân hết tức là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
nếu như tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Những câu thơ được nối kết nhau bởi từ “xuân”. Điệp từ “xuân” được lặp lại để nhấn mạnh mùa xuân của đất trời cũng như nhấn mạnh mùa xuân của tuổi xanh. Đó đều là những gì đẹp nhất của đất trời, của đời người. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, những tưởng thời gian bốn màu xuân hạ thu đông cứ thể mà chảy trôi mặc kệ sự tồn tại của con người, nhưng trong những dòng thơ của Xuân Diệu chúng lại có mối quan hệ gắn kết với nhau.

Thời gian thiên nhiên kết thúc “xuân hết” nhưng kéo theo đó “tôi cũng hết”. Câu thơ vang lên như nhue một tiếng thở dài cùng đất trời. tuổi xanh qua đi thì sự tồn tại của “tôi” cũng trở nên vô nghĩa. Bởi tuổi xanh qua đi, tình yêu không còn thì mọi thứ cũng cứ vậy mà trôi đồng hành dòng chảy của thời gian. “Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn.

Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng tới vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2 còn cho thấy thời gian đất trời nhường cũng đang trêu chọc con người. Mùa xuân của đất trời dù sẽ lặp lại nhưng màu xuân của đời người – tuổi xanh thì vĩnh viễn không thể quay trở lại. vì vậy dù thời gian có lặp lại thì mọi thứ cũng vô nghĩa bởi lúc đó “tôi” không còn là “tôi” của ngày hôm nay. Như chính Xuân Diệu đã từng nói

“Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút ấy sang tôi phút này”

(Đi thuyền – Xuân Diệu)

Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Trời đất cứ vậy mà xoay vần nhưng tôi sẽ không vĩnh hằng cùng đất trời. Lúc này, hứa hẹn ước ba sinh hay một cuộc sống chốn thiên đường cũng không thể xoa dịu tâm hồn thi nhân. Bởi lẽ điều ông cần không phải là hạnh phúc ở một kiếp nào khác mà phải là được tận hưởng hương sắc cuộc thế được hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại khi tuổi xanh đang tới, tình yêu đang xuân sắc.

Thế nhưng, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc sẽ thấy dù biết trước “tôi” sẽ không tồn tại vĩnh viễn để đón nhận thiên nhiên đất trời tươi đẹp nhưng Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi xanh mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”. Xuân Diệu nhường như đang tiếc nuối vì không thể tận hưởng hết mọi hương sắc của cuộc thế.Qua đây ta thấy những dòng thơ này, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi xanh chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi trội tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc thế.

Trước dòng chảy ấy không chỉ Xuân Diệu cảm thấy hối tiếc mà mọi vật cũng mang màu sắc u buồn, đầy mất mát chia ly.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”

Tháng năm – thời gian không được cảm nhận qua sự thay đổi biến thiên của vạn vật trôi qua kẽ lá mà được cảm nhận bằng khứu giác “mùi tháng năm”. Khi phân tích bài thơ vội vàng đoạn 2, ta nghe có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy. Hóa ra thời gian không vô tình như ta vẫn thường nghĩ mà tháng năm nhường như cũng đang tiếc nuối cho chính bản thân mình. Ý thơ ấy gợi ta liên tương tới cảm nhận của Đoàn Phú Tứ

“Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh”

(Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ)

Cuộc chia ly báo trước không thể nào thoát khỏi. Không chỉ thời gian mà cả không gian cũng tràn ngập dự cảm chia lìa. Đó là không gian rộng lớn của cả sông núi. Cảnh vật tươi đẹp hiện tại rồi sẽ trở thành quá khứ. Mỗi phút mỗi giây đều trôi đi không níu lại được. Cuộc chia ly mỗi phút mỗi giây vẫn cứ diễn ra như thế. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc thấy rằng từ cảm nhận chung về cả không gian rộng lớn, Xuân Diệu khởi đầu vẽ ra cuộc chia ly của vạn vật một cách cụ thể hơn

“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Vẫn là hình ảnh chim, gió nhưng không còn rộn ràng vui tươi của khúc ca yến oanh hay của cành tơ phơ phất mà cũng hòa vào bản nhạc buồn chia ly của sông núi. Cơn gió không reo vui cùng cành lá, đem lời ca niềm vui lan tỏa tới mọi người mà cơn gió ấy chỉ “thì thào trong lá biếc” nhường như đang hờn giận điều gì.

tới tiếng chim không còn gảy khúc tình si mà bỗng dưng lặng im. Hót để mà chi khi cuối cùng vẫn phải nói lời ly biệt. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc phát hiện ra giải pháp nhân hóa đã được sử dụng tinh tế để góp phần tô đậm thêm nỗi buồn vạn vật trước thời khắc biệt ly sắp tới. Mỗi sự vật nhường như đang tiễn biệt chính mình, không gian chứa lên khúc hát tiễn biệt thời gian. Mọi thứ cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó không sao cưỡng lại được.

Trước bài ca ly biệt của núi sông, thi nhân cũng chứa lên một tiếng thở dài cùng đất trời đầy nuối tiếc.

“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa”

Câu thơ như một lời kêu đầy hốt hoảng và bất lực. Hốt hoảng bởi lẽ cuộc sống trần gian ngắn ngủi nhưng hương sắc cuộc thế lại mênh mông khi thi nhân vừa phát hiện một chốn bồng lai nơi hạ giới. Bất lực là bởi trước dòng chảy của thời gian con người lại không thể xoay vần hoá công cứ vậy mà bị cuốn trôi đi không sao níu giữ.

Xem Thêm : Từ ấy – Tố Hữu

Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng sững sờ tiếc nuối ấy. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, ta còn thấy thán từ “ôi” xuất hiện như một sự uất nghẹn giữa dòng thơ. Câu thơ vì vậy mà càng trở nên da diết hơn. Tuy sững sờ hốt hoảng tiếc nuối nhưng Xuân Diệu không buông xuôi. Ông bất lực trước dòng chảy của thời gian nhưng không buông bỏ, ngồi im chờ đợi thời gian trôi. Xuân Diệu đã tìm ra một cách khắc phục.

“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”

Lời thơ như một lời hối thúc, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ tới mà quên lãng đi thực tế. Thời gian chảy trôi nhưng hiện tại “mùa chưa ngả chiều hôm” cuộc sống vẫn đang tiếp tục, cảnh sắc trần gian vẫn tồn tại đầy tươi đẹp quyến rũ lòng người.

Vì vậy, buồn mà chi, thất vọng trước điều không thể thay đổi để làm gì. “Mau đi thôi”, mau quyết tâm trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc cảm nhận được đây chính là một lẽ sống tích cực. Một thanh âm trong trẻo xóa tan đi khúc nhạc u buồn chia ly.

Bằng những nét phác họa thiên nhiên cùng với việc sử dụng từ ngữ khéo léo, Xuân Diệu đã vẽ ra một cuộc chia ly của núi sông. Giọng thơ như phân tách làm hai, thi sĩ đang tự nói với chính mình, giãi bày nỗi lòng mình mà nhường như lời nói ấy cũng hướng ra ngoài.

Trên cái nền chia ly ấy, người ta dễ rơi vào những xúc cảm tiêu cực buồn bã, oán than, căm phẫn, bỏ mặc buông xuôi cuộc thế. Nhưng Xuân Diệu lại không bỏ mặc hay căm phẫn trước cuộc thế. Bởi ông hiểu đó là điều thế tất của cuộc sống. Vì vậy, Xuân Diệu không oán than hờn trách nữa ông chấp nhận và quyết tâm sống hết mình từng phút giây ngắn ngủi nhưng đầy hương sắc. vì vậy, vội vàng không phải là lối sống tiêu cực mà là một khát khao mãnh liệt sống trọn với cuộc thế. Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 người đọc sẽ thấy khát khao sống cháy bỏng của thi nhân

Tóm lại, phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2, người đọc nhìn thấy tuy thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc thế nhưng từ đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời. Lời thơ cũng vì vậy là chính là tiếng lòng của Xuân Diệu dành cho người cho đời. Đọc mỗi dòng thơ, ta càng thêm yêu thêm quý những quan niệm sống mới mẻ đầy tích cực được thi sĩ Xuân Diệu truyền tải trong thơ.

Phân tích khổ 2 bài Vội vàng – Mẫu 2

Xuân Diệu là thi sĩ của tình yêu và tuổi xanh. Ông được mệnh danh là “ông hoàng của thi ca tình yêu”. Trước cách mệnh, với hai tập “Thơ Thơ” và “Gửi hương cho gió”, Xuân Diệu đã chính thức trở thành “thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ mới” (Hoài Thanh). Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ” là bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ tình yêu của Xuân Diệu viết về mùa xuân, tuổi xanh. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ thể hiện quan niệm nhân sinh của Xuân Diệu về thời gian và tuổi xanh và niềm thèm khát được sống mãnh liệt, sống có ý nghĩa, sống hết mình với mùa xuân tuổi xanh, thời gian cuộc thế:

“Xuân đang tới, tức là xuân đang qua

Mau đi thôi ! mùa chưa ngả chiều hôm”

Bài thơ “Vội Vàng” nằm trong tập “Thơ Thơ”, xuất bản năm 1938 là bài thơ tiêu biểu của tập thơ nói riêng, của hồn thơ Xuân Diệu nói chung. “Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu của Xuân Diệu. Bài thơ thể hiện tập trung sở trường của Xuân Diệu trong việc bộc lộ cái tôi và cách cảm nhận thiên nhiên, sự sống. Cả bài thơ thể hiện một nhân sinh quan mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần giữa của bài thơ “Vội vàng”. Ở đoạn này thi sĩ tập trung thể hiện quan niệm về thời gian.

Thời gian trong thi ca trung đại là “thời gian tuần hoàn”, tức là thời gian được hình dung như một vòng tròn liên tục tái diễn, hết một vòng lại quay về điểm xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Mà đã là vòng tuần hoàn thì thời khắc, thời đoạn có ra đi thì cũng quay trở về. Quan niệm “thời gian tuần hoàn” xuất phát từ cái nhìn tĩnh có phần siêu hình, lấy sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo thời gian.

Cách thức trình bày của Xuân Diệu là “chống đối”, “tranh cãi” lại quan niệm xưa; đồng thời bộc bạch quan niệm của mình bằng một xúc cảm sôi nổi cuồng nhiệt, tức là một dạng ý thức triết học đã thấm nhuần xúc cảm. Đoạn thơ ( từ câu 14 tới câu 24, có thể tới câu 28 ) với giọng tranh luận, biện bác bỏ, tiết điệu sôi nổi, khẩn trương và những câu thơ đầy mĩ cảm về cảnh sắc thiên nhiên đã chứa đựng cảm nhận về thời gian của thi sĩ. Xuân Diệu đã phủ định trực tiếp quan niệm “thời gian tuần hoàn” bằng một câu thật dứt khoát: “Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn”.

tương tự, Xuân Diệu lựa chọn lựa cho mình một quan niệm khác “thời gian tuyến tính”. tức là thời gian được hình dung như một dòng chảy xuôi chiều, một đi không trở lại. vì vậy mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cho nên tâm trạng nhân vật trữ tình mới có thoáng nỗi buồn và nỗi hoài nghi.

Xuân Diệu quan niệm “thời gian tuyến tính” xuất phát từ cái nhìn động:

“Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già”

Con người thời trung đại hình như yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn với cái chu kỳ bốn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Xuân Diệu nhìn cuộc thế bằng con mắt xanh non biếc rờn nhưng cũng không tránh khỏi những hoài nghi, mất mát. Điều thi sĩ sợ nhất là tuổi xanh qua đi, tuổi già mau tới bởi thời gian là tuyến tính nên thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập trong hai câu thơ “Tới – qua”, “non – già” đã cho người đọc thấy được sự cảm nhận rất đỗi tinh tế của thi nhân về bước đi của thời gian. Thời gian như dòng chảy không ngừng nghỉ. Cái ta đang có cũng là cái ta đang mất, trong hiện tại đã có quá khứ và hé mở tương lai.

Xuân Diệu lấy sinh mệnh cá thể của mình làm thước đo thời gian. Tức là lấy quỹ thời gian hữu hạn của cuộc thế mình ( sinh mệnh cá thể ) ra để đo đếm thời gian trong vũ trụ. Thậm chí thi sĩ lấy quãng ngắn nhất, giàu ý nghĩa nhất trong sinh mệnh của con người là tuổi xanh để làm thước đo:

Mà xuân hết tức là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi xanh của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
nếu như tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời

Chữ “Xuân” được điệp đi điệp lại cả năm tới sáu lần (trong ba câu đầu đã có tới năm lần). “Xuân” ấy vừa là xuân của đất trời vừa là “xuân” của cuộc thế, của tuổi xanh. Mỗi lần nhắc lại là mỗi lần ta bắt gặp cái ngậm ngùi của thi nhân. Xuân của thiên nhiên thì còn mãi mà “xuân” của đời người đã “hết” thì “tôi cũng mất”. Dù lòng yêu có “rộng” tới bao nhiêu thì “lượng trời” vẫn cứ chật. Nên “tuổi xanh nhân gian” không thể “dài” thêm mãi. Ở đây, hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ (tới – qua, non –già, rộng – chật, xuân tuần hoàn, – tuổi xanh chẳng hai lần, còn – chẳng còn) để làm nổi trội tâm trạng nuối tiếc thời gian, cuộc thế. Vũ trụ có thể vĩnh viễn, mùa xuân rồi cũng tuần hoàn nhưng tuổi xuân của con người chỉ có một lần, đã qua là qua mãi. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
nếu như tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại !”

Thước đo thời gian của thi sĩ là tuổi xanh. tuổi xanh một đi không trở lại “chẳng hai lần thắm lại” thì làm chi có sự tuần hoàn ! Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người thật là ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem tới một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:

“Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Đọc hai câu thơ, ta cảm nghe rất rõ tiếng thở dài bất lực của thi nhân. Ta nghe rõ cả cái bâng khuâng, nuối tiếc của thi sĩ phả vào đất trời. nhường như trước mắt người đọc là cả một trời tiếc nuối. Tâm trạng ấy của Xuân Diệu ta cũng bắt gặp trong bài thơ “hối thúc”:

“Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến
nhan sắc xê động sắc đẹp tan tành
Vàng son đang lộng lẫy buổi chiều xanh
Vừa ngoảnh lại cả lầu chiều đã vỡ”

Phải chăng vì quá yêu mến tuổi xanh mà từ sự nuối tiếc ấy, thi nhân đã “thức nhọn giác quan” để sống “toàn tâm, toàn ý, sống toàn hồn” mà “say”, “thâu”, “hôn”, “cắn” cho kỳ hết những hương nồng của tuổi xanh?

Cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu là cảm nhận đầy tính mất mát. Mỗi khoảnh khắc trôi qua là một sự mất mát lớn lao. Sự tàn phai không chỉ tới “khắp sông núi” mà còn ở từng cá thể. Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kỳ này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”

Đây là hai câu thơ thể hiện rất rõ cách cảm nhận tinh vi về thời gian của Xuân Diệu. Cảm nhận ấy không chỉ bằng thị giác mà còn cảm nhận bằng cả khứu giác “mùi tháng năm”, cả vị giác “vị chia phôi”. Mỗi khoảnh khắc đang rời bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa. Khoảnh khắc nào cũng là một chia lìa, một mất mát. Và dòng thời gian được nhìn như một chuỗi vô tận của những mất mát, chia phôi. Cho nên, thời gian thấm đẫm hương vị của sự chia lìa. Dậy lên đó đây khắp không gian là lời than vãn tiễn biệt “khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”. Nó là lời thở than của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian, mà sâu xa hơn là mỗi sự vật thời gian đang ngậm ngùi tiễn biệt một phần đời của chính nó. Những phần đời của sinh mệnh cá thể đang ra đi không thể nào cưỡng lại, nó tạo nên sự trôi chảy không ngừng, tạo nên sự phôi pha, phai tàn của từng cá thể:

“Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?”

Gió đùa trong lá không phải là những âm thanh của thiên nhiên tươi vui của mùa xuân, mà là lời “thì thào” về nỗi hờn giận, buồn thương. Gió phải chia tay với cây lá mà bay đi; chim chóc trên cây đang ca hát rộn ràng chào xuân bỗng ngừng bặt, không phải có sự đe dọa nguy hiểm nào, mà chỉ vì chúng buồn tiếc cho mùa xuân sắp trôi qua. Thế là chẳng riêng gì Xuân Diệu mà cả vạn vật trong thiên nhiên cũng thức nhận về cái quy luật nghiệt ngã, cái một đi không bao giờ trở lại của thời gian ấy. Có phải vậy mà Xuân Diệu đưa ra một quyết định hợp lí cho mình và cho tất cả mọi người “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”.

“Chẳng bao giờ ôi! chẳng bao giờ nữa
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”

Thi sĩ bỗng thốt lên lời than. Tiếc nuối, lo lắng và chợt tỉnh vì “mùa chưa ngả chiều hôm”, tức là vẫn còn trẻ trung, chưa già. Lên đường! Phải vội vàng, phải líu tíu “Mau đi thôi”. Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi trội nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luýnh quýnh tiếc rẻ, bâng khuâng. Thế đó, không thể “buộc gió”, không thể “tắt nắng”, cũng không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có cách thực tế nhất là chạy đua với thời gian, là phải tranh thủ sống . Xưa kia, Nguyễn Trãi viết trong chùm “Thơ tiếc cảnh”:

“Xuân xanh chưa dễ hai phen lại
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên”.

Những vần thơ của Nguyễn Trãi giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong “Vội vàng” về màu thời gian, về sắc thời gian, về tuổi xanh. Cũng từ đó để hiểu thêm về lòng ham sống tới nhiệt cuồng của thi sĩ “mới nhất trong những thi sĩ mới”.

Cách cảm nhận về thời gian tương tự xét tới cùng là xuất phát từ ý thức sâu xa về trị giá của sự sống cá thể. Mỗi khoảnh khắc trong đời mỗi người đều vô cùng quý giá, chính vì một khi đã mất đi là vĩnh viễn mất đi! Quan niệm ấy khiến cho con người biết quý từng giây phút của đời mình. Và người ta biết làm cho mỗi khoảnh khắc của đời mình cần phải tràn đầy ý nghĩa. Có như thế mới là biết sống. Đây là cơ sở sâu xa của thái độ sống “Vội Vàng”.

Rõ ràng toàn bộ quan niệm, thái độ về “thời gian tuyến tính” phải sống “Vội Vàng” cho cuộc thế tuy ngắn ngủi nhưng tràn đầy ý nghĩa, đã thể hiện rất tích cực, rất đáng trân trọng của tư tưởng Xuân Diệu.

Sử dụng phép điệp ngữ, điệp cấu trúc; giọng điệu thơ sôi nổi nhưng không tạo được niềm vui vì không che giấu sự nuối tiếc, xót xa, hờn dỗi (nói làm chi, nếu như, tiếc…); Hệ thống từ ngữ, hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ. Tất cả đã tạo nên một đoạn thơ hay và giàu ý nghĩa mang đậm dấu ấn Xuân Diệu.

Tóm lại, đoạn thơ thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc thế của một thi sĩ vốn thèm khát sống, sống mãnh liệt hết mình. Qua đoạn thơ, người Xem thêm trân trọng quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực, xúc cảm thật tình của một tâm hồn nghệ sĩ luôn cháy bỏng niềm yêu cuộc sống. Nói như Giáo Sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống tới cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.

Phân tích khổ 2 Vội vàng – Mẫu 3

Xuân Diệu thi sĩ mới nhất trong những thi sĩ Mới, cái mới của Xuân Diệu có nhẽ không chỉ tới từ xúc cảm, mà còn tới từ những quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ. nếu như ở khổ thơ trước hết là những quan niệm cải cách về cuộc sống thì tới khổ thơ thứ hai này là cách nhìn thời gian đầy mới mẻ, hiện đại của cái tôi thơ Mới.

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời”.

Chậm lại một tẹo, ta sẽ nhìn thấy nét mới trong ý thơ của Xuân Diệu. nếu như như người xưa quan niệm, thời gian tuần hoàn, cứ lặp lại trong vòng chảy vô tận của tạo hóa, vậy nên họ luôn cảm thấy an nhiên, tự tại “nhất nhật thanh nhàn nhất nhật tâm” thì tới Xuân Diệu, thời gian mới trở thành một nỗi sợ hãi. Ông quan niệm thời gian tuyến tính, một đi không trở lại, vậy nên nhìn thấy xuân đương tới trên vạn vật muôn nơi, đang xem sắc xuân phủ lên vạn vật một màu xanh non tràn trề sức sống thì cũng thấy ngay trong nhịp bước của thời gian, trong cả nhịp bước ngỡ ngàng của nàng xuân, rằng nàng vừa hiện hữu mà cũng sẽ nhanh chóng biến mất khỏi đất trời. Mùa xuân là mùa nảy nở, của sinh sôi và sáng tạo nghệ thuật. Mùa xuân là tuổi xanh của đất trời, còn mùa xuân của đời người là tuổi xanh. Vậy nên mùa xuân hết, tức là khi tuổi xanh qua đi trên màu sương mái tóc con người, cũng là lúc cái tôi thi nhân ngập tràn lo lắng, và chán nản. Lòng thi nhân tha thiết với xuân hứng, xuân tình, xuân nảy nở trong tâm hồn con người, và bất diệt trên từng nụ cười ánh mắt, nhưng tiếc thay lượng trời cứ chật, “không cho dài thời trẻ của nhân gian”. Chính vì vậy sự luân hồi vẫn tuần hoàn chảy trôi, nhưng tôi của mỗi phút mỗi giây đã đổi khác rồi, chẳng còn tôi mãi, nên “bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”. Đó là nỗi tiếng nuối của một thi sĩ tha thiết với tuổi xanh và mùa xuân, tha thiết với tình yêu và sự sống. Nhưng nổi trội nhất, trong những câu thơ trên vẫn là quan niệm thời gian hết sức mới mẻ, hiện đại của cái tôi thơ Mới.

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”

Mùa xuân của đất trời có thể còn mãi, tuần hoàn trong nhịp chảy trôi của vĩnh hằng nhưng mùa xuân của đời người, tuổi xanh ấy chẳng hai lần thắm lại.Vậy nên tưởng như nỗi buồn của thi nhân cũng đã thấm thía vào từng chảy vật, để cảnh vật cũng chở nặng một điệu buồn, hay là bởi chính những cảnh vật kia cũng thấy cái chảy trôi của thời gian mà nén một tiếng thở dài buồn rượi. Ở khổ thơ này, Xuân Diệu thực sự sử dụng rất đắt thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà thi sĩ tiếp thu được từ phương Tây. Mùi tháng năm là hương vị vô hình, nhưng trong câu thư lại có thể cảm nhận được dư vị của nó, ấy thế nhưng cái dư vị ấy là lại là dư vị được cảm nhận từ trái tim chứ không phải dư vị có thể sử dụng ngũ giác quan để cảm thử. Nỗi buồn bỏ vào mênh mang những lặng câm của không gian, nên nghe thấy cả sông núi than thầm tiễn biệt, con gió xinh reo vui trên những cành cây ngày nào, giờ thì thào trong tiếc nuối vì nỗi phải lìa cành, để trở về với đất mẹ. Tất cả đều cho thấy nỗi sợ về sự chảy trôi không ngừng nghỉ của thời gian. Nó đánh tung vào trong cả lòng người và trong tâm hồn muôn vật những khoảng trống vô tận của nỗi buồn và dư vị tiếc nuối.

Khổ thơ hai trong Vội vàng đã thể hiện một quan niệm vô cùng mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian, nó đồng thời cũng là bản lề để mở ra những lời hối thúc sống, tận hưởng và cống hiến cho đoạn thơ kế tiếp.

Phân tích khổ 2 Vội vàng – Mẫu 4

Xuân Diệu là một thi sĩ Mới xuất sắc và đạt nhiều thành tựu của văn học Việt Nam. Một trong những bài thơ hay nhất của ông là bài thơ “Vội vàng” trích trong tập “Thơ thơ”. Thi phẩm mang tới cho đọc giả một bức tranh mùa xuân tươi mới và những giác quan nhân sinh đầy mới mẻ. Đoạn 2 của bài thơ là đoạn văn thể hiện sâu sắc nhất về triết lý thời gian và cuộc thế.

“Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già
Mà xuân hết tức là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”

nếu như như ở khổ thơ đầu, thi sĩ đã dựng lên bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với ong bướm, hoa cỏ, đồng nội, yến oanh, cùng với đó là tình yêu tới cháy bỏng của người thi sĩ thì tới khổ thơ thứ hai, Xuân Diệu lại thể hiện sự khắc khoải trước những bước đi của thời gian. nhường như, sâu thẳm trong tâm hồn người thi nhân ấy ý thức rất rõ sự chảy trôi tới mức vô tình của thời gian. Trước một mùa xuân với sắc hương rực rỡ quyến rũ mê hoặc ấy, tác giả cũng tận hưởng, cùng thưởng thức đó thôi nhưng lòng vẫn lo sợ. Lỡ sợ rằng “xuân đương tới” rồi xuân cũng sẽ “đương qua”, xuân còn non không tức là xuân sẽ không già, bởi mỗi phút giây quá đi là đời người lại thêm ngắn lại. Thời gian không thể níu giữ được mùa xuân, được tuổi xanh, được thanh xuân, được đời người. Thời gian, tuổi xanh, chả bao giờ có thể quay lại, bởi vậy mà tứng giấy đều phải trân trọng, phải vội vàng sống kẻo lỡ những thành xuân cuộc thế. Sự phối phối hợp những động, tính từ trái nghĩa “tới” – “qua”; ” già”- “non”, đã cho thấy giác quan của thi nhân trước thời gian đầy tinh tế. Mỗi ngày, mỗi tháng năm qua đi tháng năm qua đi đời người thêm phần ngắn lại, trong khi ta không còn cảm nhận được mùa xuân nữa tức là đời người không còn, sinh thể vĩnh viễn xa rời cuộc thế. Dù biết lòng người thì rộng, còn bao khát khao, bao hoài bão và những ước mơ đó nhưng biết làm sao được khi thời gian càng rút ngắn, khi lượng trời hữu hạn, tuổi xanh nhân gian đâu có chịu dài. Cảm nhận được sự vội vã ấy, thi sĩ càng bất an, càng thảng thốt, nghẹn ngào:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
nếu như tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Đất trời rộng lớn, vũ trụ bát ngát, con người nhỏ bé, đời người hữu hạn. Phải chấp nhận sự thực dẫu biết rằng mùa xuân tuần hoàn đó thôi nhưng tuổi xanh đâu có tuần hoàn, đâu thể thắm lại những lần như thuở còn sung sức, còn dồi dào nhiệt huyết. Thế nên nỗi tiếc nuối, bâng khuâng rợn ngợp cả đất trời. Mùi chia ly cũng bao trùm lấy cả sự vô tận của thời gian, khoảng không cách biệt của không gian:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.”

Một lẽ thường của tạo hoá, một quy luật trần thế vạn vật đều không tránh khỏi. Vị thời gian rớm màu chia phôi, núi sông than thầm lời tiễn biệt, những cơn gió xuân vốn dạt dào tới thế cũng thều thào trong tiếng nghẹn. Tiếng vàng anh ru khúc nhạc tình cũng đành ngừng lại. có nhẽ chúng đều sợ thời gian, sợ những chia lìa, nước mắt, sợ những phai tàn, héo úa.

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”

tới cuối cùng, chẳng bao giờ có thể làm được những điều mình ước muốn nếu như cứ mãi đợi chờ, mãi hy vọng. Tiếng “ôi” thật nhẹ nhõm mà cũng thật tha thiết, vừa như hối tiếc lại vừa như thúc giục mọi người hãy hành động, hành động ngay bây giờ:

“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm”

Hãy nhanh nhanh chạy đua với vũ trụ, với thời gian nhân lúc “mùa chưa ngả chiều hôm”, nhân lúc màu lá phải chưa ngả, mùa chia ly chưa tới. Câu cầu khiến “Mau đi thôi” như một lời thức tỉnh những người nào đang u mê ngập chìm trong sự chậm chạp, trễ tràng và thơ ơ hãy sống nhanh, sống vội và sống có trách nhiệm. Đừng bỏ lỡ thành xuân bởi những tháng năm sống phí, sống hoài.

Đoạn thơ không quá dài nhưng đã gửi gắm biết bao nhiêu những ân tình của người viết, tác giả đã mang tới cho độc giả, đặc biệt là những người trẻ tuổi một giác quan mới mẻ về lẽ sống để học tập. Thơ Xuân Diệu phải chăng chính là “tiếng nói của một tâm hồn yêu đời” như thế. Đọc đoạn thơ, em thấy mình cần phải gắng sức mỗi ngày, tận dụng thời gian để sống, học tập và làm việc có ý nghĩa hơn nữa để sống một tuổi xanh thật đẹp, thật trọn vẹn.

Xuân Diệu được mệnh danh là thi sĩ của mùa xuân và tình yêu, ông mang trong mình tình yêu cháy bỏng với cuộc sống, với thiên nhiên, cũng bởi vì quá yêu cuộc sống mà thi sĩ nhạy cảm, sợ hãi hơn với những bước đi của thời gian.

Phân tích khổ 2 Vội vàng – Mẫu 5

Nền văn học Việt Nam với điểm nhấn của trào lưu Thơ Mới luôn để lại dấu ấn với nhiều tuyệt tác đặc biệt. Trong số những đóng góp của những thi sĩ thì Xuân Diệu được xem là một cây đại thụ lão làng với bao tập thơ về tình yêu khiến độc giả say đắm, mê mẫn. Vội vàng là tác phẩm tiêu biểu viết về nét đẹp nhân sinh, quan niệm sống tích cực từ thi nhân. Ta sẽ thấy rõ nét hơn về điều này ngay khi tới với khổ thứ hai của bài thơ.

nếu như như ở khổ thơ thứ nhất thi sĩ vì yêu cái đẹp của thiên nhiên mà muốn đoạt quyền tạo hóa “tắt nắng”, “buộc gió” thì quan niệm vô cùng tích cực của thi nhân, sự lí giải đầy sâu sắc được trình bày ở khổ thơ thứ hai. Mở đầu cho khổ thứ hai của bài là hai câu thơ đọc vào như khiến ta vỡ lẽ khi thời gian cứ ngày một trôi qua nhanh chóng bởi cách ngắt nhịp 3/5.

“Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già”

Người ta như chìm đắm vào trong từng vần thơ bởi cách tả vô cùng tinh tế, táo tợn khi đọc thơ của Xuân Diệu. Sự trôi nhanh vội vã của thời gian để rồi tiếc nuối, lo sợ được thi sĩ phát hiện. “Đương tới” – “đương qua”, “còn non – sẽ già” là lúc thi sĩ gọi tên những trạng thái đối lập của thời gian. Trở về với những vần thơ trung đại thì sẽ thấy thời gian qua cách kể của những thi nhân xưa nhìn thấy sự nhỏ bé, chóng qua của thời gian nhưng người đọc sẽ hiếm hoi nhận thấy được lời than vãn, đau buồn trong những câu thơ này. Tuy nhiên trong Thơ Mới cái nhìn có sự thay đổi hơn, trước sự ngắn ngủi của đời người, không còn là vô tận mà tuyến tính con người tỏ ra hoảng sợ, ý thức rõ ràng về điều này. Minh chứng trong câu thơ của Mãn Giác Thiền trong Cáo tật thị chúng:

“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đào bách hoa khai”

Trước không gian mênh mông, con người nhường như thu mình lại khi thời gian chảy trôi nhanh, thấy bản thân trở nên bé nhỏ. Mùa xuân ngày hôm nay đẹp lung linh nhưng rồi mai kia nó cũng tới lúc phai tàn, già cỗi đồng hành thời gian là điều không người nào níu giữ lại được.

“Thời gian qua kẽ tay
Làm khô những chiếc lá
Kỷ niệm trong tôi
Rơi như tiếng sỏi trong lòng giếng cạn”

Khi xuân đi qua thì tuổi xuân của con người cũng trôi theo trong tiếc nuối. Ở đây thi sĩ cảm thấy chẳng còn gì, không thể níu kéo mọi thứ khi thời gian rồi cũng mai một tất cả, kể cả tuổi thanh xuân:

“Mà xuân hết tức là tôi cũng mất

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”

thi sĩ muốn nhấn mạnh về tầm quan trọng của mùa xuân, tuổi xanh rồi sẽ chảy trôi cùng thời gian thấy được qua danh từ “xuân” gợi nhắc đi lại nhiều trong đoạn thơ, . Khi tuổi xanh đi qua thì “tôi” rồi cũng trở nên vô nghĩa, trống rỗng, bởi lúc này tình yêu đã không còn. “Lòng tôi” và “lượng trời” là sự tương phản của hai thế cực bật lên sự hữu hạn, vô hạn giữa đời người và đất trời. Từ đó để thấy rằng vòng xoáy của thời gian tiếp nối trong sự vận động không ngừng của thời gian thì vạn vật, con người rồi sẽ phải thay đổi. Sinh lão bệnh tử là lẽ thường tình, là vòng tròn tuần hoàn lặp lại không ngừng. Niềm tiếc nuối của tác giả trước sự chảy trôi của thời gian tuyến tính một đi không trở lại được thấy rõ hơn trong lời thơ. Bước đi của mùa xuân cũng là bước đi của thời gian, của đời người. Nhìn mọi thứ đều nhuốm màu của lo lắng, hốt hoảng nên thi sĩ muốn níu giữ tuổi xanh. do vậy mà ta nhận thấy có sự thay đổi, có sự đa dạng trong cách diễn đạt từ câu khái niệm, khẳng định về mùa xuân và tuổi xanh, tinh tế một tẹo sẽ thấy được đó là lời cảm nhận về sự có mặt, hiện hữu rồi tàn phải của tuổi xuân, tiếng than đầy nuối tiếc từ đó lại chứa lên da diết. Tuy nhiên ở đây có một điều rất hay khi tinh tế nhận thấy trong lời thơ của Xuân Diệu đó là tuổi xuân, tuổi xanh trôi qua ông không nuối tiếc bằng việc không thể được tận hưởng mọi hương sắc của đất trời.

Vài dòng thơ ngắn ngủi nhưng đầy triết lý đã cho thấy một tâm hồn thơ lãng mạn, cá tính của Xuân Diệu. Vội vàng là tác phẩm tuyệt đỉnh đi theo cùng năm tháng.

Phân tích Vội vàng khổ 2 – Mẫu 6

Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chố nước non lặng lẽ này.”. Nhắc tới Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong cách của ông – Vội vàng. Được rút ta từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời gian và lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội vàng.

Tại sao Xuân Diệu lại vội vàng tiếc nuối mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm. Có lẽ vì thi sĩ có quan niệm rất mới về thời gian:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên Xuân Diệu luôn hốt hoảng lo lắng khi thời gian trôi mau. Thi sĩ không chỉ tiếc mùa, tháng, ngày mà tiếc từng khoảng khắc, từng phút giây. Ở một bài thơ khác, nhà thơ cũng từng nói:

Tôi từ phút ấy trôi qua phút này

Diều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào.

Để tăng sức thuyết phục mọi người tin vào chân lí: mùa xuân tuổi trẻ là tuyến tính, Xuân Diệu đã chủ động đối xoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là mùa xuân vẫn tuần hoàn:

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Với Xuân Diệu, tuổi trẻ không thắm lại nên cũng không thể nói mùa xuân là tuần hoàn. Thế là Xuân Diệu tiếc mùa xuân mà thực chất là tiếc tuổi trẻ. Và đó là nguyên cớ xâu xa khiến thi sĩ vội vàng một nửa khi xuân mới bắt đầu:

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuân tôi tiếc cả đất trời

Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con ngừoi bống trở nên quá ngắn ngủi, phong thanh chỉ như bóng câu qua cửa sổ, như cái chớp mà thôi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Việt

“Với quan niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới mức có thể nghe thấu cả sự mơ hầu” (Thế Lữ), Xuân Diệu cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.

Thời gian thì rớm vị chia phôi, khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa . Vậy là vạn vật không thể cưỡng lại quy luật tàn phai nghiệt ngã của tạo hóa. Chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương giao trong tượng trưng Phá, Xuân Diệu chẳng những đã đem đến những cảm nhận tinh tế rất mới, rất Tây, rất hiện đại về thời gian:

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.

Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi. Thơ trung đại, kể cả thơ mới cũng hiếm có câu thơ nào có cách cảm nhận như vậy.

Khép lại phần thơ thứ nhất – phần lí giải vì sao phải sống vội vàng là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt còn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Không thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội vàng, hãy chạy đua cùng thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.” Lời giục giã hối thúc mang sắc điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu chấm cảm giữa dòng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm” rẩt điển hình, tiêu biêu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước cách mạng tháng 8. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần sống mau, sống vội:

Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi
– Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn
– Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ
Em, em ơi tình non sắp già rồi!

Xem Thêm : Đây thôn Vĩ Dạ – Tác giả: Hàn Mặc Tử

“Mùa chưa ngả chiều hôm” là một cách kết hợp từ mới lạ, thú vị. Xuân Diệu đã dùng từ chỉ thời gian cuối ngày để chỉ thời điểm cuối mùa. “Mùa chưa ngả chiều hôm” là mùa chưa tàn, chưa úa, vì thế hãy vội vàng mau chóng tận hưởng hương sắc của nó.

Có thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy là nhờ vào “sự ý thức sâu xa về sự sống của cá thể”. Quan niệm mới mẻ ấy của Xuân Diệu đã khiến cho ta phải trâng trọng từng phút giây của cuộc đời, tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn và đầy ý nghĩa. Quan đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy bỏng của ông Hoàng thơ tình Việt nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng quan niệm nhân sinh, tích cực, tiến bộ. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống tới cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền thống”.

Phân tích Vội vàng khổ 2 – Mẫu 7

Thơ Xuân Diệu tinh tế, gợi cảm, độc đáo trong chất liệu cũng như trong văn pháp thi ca. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn và phong cách của ông: Vội vàng. Bài thơ vừa như một nguồn xúc cảm trào dâng vừa là tuyên ngôn sống của một thi sĩ thèm khát yêu đời. Đặc biệt, nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang phần thơ thứ hai, nhà thơ đã thể hiện quan niệm nhân sinh mới mẻ về thời gian và tuổi xanh.

Thời gian trong thơ ca trung đại là thời gian “tuần hoàn” tức là thời gian được hình dung như 1 vòng tròn liên tục tái diễn, hết 1 vòng lại quay về vị trí xuất phát, cứ trở đi rồi trở lại mãi mãi. Quan niệm này xuất phát từ cái nhìn “tĩnh”, lấy cả sinh mệnh vũ trụ để làm thước đo cho thời gian. Còn đối với Xuân Diệu, ông có quan niệm rất mới về thời gian:

Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất.

Nếu người xưa luôn yên tâm bình thản trước sự trôi chảy của thời gian bởi họ quan niệm thời gian là tuần hoàn thì Xuân Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ một đi không trở lại. Thế nên ông luôn hốt hoảng lo lắng khi thời gian trôi mau. Điều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới – qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên không gì phủ nhận: Dù xuân đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi, nghẹn ngào:

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
nếu như tới nữa không phải rằng gặp lại.
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

“Lòng tôi” và “lượng trời” vốn đã là hai thế cực tương phản của sự hạn hữu và vô hạn. Tuy nhiên trong góc nhìn của Xuân Diệu thì cái vốn hữu hạn như đời người lại được mở rộng tới vô cùng “lòng tôi rộng” còn thứ vốn tưởng chừng vô hạn trong thời gian của đất trời lại trở nên nhỏ bé “lượng trời cứ chật”. Một loạt hình ảnh được đặt trong thế tương phản đối lập cao độ “rộng” – “chật”, “xuân tuần hoàn” – “tuổi xanh chẳng hai lần”, “còn” – “chẳng còn”. Điều đó đã góp phần làm nổi trội tâm trạng tiếc nuối trước thời gian, cuộc thế.

Sự hạn hữu của đời người với thời gian được thể hiện rõ nét nhất ở dòng thơ “Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi”. Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi. Nhưng ở đây, Xuân Diệu không tiếc cho mình, tiếc cho tuổi xanh mà điều ông tiếc nhất chính “cả đất trời”.

Suy ngẫm về điều đó, Xuân Diệu càng cảm nhận thấm thía sự phôi pha, phai tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.

Thời gian vốn vô hình, vô ảnh, không mùi, không vị, đi vào thơ Xuân Diệu bỗng có mùi, có vị chia phôi, nhường như khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li, lời than thầm tiễn biệt. Tựa như ta nghe thấy có chút gì xao xuyến rưng rưng vừa uất ức nghẹn ngào vừa tiếc nuối hụt hẫng trong từ “rớm” ấy.

Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống động của thiên nhiên mà vì hờn tủi trước sự trôi chảy của thời gian. Chim hót những bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả, mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật cứ thế chảy trôi theo quy luật vận hành tự nhiên của nó mà không sao cưỡng lại được.

Khép lại phần thơ là dòng thơ tràn ngập cảm xúc:

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…

Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ mùa xuân ở lại. Phép điệp “chẳng bao giờ” được lặp lại hai lần càng nhấn mạng thêm tâm trạng sững sờ tiếc nuối ấy. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. Chỉ còn lại nỗi bàng hoàng, thảng thốt mà càng trở nên da diết hơn với dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Và trong sự bất lực, Xuân Diệu nhường như tìm ra một cách khắc phục.

“Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều hôm”

Lời thơ như một lời hối thúc, thúc giục con người hãy đứng lên đừng buồn vì sự chia ly sẽ tới mà quên lãng đi thực tế. “Mau đi thôi”, mau quyết tâm trân trọng lấy từng phút giây hiện tại để tận hưởng bữa tiệc tươi vui mà thiên nhiên mùa xuân đã bày sẵn trước mắt ta.

Chỉ với 16 câu thơ nhưng nhường như Xuân Diệu đã cho ta thấy một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi xanh của tác giả. Ta cũng nhìn thấy mặc dù Xuân Diệu thể hiện tâm trạng nuối tiếc thời gian và cuộc thế nhưng từ đó ta còn bắt gặp một khát khao mạnh mẽ, một tình yêu say đắm mà ông dành cho đời.

Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 8

Xuân Diệu thi sĩ nổi tiếng trong phong trào thơ mới, thơ của ông thể hiện tình cảm thèm muốn thưởng thức trọn vẹn tuổi xanh, trân trọng khoảng thời gian quý báu của tuổi xanh chỉ tới một lần trong đời. Bài thơ Vội vàng thể hiện tình yêu thiên nhiên mãnh liệt, dạt dào của tác giả, khát vọng sống nhanh nhưng có ý nghĩa.

Ngay từ nhan đề bài thơ đã thể hiện rõ tư tưởng của tác giả, “vội vàng” trước dòng chảy của thời gian. Ông sống gấp rút và muốn ôm gọn vẻ đẹp thiên nhiên vào lòng, thực hiện những điều phi lí như tắt nắng, buộc gió chỉ để níu kéo vẻ đẹp của thiên nhiên ở lại. Thời gian trôi là dòng chảy không ngừng, không có người nào tắm hai lần trong cùng một dòng sông, thời gian tuổi xanh trôi qua là quy luật của cuộc sống. Khổ thơ trước hết đã thể hiện khát vọng sống mãnh liệt, sống vội vàng để tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp từ thiên nhiên.

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si”

Khổ thơ thứ hai tác giả đã phô bày những vẻ đẹp tuyệt vời nhất của thiên nhiên đó là “ong bướm”, “yến oanh” hình ảnh ong bướm trong tuần tháng mật đó là quãng thời gian tươi đẹp nhất, “yến oanh” gắn bó với nhau không xa rời, đó chính là tình yêu lứa đôi ngọt ngào, hạnh phúc. Tác giả cảm nhận thiên nhiên đang trong giai đoạn tràn đầy sức sống, tươi đẹp nhất.

nếu như như khổ thơ đầu tác giả muốn thưởng thức trọn vẹn vẻ đẹp thiên nhiên nên phải sống nhanh, vội vã thì trong khổ thơ hai của bài thơ đã lý giải vì sao ông có suy nghĩ tương tự.

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”

Mùa xuân của đất trời cứ tuần hoàn, còn đời người ngắn ngủi, cuộc thế của con người không cho phép ta sống mãi để thưởng thức mùa xuân. Vậy nên cũng dễ hiểu khi Xuân Diệu lo lắng khi thời gian trôi đi, trong thơ của ông mọi vật khởi đầu có sự tàn phai theo thời gian.

“Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa”

Thời gian chia phôi, thiên nhiên cũng tương tự, cơn gió hờn dỗi vì phải rời xa lá biếc, chim không còn hót véo von rộn ràng mà trở nên im bặt. Tất cả đều không thể chống lại quy luật của tạo hóa, thời gian trôi mọi vật phải tàn phai. Đó đều là những cảm nhận riêng tinh tế, mới mẻ về thời gian của tác giả.

Sau khi hiểu ra rằng con người không thể tắt nắng, buộc gió níu giữ thiên nhiên ở lại, thi sĩ đã hối thúc mọi người phải sống vội vàng, khẩn trương: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm. Đó là lời kêu gọi mạnh mẽ của Xuân Diệu hãy sống hết mình ham mê cháy bỏng cho từng phút giây của cuộc sống.

Thời gian cứ lặng lẽ trôi, con người hữu hạn trong vòng tuần hoàn vô hạn của cuộc sống, thi sĩ muốn nhắn nhủ tới mọi người hãy sống vội vàng, ham mê cháy bỏng, sống hết mình để tận hưởng cuộc thế này thật trọn vẹn và ý nghĩa.

Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2 – Mẫu 9

Thơ Mới là thời kì phóng thích cái tôi, để quan niệm phi ngã trong văn học trung đại không còn là chiếc cũi giam chật hẹp gò ép người nghệ sĩ, ở thời kì này người nghệ sĩ như cánh chim được tự do tung bay, tháo túi sổ lồng. trong số ấy thì Xuân Diệu với bộ ý phục tối tân của mình đã trở thành đại biểu tiêu biểu nhất, là thi sĩ Mới nhất trong những thi sĩ Mới. Và “Vội Vàng” chính là một trong những bài thơ đặc sắc nhất về phong cách nghệ thuật của Xuân Diệu, một hồn thơ thiết tha rộn rực băn khoăn như Hoài Thanh đã nhận xét. Đặc biệt khổ thơ thứ hai từ “của ong bướm…hoài xuân” đã bộc lộ những quan niệm thẩm mĩ và nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu về cuộc thế.

nếu như ở khổ thơ thứ nhất, Xuân Diệu ước ao thâu nhận, tắt nắng, buộc gió, muốn đoạt quyền năng tối thượng của tạo họa thì tới khổ thơ thứ hai này, thi sĩ đã lí giải cho người đọc lí do vì sao ông tiếc nuối khi muốn tắt nắng, buộc gió:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi sắp
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Bức tranh thiên nhiên, cảnh vật mùa xuân thật tươi đẹp, ngọt ngào xuân sắc, rộn rực xuân tình. Bức tranh mùa xuân hiện lên trong sáng, tràn đầy sức sống, thanh tân, trẻ trung, ngập tràn ánh sáng niềm vui, có sắc màu sức sống mơn mởn, non tơ thanh khiết của những hoa đồng nội xanh rì, của cành tơ phơ phất. không chỉ vậy, âm thanh trong bức tranh thiên nhiên đang xuân ấy còn rộn ràng, ríu rít trong tiếng chim hót vui tươi. Ngọt ngào trong vị ngọt của “ong bướm này đây tuần tháng mật”, ngát hương của mây trời, cỏ cây hoa lá. Tất cả những nét vẽ của Xuân Diệu đã tạo nên vườn xuân đắm say, quyến rũ được nhìn bằng cặp mắt xanh non và rờn biếc của chàng trẻ trai như lần trước hết tới toàn cầu này. Và đây mới chính là cái tôi Xuân Diệu, một cái tôi tha thiết, rộn rực ân ái, rộn rực những yêu thương mãnh liệt, mật ngọt của tình yêu tuổi xanh, vậy nên chỉ có Xuân Diệu mới có những so sánh đặc sắc và đầy tính nhục thể tương tự:

“Tháng Giêng ngon như một cặp môi sắp.
Này đây ánh sáng chớp hàng mi.”

nếu như trước đây trong thơ ca trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì tới thơ Mới Xuân Diệu một lần nữa minh chứng cho ta thấy điều trái lại, thiên nhiên, cảnh vật cũng được so sánh với con người, những dáng vẻ và những nét đẹp của con người “hàng mi”, rồi những so sánh rất gợi tính nhục thể “cặp môi sắp” rất gợi cảm giác của tình yêu. vì vậy, bức tranh xuân không chỉ có hương thơm và màu sắc mà còn chất đầy bầu máu yêu thương khát khao của Xuân Diệu, ngập tràn xuân sắc, rộn rực xuân tình, cái đẹp của cuộc thế được hình tượng qua tuổi xanh và tình yêu.

Để qua đó thi sĩ bộc lộ những quan niệm mới mẻ của về cái đẹp: cái đẹp phải thấm hương đượm sắc, ngọt trong vị, đậm trong hương. Nét mới của cái tôi thơ Mới chính là ở đó. Quay trở lại một chặng đường dài thơ ca về trước, thì ta thấy rằng những thi sĩ trung đại thường quan niệm cuộc thế như một cuộc bể dâu, một giấc mộng kê thôi hay “Trải qua bao cuộc bể dâu- Những điều trông thấy mà đớn đau lòng”, đó chính cuộc thế là cuộc bể dâu. Còn cũng cùng là trong thời kì thơ Mới, nếu như Thế Lữ tìm cái đẹp ở trên thiên thai với “Tiếng sáo thiên thai” nếu như như Huy Cận tìm tới với cái đẹp ở xa trong không gian, cái đẹp của cổ điển; Chế Lan Viên tìm cái đẹp ở xưa trong thời gian mà giờ chỉ còn là một đống điêu tàn đổ nát thì Xuân Diệu-chàng thi sĩ của xuân và tình của chúng ta, lại tìm cái đẹp ở ngay mảnh đất hiện tại này, ngay trần gian tươi đẹp, ngập tràn xuân sắc, rộn rực xuân tình, cái đẹp thắm hương, đượm sắc. tương tự, “với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi một giấc mộng rất xưa, giấc mộng lên tiên thì Xuân Diệu đốt cảnh bồng lai và xua người nào nấy về hạ giới”. Với khổ hai này, “Xuân Diệu đã xây lầu thơ trên đất của một tấm lòng trần” ân ái, đa tình vậy nên ông mới khám phá ra được một thiên đường của vườn đời-vườn xuân ngay giữa thực tế này đó ư?

Nhưng một khổ thơ hay, không ngoại lệ, cái để làm quen là nhan sắc”phương thức nghệ thuật”. với bộ y phục tối tân của mình, Xuân Diệu đã làm mãn nhãn người đọc. Thể thơ tự do đan xen những câu văn dài khá sung sức như chính tấm lòng nồng nàn yêu đời mãnh liệt của Xuân Diệu. Cách điệp cấu trúc “Này đây…của…” cũng chính là sự khẳng định nồng nhiệt và hăng say vẻ đẹp của mùa xuân trên mảnh đất thực tế, hay chính là muốn đề cao quyền riêng tư tính cá thể hóa cao độ, rất đúng với thời kì cái tôi được phóng thích trong thơ mới. tiếng nói giàu sức gợi, những từ láy đầy sức biểu cảm đã góp phần làm nên thành công của đoạn thơ. Những hình ảnh thơ trẻ trung, tươi mới, táo tợn “ong bướm, tuần tháng mật, hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si, thần Vui” đã góp phần cho thấy lòng yêu đời và ham sống xốc nổi của Xuân Diệu.

Với tấm lòng yêu đời, yêu sống mãnh liệt Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, ngọt ngào, quyến rũ và thanh tân trẻ trung bởi cặp mắt “xanh non và rờn biếc”. Đồng thời thấy được tài năng của thi sĩ với bộ y phục tối tân của mình đã làm say đắm tâm hồn bao trái tim độc giả về màu xuân, về tình yêu.

Phân tích đoạn 2 bài Vội vàng – Mẫu 10

Có thể đưa ra nhận xét đó chính là thơ Mới là thời kì phóng thích cái tôi, để quan niệm phi ngã ở trong văn học trung đại không còn là chiếc cũi giam bó hẹp người nghệ sĩ. Trong văn học thời kỳ này thì có rất nhiều nghệ sĩ đã dang đôi cánh thể hiện trí tưởng tượng của mình. Một trong số thi sĩ đó thì Xuân Diệu với bộ ý phục tối tân của mình nhường như cũng đã lại trở thành đại biểu tiêu biểu nhất và ông được mệnh danh là thi sĩ Mới nhất trong những thi sĩ Mới. Trong những sáng tác của ông không thể thiếu được cái tên Vội Vàng. Trong bài thơ thì đặc sắc nhất chính là khổ thơ thứ hai vì thông qua khổ thơ này cũng đã thể hiện được quan niệm nhân sinh quan mới mẻ của Xuân Diệu.

nếu như như người đọc nhận thấy được ở khổ thơ thứ nhất, Xuân Diệu ước ao thâu nhận, tắt nắng, buộc gió và có những ước muốn đoạt quyền năng tối thượng của tạo hóa. Cho tới khổ thơ thứ hai này thì thi sĩ Xuân Diệu cũng đã lí giải cho người đọc lí do vì sao ông cứ mãi tiếc nuối khi muốn tắt nắng, buộc gió lại

Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến oanh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng Giêng ngon như một cặp môi sắp
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Thông qua đoạn thơ ta nhận thấy được bức tranh thiên nhiên, cảnh vật mùa xuân thật tươi đẹp, ngọt ngào xuân sắc, rộn rực xuân tình. Hình ảnh của bức tranh mùa xuân hiện lên trong sáng, tràn đầy sức sống luôn luôn trẻ trung, ngập tràn ánh sáng niềm vui. Một bức tranh không chỉ có sắc màu sức sống mơn mởn, non tơ thanh khiết mà còn có ánh sáng và âm thanh rộn tiếng ca vang của chim chóc. Trong chính cái vị ngọt ngào trong vị ngọt của ong bướm thì tất cả nhường như cũng vô cùng ngát hương của mây trời, cỏ cây hoa lá. Chúng ta có thể nhận thấy được có cả những nét vẽ của Xuân Diệu nhường như cũng đã tạo nên vườn xuân đắm say, để như quyến rũ được nhìn bằng cặp mắt xanh non và rờn biếc của chàng trẻ trai đang lạc bước vì lần trước hết tới toàn cầu này. Thông qua đây ta nhận thấy được đây cũng mới chính là cái tôi Xuân Diệu. Cái tôi Xuân Diệu cũng là một cái tôi tha thiết, rộn rực ân ái, tất cả nhường như thật rộn rực những yêu thương mãnh liệt. Thêm vào đó là mật ngọt của tình yêu tuổi xanh, cũng vì vậy mà chỉ có Xuân Diệu mới có những so sánh đặc sắc và đầy tính nhục thể tương tự mà thôi. Hình ảnh được so sánh vô cùng hấp dẫn:

Tháng Giêng ngon như một cặp môi sắp.
Này đây ánh sáng chớp hàng mi

nếu như như chúng ta nhận thấy được trước đây trong thơ ca trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp của con người thì tới bài thơ Mới Xuân Diệu một lần nữa minh chứng cho chúng ta nhận thấy điều trái lại, thiên nhiên hay cảnh vật cũng được so sánh với con người. Điều này cũng lại được thể hiện có những dáng vẻ và những nét đẹp của con người đó là “hàng mi”. không những thế còn có những so sánh rất gợi tính nhục thể mà Xuân Diệu sử dụng đó là “cặp môi sắp” tất cả nhường như cũng rất gợi cảm giác của tình yêu. có nhẽ chính vì vậy mà bức tranh xuân không chỉ có hương thơm và mang được màu sắc mà còn chất đầy bầu máu yêu thương khát khao của Xuân Diệu. Tất cả như cũng lại ngập tràn xuân sắc, rộn rực xuân tình, có thể nhận thấy được chính cái đẹp của cuộc thế được hình tượng qua tuổi xanh và tình yêu.

Với khổ thơ thứ hai này thì thi sĩ bộc lộ những quan niệm mới mẻ của về cái đẹp: cái đẹp phải thấm hương đượm sắc, mang được biết bao những ngọt trong vị, đậm trong hương. Quả thực chính với những nét mới của cái tôi thơ Mới chính là ở đó. Khi ta quay trở lại một chặng đường dài thơ ca về trước, thì ta nhận thấy được rằng những thi sĩ trung đại thường quan niệm về cuộc thế như một cuộc bể dâu, đó là một giấc mộng. Quả thực đó cũng chính cuộc thế là cuộc bể dâu. Và còn cũng cùng là trong thời kì thơ Mới, nếu như như tác giả Thế Lữ tìm cái đẹp ở trên thiên thai với thi phẩm nổi tiếng Tiếng sáo thiên thai, nếu như như Huy Cận tìm tới với cái đẹp ở xa trong không gian tìm tới cái đẹp của cổ điển. Còn với thi sĩ Chế Lan Viên tìm cái đẹp ở xưa trong thời gian mà giờ chỉ còn là một đống điêu tàn đổ nát thì Xuân Diệu – được biết tới là một chàng thi sĩ của xuân và tình của chúng ta, tất cả nhường như cũng lại tìm cái đẹp ở ngay mảnh đất hiện tại này, cái đẹp ở chính ngay trần gian tươi đẹp, ngập tràn xuân sắc luôn mang được một sự rộn rực xuân tình, cái đẹp thắm hương sắc. Với Xuân Diệu thì lại “đốt cảnh bồng lai và xua người nào nấy về hạ giới” bởi vì hạ giới là nơi đẹp chẳng khác gì chốn bồng lai.

Nhưng để đánh giá một khổ thơ hay hay không thì luôn phải được kết tinh từ nội dung, nghệ thuật. Thực sự với khổ thơ thứ hai trong bài thơ Vội Vàng này cũng đã làm mãn nhãn người đọc bằng những câu từ có hình, có vần điệu độc đáo. Sử dụng thơ tự do đan xen những câu văn dài khá đem lại một sự sung sức như chính tấm lòng nồng nàn yêu đời mãnh liệt của Xuân Diệu. Tiếp theo đó chính là những cách điệp cấu trúc được sử dụng như: Này đây…của… thì ta nhận thấy được đó cũng là sự khẳng định vô cùng nồng nhiệt và hăng say vẻ đẹp của mùa xuân trên mảnh đất thực tế nơi hạ giới. Về mặt tiếng nói giàu sức gợi, những từ láy đầy sức biểu cảm đã góp phần làm nên thành công của đoạn thơ. Ta như nhận thấy được hình ảnh thơ trẻ trung, tươi mới, táo tợn “ong bướm, tuần tháng mật, hay đó là hình ảnh hoa đồng nội xanh rì, cành tơ phơ phất, khúc tình si, thần Vui,… tất cả cũng như đã góp phần cho thấy lòng yêu đời và ham sống xốc nổi của Xuân Diệu.

Thông qua bài thơ Vội Vàng và đặc biệt là khổ thơ thứ hai ta nhận thấy được cũng chính với tấm lòng yêu đời, yêu sống mãnh liệt Xuân Diệu lúc này đây như đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, một mùa xuân vô cùng ngọt ngào, quyến rũ và thanh tân trẻ trung bởi cặp mắt xanh non. Không chỉ vậy mà thông qua tác phẩm cũng mới thấy được tài năng của thi sĩ với bộ y phục vô cùng tối tân của mình đã làm say đắm tâm hồn bao trái tim độc giả về mùa xuân và tuổi xanh và về tình yêu.

Phân tích đoạn 2 bài Vội vàng – Mẫu 11

“Vội vàng’’ là một trong những bài thơ đặc sắc nhất trong tập “Thơ thơ” (1938). Vượt qua dòng chảy thời gian hơn 60 năm rồi, mà những ý tưởng mới mẻ về thời gian, về tuổi xuân, về tình yêu đời, yêu cuộc sống- cùng với một giọng thơ nồng nhiệt đắm say vẫn lôi cuốn chúng ta một cách kì lạ. Đây là đoạn thơ trích trong phần 2 bài “Vội vàng” nói lên sự cảm nhận về thời gian của thi sĩ Xuân Diệu:

“Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non, tức là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, tức là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn nếu như tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt …”

Hai câu thơ đầu đoạn, với cách ngắt, nhịp 3/5, đọc lên ta cảm thấy cái nhún nhảy của mùa xuân, của thời gian:

“Xuân đương tới / tức là xuân đương qua
Xuân còn non / tức là xuân sẽ già”.

những từ ngữ: “đương tới” với “đương qua”, “còn non’” với “sẽ già” tương ứng, đối lập nhau, diễn tả mùa xuân và thời gian vận động không ngừng. Bước đi của mùa xuân, dòng chảy của thời gian là mải miết, vô tận. Trong hiện tại “đang tới” đã có màu li biệt “đương qua”. Chữ “đang” chuyển thành chữ “đương” một: cách nói điệu đà, rất thơ. Trong dáng vẻ “còn non” ngày hôm nay đã báo hiệu một tương lai “sẽ già”. Cách cảm nhận của thi sĩ về thời gian và mùa xuân là tinh tế và biểu cảm. Đó là một ý tưởng rất tiến bộ. Cũng chữ “non” và chữ “già” ấy, ông có những những cảm nhận rất độc đáo bằng một tâm hồn lãng mạn với cặp mắt xanh non.

“Tình yêu tới, tình yêu đi, người nào biết
Trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt…
(…) Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!
Em, em ơi! Tình non sắp già rồi…”

(“hối thúc”)

Và ông cũng nhìn thấy sự vật phát triển và thay đổi không ngừng. Mùa xuân thời gian và sự sống thật vô cùng kì diệu:

“Mấy ngày hôm trước còn hoa
Mới thơm đây ngát
Thoáng như một nghi ngờ
Trái đã liền có thật”.

(“Quả sấu non trên cao”)

Bảy câu thơ tiếp theo nói lên nghịch lí giữa tuổi xanh, đời người với thời gian và vũ trụ. Và đó cũng là thảm kịch của con người, đời người. Khi “xuân hết”, tuổi xanh đi qua “tức là tôi cũng mất”. Mất ý vị cuộc thế. tuổi xanh đáng yêu biết bao! Mỗi người chỉ có một thời son trẻ. Cũng như thời gian trôi qua, tuổi xanh một đi không trở lại:

“Mà xuân hết, tức là tôi cũng mất”.

“Lượng trời cứ chật” mà “lòng tôi rộng”, muốn trường thọ bất tử, muốn trẻ mãi không già. Quy luật của sự sống thật vô cùng nghiệt ngã: “Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. “Hảo hoa vô bách nhật – Nhân thọ vô bách tuế” (Nguyễn Du). “Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi…” (Tục ngữ). Một lần nữa thi sĩ lại đặt tiếng nói trong thế tương phản giữa “rộng” với “chật”, để nói lên cái nghịch lí của đời người. Cũng là một cách cảm nhận thời gian rất thực.

“Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian”

Xuân của bốn mùa thu thì tuần hoàn (xuân khứ, xuân lai, xuân vô tận) nhưng đời người chỉ có một thời thanh xuân. Tuổi trò “chẳng hai lần thắm lại”. Vũ trụ đất trời thì vĩnh hằng, vô hạn. trái lại đời người thì hữu hạn. Kiếp nhân sinh nhiều thảm kịch. người nào cũng muốn trẻ mãi không già, người nào cũng muốn được sống mãi với tuổi xanh, tuổi hoa niên. Tiếng thơ chứa lên như một lời than tiếc nuối:

… Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
nếu như tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

“Tiếc cả đất trời vì không được trẻ mãi để tận hưởng mọi cái đẹp của thiên nhiên và cuộc thế. Đó là lòng yêu đời và ham sống, thèm khát được sống hết mình với tuổi xanh:

“Mười chín tuổi, hỡi những nàng má ngọc.
Ríu rít chim, là tuổi ước mơ hoa!
Hãi chàng trai kiều diễm mãi vui ca.
Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở!”

(“Đẹp” – Xuân Diệu)

“tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại” cùng như “Mười chín tuổi! Chẳng hai lần hoa nở”, đó là thảm kịch của người đời, xưa và nay. Có ham sống và yêu đời mới cảm nhận sâu sắc thảm kịch ấy. vì vậy không được vung phí thời gian và tuổi xanh.

Hai câu thơ cuối dào dạt xúc cảm. thi sĩ xúc động lắng tai bước đi của thời gian, tiếng “than thầm tiễn biệt” của sông núi, của cảnh vật. Xuân Diệu rất nhạy cảm với thời gian trôi đi qua “mùi”, “vị” của năm tháng “chia phôi” trong dòng chảy vô tận. Một cách cảm nhận thời gian rất thơ, rất tinh tế:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt”.

Đoạn thơ trong đây cho thấy vẻ đẹp trong thơ Xuân Diệu: Sự trau chuốt về ngôn từ, sự tinh tế trong xúc cảm biểu hiện. Một quan niệm nhân sinh rất tiến bộ về thời gian, về mùa xuân và tuổi xanh. Cái tôi tư nhân trữ tình được khẳng định. Ham sống và yêu đời; sống hết mình, sống trong tình yêu – đó là những ý tưởng rất đẹp.

Phân tích đoạn 2 bài Vội vàng – Mẫu 12

Xuân Diệu là một trong những tác giả tiêu biểu trong phong trào thơ mới tại Việt Nam. Thơ của ông luôn dạt dào tình cảm, khiến độc giả và những nhà đánh giá hết lời ngợi khen. Ông để lại cho kho tàng văn học Việt Nam những tác phẩm tuyệt vời, trong đó phải kể tới bài thơ “Vội vàng” trí từ tập “Thơ thơ”. Tác phẩm viết về nét đẹp nhân sinh, quan niệm sống tích cực từ thi nhân. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn về điều này khi tới với khổ thứ hai của bài thơ.

Ở khổ thơ thứ nhất của Vội vàng, Xuân Diệu cho độc giả thấy được bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp với cỏ hoa, ong bướm, đồng nội, yến oanh và một tình yêu cháy bỏng. Nhưng tới khổ thứ hai, người đọc sẽ cảm nhận thấy tác giả thể hiện sự khắc khoải khi thời gian vẫn trôi qua một cách nhanh chóng.

“Xuân đương tới tức là xuân đương qua
Xuân còn non tức là xuân sẽ già”

Độc giả thử chìm đắm trong từng vần thơ tinh tế của Xuân Diệu, nhìn thấy rằng thời gian trôi qua vội vã để lại sự tiếc nuối và lo sợ. Tác giả sử dụng những cặp từ “đương tới” – “đương qua”, “còn non” – sẽ già” để biểu thị trạng thái đối lập của thời gian. Trước cảnh xuân tuyệt vời với cỏ hoa, ong bướm, hương sắc quyến rũ của mùa xuân, tác giả cũng tận hưởng cùng thưởng thức đó thôi, nhưng trong lòng vẫn có một nỗi lo sợ. Sợ rằng mọi thứ sẽ bị thời gian lấy đi, không thể níu giữ được mùa xuân, thanh xuân, tuổi xanh và cả đời người. Chúng không thể nào quay lại, vậy nên con người cần phải trân trọng từng giây từng phút của cuộc thế, phải vội vàng nếu như không sẽ lỡ mất thanh xuân.

“Mà xuân hết tức là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.”

Mỗi ngày, mỗi tháng trôi qua đời người thêm phần ngắn lại, và khi không còn cảm nhận được mà xuân cũng là lúc đời người không còn nữa, vĩnh viễn rời xa cuộc thế. Dù biết lòng người rộng lớn, còn bao nhiêu ước mơ, hoài bão, sự khát sao ở đó, nhưng biết làm trong khi lượng thời gian dành cho mình là hữu hạn, không thể kéo dài thời trẻ của dân gian. Cảm nhận được sự thực về thời gian vội vã, thi sĩ càng bất an lo lắng, nghẹn ngào:

“Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
nếu như tuổi xanh chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”

Vũ trụ thì bát ngát, đất trời rộng lớn nhưng con người thì bé nhỏ, đời người hữu hạn làm sao có thể thay đổi được thời gian. Tác giả biết mùa xuân thì vẫn tuần hoàn nhưng tuổi xanh thì không, thanh xuân đâu thể thắm lại, đâu còn dồi dào nhiệt huyết, sung sức như ngày còn trẻ. Nỗi bâng khuâng, tiếc nuối ấy như ngợp cả trời đất. Để rồi sự chi ly bao trùm lên cả khoảng không của không gian và sự vô tận của thời gian:

“Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp núi sông vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.”

Đó là quy luật bất biến của tạo hóa mà người nào cũng phải nuối tiếc. Vị thời gian rớm màu chia phôi, khắp núi sông thầm than lên lời tiễn biệt, cơn gió của mùa xuân vốn nhẹ nhà dào dạt cũng phải thều thào trong tiếng nghẹn, khúc hát rộn ràng của những chú chim cũng đành phải ngừng lại. có nhẽ tất cả chúng đều sợ cái gọi là “Thời gian”, sợ nước mắt, sợ chia ly, sợ những héo úa phai tàn theo năm tháng.

“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

tới cuối cùng, nếu như cứ mãi chờ đợi, mãi hy vọng thì sẽ chẳng bao giờ làm được điều mình ước mơ. Từ cảm thán “ôi” phát lên một cách nhẹ nhõm nhưng cũng thật tha thiết, vừa thể hiện sự nuối tiếc nhưng đồng thời cũng như thúc giục mọi người phải hành động ngay. Hãy nhanh chạy đua với thời gian, với vũ trụ nhân lúc “mùa chưa ngả chiều hôm” là lúc mà lá chưa ngả, mùa chia ly chưa tới. “Mau đi thôi!” chính là lời thức tỉnh những người nào còn đang mơ hồ, chậm chạp hãy sống nhanh, sống vội vàng và sống có trách nhiệm để không bỏ lỡ những năm tháng thanh xuân tươi đẹp, rực rỡ nhất.

Đoạn thơ không quá dài, nhưng qua văn pháp của Xuân Diệu đã cho chúng ta thấy một lẽ sống thật đẹp. Nhắc nhở chúng ta, đặc biệt là những người trẻ cần phải suy nghĩ tích cực, cố gắn sức mỗi ngày, không ngừng học tập và làm việc có ý nghĩa để sống một cuộc thế trọn vẹn, không phải hối tiếc về bất cứ điều gì.

Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 11