Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương mang tới 14 bài văn mẫu, kèm theo 3 dàn ý chi tiết. từ đó, sẽ giúp những em hiểu sâu sắc hơn về thảm kịch, nỗi oan khúc của Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương”. Qua nhân vật Vũ Nương, nhà văn Nguyễn Dữ muốn tố cáo những hủ tục khó tính, nói lên số phận xấu số, bi thảm của người phụ nữ trong xã hội cũ. Mời những em cùng theo dõi bài viết dưới đây để đạt kết quả cao trong bài viết số 6 lớp 9.
Mục lục
- Dàn ý suy nghĩ về thân phận người phụ nữ
- Suy nghĩ về số phận người phụ nữ – Mẫu 1
- Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ – Mẫu 2
- Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương – Mẫu 3
- Hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương – Mẫu 4
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 5
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 6
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 7
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 8
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 9
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 10
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 11
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 12
- Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 13
- Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương
Dàn ý suy nghĩ về thân phận người phụ nữ
Dàn ý chi tiết số 1
1. Mở bài
Bạn Đang Xem: Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương
Giới thiệu tác giả Nguyễn Dữ, “Chuyện người con gái Nam Xương” và vẻ đẹp, số phận thảm kịch của Vũ Nương.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp của Vũ Nương
Vũ Nương là cô gái xinh đẹp: tư dung tốt đẹp.
Là cô gái có đức tính tốt đẹp: thùy mị, nết na.
→ Khiến chàng Trương đem lòng yêu mến và cưới về làm vợ.
Ngày chồng tòng quân: nàng đau lòng, dặn dò và mong chồng bình an trở về.
Khi chồng ra trận: ở nhà một lòng một dạ săn sóc con trai và săn sóc mẹ chồng những ngày cuối đời.
→ Là người vợ hiền lành, đảm đang, đầy đủ “công – dung – ngôn – hạnh” đáng ngưỡng mộ.
→ Là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ với những phẩm hạnh tốt đẹp.
b. Số phận thảm kịch của Vũ Nương
Nguyên nhân: khi chồng bế con ra thăm mộ mẹ, đứa nhỏ đã tiết lộ bố nó đêm nào cũng tới thăm nó → Trương Sinh đem lòng nghi ngờ, ghen tuông.
Khi Trương Sinh về nhà đã chửi mắng nàng và đuổi nàng đi mặc cho nàng van xin và thanh minh.
→ Người phụ nữ không được tự quyết định số phận của mình mà phải phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Tuy mình bị oan nhưng không được thanh minh.
Để chứng minh tấm lòng chung thủy của mình Vũ Nương đã nhảy sông tự tử.
→ khổ đau, xót thương trước số phận xấu số của nàng sau những điều tốt đẹp nàng đã làm cho nhà chồng.
Sau này, khi Trương Sinh hiểu ra oan khúc của nàng đã vô cùng đau xót nhưng nàng không thể trở về nhân gian được nữa mà mãi ở lại nơi thủy cung. → Đây được coi là cái kết vừa có hậu vừa đoản hậu của Vũ Nương: có hậu vì cuối cùng nàng cũng được thân oan và khiến cho người làm nàng khổ đau là Trương Sinh nhìn thấy lỗi lầm, hối hận về lỗi lầm đó; đoản hậu vì nàng không được quay lại nhân gian để sống tiếp kiếp người, để nhận lại phúc đức sau những nghĩa cử cao đẹp nàng đã làm.
3. Kết bài
Khẳng định lại vẻ đẹp, số phận của Vũ Nương và trị giá của tác phẩm.
Dàn ý chi tiết số 2
I. Mở bài
- Đề tài người phụ nữ trong văn học nói chung, trong văn học trung đại nói riêng.
- Giới thiệu nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và tính chất tiêu biểu cho hình ảnh người phụ nữ dưới chế độ cũ.
II. Thân bài
1. Vũ Nương – người phụ nữ có tâm hồn cao đẹp nhưng số phận khổ đau
– Vũ Nương là người phụ nữ đẹp:
- Tư dung tốt đẹp – người con gái bình dân.
- Là người con hiếu thảo, người mẹ thương con, người vợ chung thuỷ.
- Là người có lòng tự trọng.
– Vũ Nương lại là người phải gánh chịu nhiều khổ đau:
- Một mình nuôi con, lo lắng thuốc thang, chôn chứa mẹ chồng.
- Bị Trương Sinh đối xử phũ phàng: nghi ngờ, không cho nàng biết nguyên do, nhiếc mắng thậm tệ khiến nàng phải tìm tới cái chết.
- Muốn quay trở lại cuộc sống trần gian nhưng không thể được.
2. Suy nghĩ về thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến
- Con người không làm chủ được vận mệnh của mình.
- Xã hội phong kiến với những luật lệ khó tính, vô nhân đạo gây ra bao bất công cho người phụ nữ; chế độ đa thê gây bao cảnh oan trái đau lòng.
- Người phụ nữ buộc phải cam chịu, nhẫn nhục nên những bất công đó có điều kiện phát triển.
- thông cảm và hiểu rõ điều tốt đẹp trong phẩm chất của họ.
III. Kết bài
- Cảm nhận về cuộc thế của nhân vật Vũ Nương nói riêng, cũng như thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
- Hiểu về thời đã qua để thêm yêu hiện tại.
Dàn ý chi tiết số 3
1. Mở bài:
- Từ xa xưa, người phụ nữ đã trở thành một đề tài thân thuộc trong những tác phẩm văn học, trong ca dao, trong những truyện dân gian.
- tới văn học trung đại: hình ảnh người phụ nữ đã được thể hiện cụ thể, sâu sắc hơn. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn và số phận đầy khổ đau của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
2. Thân bài:
a. Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc thế lại đầy khổ đau, xấu số:
- Là một người phụ nữ đẹp: vẻ đẹp phương thức (tư dung tốt đẹp); vẻ đẹp tư cách (yêu thương và thủy chung với chồng, hiếu thảo với mẹ chồng, thương con, nhiệt tình chăm lo hạnh phúc gia đình).
- Phải chịu những khổ đau, bất công, ngang trái: bị chồng nghi oan mà không nghe nàng thanh minh, giãi bày; bị nhiếc mắng thậm tệ rồi đuổi đi, khổ đau tột cùng, nàng phải tìm tới cái chết.
- Không tự bảo vệ được hạnh phúc của mình.
b. Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
- Sống cam chịu, nhẫn nhục…(sự cam chịu, nhẫn nhục càng làm cho những bất công, ngang trái đè nặng lên cuộc thế, số phận của họ).
- Không thể quyết định được tương lai và hạnh phúc của mình (Vũ Nương, người phụ nữ trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương, Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du…)
- Hiểu nguyên nhân gây ra nỗi xấu số cho họ (chế độ đa thê, tư tưởng trọng nam khinh nữ, chiến tranh…đã gây ra những xấu số, oan trái…cho người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương, trong “Chinh phụ ngâm” của Đoàn Thị Điểm…).
- Cảm thương cho số phận khổ đau, xấu số của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
3. Kết bài
- Qua cuộc thế, số phận đầy khổ đau của Vũ Nương, người đọc càng hiểu hơn những xấu số, oan trái mà người phụ nữ phải chịu đựng trong xã hội phong kiến.
- Liên hệ với hiện tại: người phụ nữ ngày càng được đồng đẳng, được tôn trọng…từ đó, thêm trân trọng những trị giá tốt đẹp của cuộc sống hiện tại.
- ước mơ về tương lai: Người phụ nữ không còn phải chịu những bất công, khổ đau…
Xem thêm: Top 15+ bài Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn
Suy nghĩ về số phận người phụ nữ – Mẫu 1
Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI quê ở huyện Trường Tân nay là Thanh Miện – Hải Dương. Ông là học trò của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. những tác phẩm của ông đã đóng góp vô cùng lớn cho nền văn học trung đại Việt Nam. tiêu biểu là “Truyền kỳ Mạn Lục” gồm có hai mươi câu chuyện nhỏ. Trong đó tiêu biểu là chuyện người con gái Nam Xương là câu chuyện thứ 16 của Truyền Kỳ Mạn Lục, được khởi đầu từ truyện “vợ chàng Trương”. Qua việc xây dựng hình tượng Vũ Nương với đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại chịu nhiều oan khúc, Nguyễn Dữ đã giãi tỏ lòng thương cảm với Vũ Nương, với những người có số phận hẩm hiu giống nàng.
Vũ Nương tên thật là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương thuộc phủ Lý Nhân, xuất thân trong một gia đình nghèo túng, vừa có nhan sắc lại có đầy đủ tiết hạnh. vì vậy Trương Sinh con nhà hào phú đã xin mẹ trăm lạng vàng để cưới về.
Phẩm hạnh tốt đẹp của Vũ Nương được thể hiện rất rõ trong những mối quan hệ với gia đình. Trong cuộc sống vợ chồng, nàng cư xử rất đúng mực, nhường nhịn, luôn biết giữ gìn mực thước cho nên dù chồng đa nghi, đối với vợ phải phòng ngừa quá mức nhưng vợ chồng không bao giờ thất hoà. tương tự dù cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu và có tín hiệu mua bán nhưng gia đình luôn êm ấm bởi tiết hạnh của Vũ Nương. Khi tiễn Trương Sinh đi lính, nàng rót chén rượu đầy dặn dò những lời tình nghĩa đằm thắm thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm hoa trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Lời tiễn biệt đó cho thấy nàng không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu mong chàng bình yên trở về. Đó là mong ước giản dị, thông thường của người vợ, người phụ nữ luôn mong cuộc sống gia đình sum vầy, hạnh phúc. Không chỉ vậy, nàng còn biết thông cảm trước nỗi vất vả, gian lao mà người chồng phải chịu đựng khi ra chiến trường: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ hiền lo lắng”. Rồi nàng còn nói lên nỗi khắc khoải, nhớ nhung của mình trong những ngày chồng đi xa: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú. Dù có thư tín nghìn hàng, cũng không sợ có cánh hồng bay bổng”. Những câu văn biền ngẫu sóng đôi, tương xứng nhịp nhàng như nhịp đập thổn thức của trái tim người vợ trẻ, lời tiễn biệt ân tình thể hiện tình yêu thương chồng và niềm khát khao một mái ấm hạnh phúc. Xa chồng, Vũ Nương không lúc nào không nghĩ tới, không thương nhớ: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn nơi góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh ước lệ, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân tươi vui đi qua, mùa đông âm u lại tới còn lòng người thì dằng dặc một nỗi nhớ mong. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên tường và nói với con rằng “cha Đản lại tới” không chỉ muốn con ghi nhớ bóng hình người cha trong trái tim non nớt của nó, mà còn thể hiện tình cảm của nàng trước sau như một, gắn bó như hình với bóng. Nói với con tương tự để làm vơi đi nỗi thương nhớ chồng. Tâm trạng đó của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người vợ có chồng đi lính trong thời tao loạn:
“Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong”
( Trích “Chinh phụ ngâm” – Đoàn Thị Điểm)
Không chỉ là một người vợ thủy chung mà Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Khi chồng đi lính, nàng vẫn còn trẻ nhưng đã phải gánh vác mọi việc trong gia đình chồng. Trong xã hội, mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất khó dung hoà vậy mà Vũ Nương vẫn rất yêu quý, săn sóc mẹ chồng như đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi mẹ chồng ốm, nàng “hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào, khôn khéo, khuyên nhủ”. Những lời nói dịu dàng, những cử chỉ ân cần của nàng thật đáng trân trọng. Đặc biệt lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà gượng gập cơm nước. Song tuổi thọ có chừng, số trời khó tránh. Đêm tàn chuông đổ, số tận mệnh cùng; một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, không khỏi phải phiền tới con. Chồng con xa xôi, mẹ chết lúc nào, không thể kịp về đền báo được. Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong sông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ” là sự ghi nhận, đánh giá rất cao công lao của Vũ Nương đối với gia đình. Đặt trong xã hội lúc bấy giờ thì đây là lời đánh giá thật xác đáng và khách quan khiến ta cảm nhận được nét đẹp trong phẩm chất của Vũ Nương. Rồi tới khi mẹ chồng mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, tính liệu như cha mẹ ruột. Nàng làm những việc đó không chỉ vì nghĩa vụ và trách nhiệm của người con dâu mà còn xuất phát từ lòng yêu thương, sự hiếu thảo mà nàng đã dành cho mẹ. Rõ ràng Vũ Nương là một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. Trong cả ba tư cách: người vợ, người con, người mẹ, tư cách nào cũng nêu cao được tiết hạnh của nàng: chung thủy, yêu thương chồng tha thiết, rất mực yêu thương con, hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng là mẫu người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến xưa, nàng xứng đáng được lợi hạnh phúc bà được mọi người trân trọng.
Cứ ngỡ người phụ nữ như Vũ Nương sẽ có một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn, nhưng nàng lại vướng vào oan khúc đắng cay. Đó là khi Trương Sinh trở về, nghe lời con trẻ mà nghi nàng thất tiết và đã cư xử phũ phàng. Trước khi tự vẫn, nàng cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình. Nàng nói tới thân phận, tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung của mình: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám giãi tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Những lời nói của nàng đều vì muốn hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có ngu cơ tan vỡ. Vũ Nương đã hết lời phân trần nhưng Trương Sinh không tin, vẫn mắng mỏ nàng thậm tệ và đánh đuổi nàng đi. Hạnh phúc gia đình – nỗi thèm khát cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn: “Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm sa, đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”. Cuộc hôn nhân đã không thể nào hàn gắn nổi. Bao công sức xây đắp tổ ấm đã trở nên vô nghĩa. Không thể nào giải được nỗi oan khúc, nàng tìm tới cái chết để giãi tỏ tấm lòng mình: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược ưng ý chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời than như một lời nguyền xin thần sông chứng giám cho nỗi oan khúc của nàng. Hành động trẫm mình xuống dưới sông Hoàng Giang là hành động cuối cùng để bảo toàn danh dự. Nàng tìm tới cái chết trong nỗi vô vọng nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí: nàng tắm gội chay sạch trước khi chết và nguyện cầu một cách thanh thoát.
Tuy nhiên Vũ Nương vì trong sáng, vô tội nên được Linh Phi cứu giúp đưa về động rùa. Ở dưới thủy cung, nàng có được một cuộc sống sung túc cùng những tiên nữ nhưng nàng vẫn không nguôi nỗi đau trần thế, nỗi nhớ gia đình, quê hương và đặc biệt luôn thèm khát được phục hồi danh dự. Hình ảnh Vũ Nương trở về trong đàn tràng tẩy oan của Trương Sinh và lời nói vọng vào của nàng thể hiện nàng là người ân tình thủy chung. Đàn tràng tẩy oan, sự hối hận muộn màng của Trương Sinh thể hiện tấm lòng vị tha cao thượng. Điều đó còn thể hiện ước mơ nghìn đời của nhân dân ta về lẽ công bằng, người tốt dù trải qua bao nhiêu oan khúc cuối cùng cũng được thân oan.
Truyện thành công nhờ việc sắp xếp những tình tiết hợp lí, cách tạo tình huống thắt nút, mở nút. Trên cơ sở cốt truyện có sẵn, tác giả sắp xếp thêm một số tình tiết, thêm bớt, tô đậm những tình tiết có ý nghĩa làm cho diễn biến hợp lí, tăng tính thảm kịch làm câu chuyện trên hấp dẫn. Nguyễn Dữ đã khéo léo sử dụng những yếu tố kì ảo tạo kết thúc có hậu làm vượt bậc vẻ đẹp của nhân vật chính.
Qua vẻ đẹp và thảm kịch của Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã lên án, tố cáo xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của người giàu, người đàn ông, đồng thời thể hiện tấm lòng trân trọng của mình đối với người phụ nữ phải chịu nhiều xấu số thiệt thòi trong xã hội.
Suy nghĩ của em về thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ – Mẫu 2
Trong kho tàng văn học trung đại có rất nhiều những tác giả đã sử dụng ngòi bút của mình để viết về những mảnh đời xấu số. Mà tiêu biểu nhất đó là số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Được sinh ra làm người nhưng không sống đúng trị giá của một con người. Trong đó tiêu biểu nhất phải kể tới nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng chính là một đại diện tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nói riêng và phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Vũ Nương là một người con gái với xuất thân bình dân và vẻ đẹp dung dị mặn mà. Chính vì vậy nàng đã được con trai hào phú trong làng để ý tới. Trương Sinh không tiếc trăm nghìn lạng vàng tới hỏi cưới nàng về làm vợ. Thế nhưng Trương Sinh là công tử ít học, từ bé sống trong nhung lụa nên có tính đa nghi, gia trưởng. Từ sau khi làm dâu ý thức được thân phận nhỏ bé, gia đạo bần hàn của mình Vũ Nương chưa một lần dám phản kháng hay làm trái ý chồng. Cuộc sống những tưởng êm đềm thế nhưng binh biến tao loạn, Trương Sinh phải lên đường ra trận mạc. Ngày chia tay nàng rót chén rượu đầy cho chồng mà thưa rằng: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Mong muốn của nàng không phải chức tước công lao chỉ đơn thuần là hai tiếng hạnh phúc bình dị. Đó chính là niềm khát khao cháy bỏng của người vợ trong những ngày binh chiến tao loạn.
Vũ Nương ở lại một tay tảo tần lo lắng việc nhà, săn sóc mẹ già lại phải phụ trách thêm đứa con mới sơ sinh. Thế nhưng tuyệt nhiên chưa bao giờ người phụ nữ ấy oán trách nửa lời. Sau khi tiễn con trai lên đường mẹ già vì quá đau buồn mà sinh bệnh nặng. Vũ Nương ngày đêm túc trực thăm nom, đi khắp nơi kiếm thầy tìm thuốc chữa cho mẹ chồng, đồng thời hết lời khuyên lơi nhưng bà không qua khỏi. Mẹ chồng vô cùng cảm động trước tình cảm của con dâu nên trước khi nhắm mắt xuôi tay xuôi tay bà cầm tay nàng mà dặn dò : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Sau khi mẹ chồng qua đời nàng nhiệt tình ma chay, tang chú lễ nghĩa cho trọn đạo dâu hiền.
Về phần con nhỏ, do quấy khóc nên hàng đêm Vũ Nương ẵm con trên tay chỉ vào chiếc bóng mình trên tường và nói “Cha con tới kìa”. Mỗi lần như thế đứa bé lại cười reo thích thú. Lâu dần thành quen nàng cũng chẳng còn nhớ giảng giải về “chiếc bóng” trên tường với con nữa.
Giặc tan, Trương Sinh trở về tưởng rằng hạnh phúc sẽ mỉm cười với nàng từ đây thế nhưng ngày vui ngắn chẳng tày gang. Chỉ vì hiểu lầm nhỏ nhặt mà đã đẩy cuộc thế Vũ Nương vào bế tắc.
Chính chiếc bóng mình trên tường đã khiến Trương Sinh phát sinh lòng đa nghi đố kỵ. Không nghe vợ giảng giải chỉ biết đánh đuổi nàng ra khỏi nhà. Vũ Nương vì quá tủi nhục đã trẫm mình xuống sông tự vẫn kết thúc nỗi oan trái thấu trời. Nguyên nhân đẩy nàng tới cái chết không phải do sự vô tâm của chồng mà chính là sự cay nghiệt của mồm đời.
Số phận của Vũ Nương cũng chính là hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Luôn bị áp bức và dồn tới đường cùng. Dù họ có xinh đẹp tài hoa hay sang hèn thì đều chung một tiếng đó là “bạc phận”. Như thi sĩ Nguyễn Du từng viết:
“đớn đau thay thân phận phụ nữ
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung”
Họ là những nạn nhân của chế độ cũ, của những hủ tục lạc hậu và thành kiến khắc nghiệt. Sống ở đó họ chỉ tồn tại như những món đồ vô tri vô giác, mang đi đổi chác, bán mua và hoàn toàn không có quyền lên tiếng hay thanh minh gì cho mình. Vũ Nương chết mang theo nỗi oan thấu trời xanh thế nhưng kẻ khiến nàng rơi vào đường cùng là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án hay dè bỉu. Thậm chí khi nàng đã được thân oan, Trương Sinh cũng không bị cắn rứt lương tâm, không muốn nhắc lại chuyện cũ mà coi như “nó đã qua”. Phải chăng sự sống và cái chết của người phụ nữ trong xã hội bị khinh thường tới mức rẻ rúm? Họ không có quyền thanh minh và lại càng không được bảo vệ tới tính mệnh?
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã từng ngậm ngùi khi nói về thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ bằng những vần thơ đầy đau thương:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Thế nhưng mặc dù đã đạp lên số phận, đã khẳng định tiếng nói vị thế của mình song hành động đó của bà chỉ như một điểm sáng vụt qua giữa bầu trời đầy đen tối. Nó không đủ để làm nên một đại cách mệnh về quyền sống và quyền làm người của phụ nữ trong xã hội đương thời đầy rối ren và bế tắc.
Vũ Nương chính là một hình ảnh đại diện cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ. Những con người sinh ra làm con người nhưng không được sống trọn vẹn một kiếp người. Đó cũng là tiếng nói chống lại sự bất công, phân biệt đối xử trong xã hội, và là tiếng lòng nhân ái đầy sâu sắc mà nhà văn Nguyễn Dữ muốn gửi gắm.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ qua nhân vật Vũ Nương – Mẫu 3
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kỳ mạn lục” – một tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam. Truyện phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội, đó là thân phận của người nông dân nói chung và người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến. Thế lực bạo tàn và lễ giáo phong kiện khó tính đã giày đạp lên phẩm giá người phụ nữ, mặc dù họ là những người phụ nữ đáng trân trọng trong gia đình và xã hội.
Câu chuyện kể về cuộc thế và số phận của Vũ Nương – một người, con gái nết na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh, con nhà giàu có nhưng ít học, vốn tính đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Trương Sinh lấy Vũ Nương không phải vì tình yêu mà chỉ vì cảm mến dung hạnh, để rồi không có sự chan hòa, đồng đẳng trong cuộc hôn nhân đó. Mầm mống thảm kịch của cuộc thế Vũ Nương khởi đầu từ đây.
Mặc dù chồng là người lạnh lùng, khô khan, ích kỷ nhưng Vũ Nương luôn đảm đang, tháo vát, thủy chung. Nàng khát khao hạnh phúc gia đình, mong muốn êm ấm thuận hòa nên luôn giữ gìn mực thước, ăn nói chừng mực. Khi chồng đi lính, Vũ Nương đã tiễn chồng bằng những lời mặn nồng, tha thiết: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng”. Thật xúc động với tình cảm của người vợ hiền trước lúc chồng đi xa. Tình cảm ấy đã làm mọi người rơi lệ.
Không chỉ là người vợ hiền, Vũ Nương còn là một nàng dâu hiếu thảo. Nàng săn sóc chu đáo mẹ chồng, nhiệt tình thờ phụng mẹ chồng như mẹ đẻ của nàng vậy. Chồng đi lính khi nàng có mang, biết bao khổ cực chỉ một thân một mình gánh chịu. Rồi nàng sinh con, một mình nuôi dạy con và săn sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng mất, nàng vô cùng thương xót, nàng lo ma chay, tế lễ hết sức chu đáo.
Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà chỉ vì tin lời con trẻ mà nghi vợ hư hỏng nên chửi mắng vợ thậm tệ, mặc cho lời phân trần của Vũ Nương, mặc cho lời biện bạch của họ hàng xóm thôn, Trương Sinh vẫn hồ đồ đánh đuổi Vũ Nương. đớn đau, tủi nhục, Vũ Nương phải tìm tới cái chết trên bến Hoàng Giang.
Câu chuyện đã thể hiện nỗi oan khúc tột cùng của Vũ Nương, nỗi oan ấy đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội phong kiến vùi dập con người, nhất là người phụ nữ. Thân phận của người phụ nữ bị vùi dập, bị sỉ nhục, bị đày tới bước đường cùng của cuộc thế, họ chỉ biết tìm tới cái chết để giãi tỏ tấm lòng trong sạch. Điều này chứng tỏ xã hội phong kiến suy vong đã sinh ra những Trương Sinh đầu óc nam quyền, độc đoán, sống thiếu tình thương đối với người vợ hiền thục của mình, để rồi gây ra cái chết bi thương đầy oan trái cho Vũ Nương. Thân phận của Vũ Nương thật đáng thương và phẩm chất của nàng cũng thật đáng khâm phục. Khi còn sống nàng là người vợ hiền dâu thảo, sống có tình nghĩa.
Khi chết, tuy được những nàng tiên cứu sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, nhưng lúc nào nàng cũng nhớ tới quê hương bản quán của mình. Là người nặng tình nghĩa, nàng đã ứa nước mắt khi nghe người cùng làng gợi nhắc tới quê hương, nhắc tới chồng con của mình. Thế nhưng, Vũ Nương vẫn tồn tại nỗi đau oan khúc, nàng muốn phục hồi danh dự: Nàng không trở về trần gian mặc dù Trương Sinh đã lập đàn tẩy oan và đã hối hận với việc làm nông nổi của mình. Nàng không trở về trần gian đâu chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi – người đã cứu nàng, mà điều chủ yếu ở đây là nàng chẳng còn gì để về. Đàn tẩy oan chỉ là việc yên ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa nghĩa cũ. Nỗi oan khúc được giải nhưng hạnh phúc đâu thể tìm lại được. Sự dứt áo ra đi của nàng là thái độ phủ định trần gian với cái xã hội bất công đương thời. Đây cũng là thái độ đấu tranh đòi công lý của người phụ nữ trong xã hội phong kiến suy vong. Dù cái chết là tấn thảm kịch của người phụ nữ, nhưng họ thức tỉnh được tầng lớp phụ quyền, phong kiến. Sự vĩnh viễn chọn lựa cái chết mà không trở lại trần thế của Vũ Nương đã làm cho Trương Sinh phải cắn rứt hối hận vì lỗi lầm của mình. Trương Sinh biết lỗi thì đã quá muộn màng.
Qua câu chuyện về cuộc thế và số phận bi thảm của Vũ Nương, Nguyễn Dữ tố cáo xã hội phong kiến đương thời đã giày đạp lên phẩm giá của người phụ nữ, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm vợ xa chồng, cha xa con, gia đình tan vỡ. Nỗi đau của Vũ Nương cũng là nỗi đau của biết bao người phụ nữ dưới chế độ phong kiến như nàng Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người cung nữ trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương và nhiều phụ nữ khác nữa. Phải chăng người phụ nữ trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn bị giày đạp dù họ có tài năng và phẩm chất cao đẹp. bởi vậy Nguyễn Dữ đã viết:
“đớn đau thay phận phụ nữ
Lời rằng bạc phận vẫn là lời chung”
“Phận phụ nữ” trong xã hội phong kiến cũ đớn đau, bạc phận, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khó tính như sợi dây oan trái trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy vong ngày ấy luôn tìm tới cái chết để bảo vệ phẩm giá của mình.
Bằng văn pháp kể chuyện, tình tiết lúc chân thật đời thường, lúc hoang đường kì ảo, Nguyễn Dữ đã xây dựng hình tượng nhân vật tiêu biểu cho thân phận người phụ nữ ngày xưa. Họ thật đẹp, thật lý tưởng nhưng xã hội không cho họ hạnh phúc. Tác phẩm của ông vừa đề cao trị giá người phụ nữ lại vừa hạ thấp trị giá của xã hội phong kiến đương thời.
Hình tượng người phụ nữ qua nhân vật Vũ Nương – Mẫu 4
Hình tượng người phụ nữ là một hình tượng xuyên suốt trong suốt chiều dài văn học. Từ văn học dân gian:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai. (ca dao)
Cho tới văn học viết. Người đọc thường để ý tới nhưng tác phẩm thơ ca mà quên đi kế bên thơ ca còn có những sáng tác bằng văn xuôi. Không chỉ có Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, mà còn có Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương nói lên một cách sâu sắc những thảm kịch cùng vẻ đẹp và những khát vọng chân chính về hạnh phúc gia đình của người phụ nữ. Vẻ đẹp con người và số phận thảm kịch của Vũ Nương có sức khái quát lớn. Đây không chỉ là câu chuyện về số phận thương tâm của một người phụ nữ mà còn là tấm lòng yêu thương trân trọng của tác giả dành cho những người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp trong xã hội phong kiến bấy giờ.
Xem Thêm : Phân tích yếu tố kì ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất
“Chuyện người con gái Nam Xương” có nguồn gốc từ chuyện kể dân gian: Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong tổng số 20 truyện của “Truyền kì mạn lục”. Nhân vật chính trong tác phẩm là Vũ Nương, một người phụ nữ trung trinh, tiết hạnh, đẹp người, đẹp nết nhưng lại bị chồng nghi oan thất tiết. Do không có thời cơ để thân oan, giãi bày, Vũ Nương đành phải nhảy sông tự vẫn để chứng minh sự trong sạch của mình. Kết thúc truyện là hình ảnh Vũ Nương hiện về thấp thoáng lúc ẩn, lúc hiện giữa lòng sông nói lời tạ từ rồi biến mất. Đó là thảm kịch của rất nhiều những người phụ nữ xấu số trong khi hạnh phúc gia đình chính là chỗ dựa vững chắc cho họ, giờ đây đã tan thành mây khói, mất đi chỗ dựa cuộc sống, họ lâm vào thảm kịch và cái chết là tuyến đường giải thoát duy nhất để họ kết thúc thảm kịch của chính mình. vì vậy, truyện không đơn thuần ngừng lại ở sự phản ánh hiện thực mà còn tố cáo hiện thực, gióng lên niềm thèm khát hạnh phúc của người phụ nữ trong một xã hội công bằng, văn minh.
Những thông tin về tên tuổi, quê quán được nêu ra ngay từ đầu tác phẩm đã tạo cho người đọc cảm giác tin cậy, tăng độ tin cậy cho câu chuyện. Đây cũng là một thủ pháp thân thuộc của văn học trung đại. Không chỉ giới thiệu về tên tuổi, quê quán của Vũ Nương, Nguyễn Dữ ngay từ đầu đã khẳng định nàng là một người con gái đẹp người, đẹp nết, đại diện cho vẻ đẹp của người phụ nữ thời kì phong kiến: “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Chính vì tiết hạnh của nàng mà Trương Sinh đã nhờ người làm mối và lấy Vũ Nương làm vợ. Chi tiết ấy vừa làm vượt bậc được tiết hạnh của Vũ Nương, vừa tăng phẩm hạnh sáng ngời của nàng. Bởi nàng được cưới hỏi một cách tử tế tử tế, được trân trọng không vì gia đạo vẻ ngoài mà chính bởi phẩm chất của nàng.
Sau đó, nhà văn tập trung làm vượt bậc vẻ đẹp tiết hạnh của nàng, bằng việc đặt Vũ Nương vào rất nhiều hoàn cảnh, tình huống và những mối quan hệ xung quanh như với chồng, với mẹ chồng và với đứa con trai tên là Đản.
Nguyễn Dữ đã dành những lời lẽ đẹp đẽ truyền tụng phẩm chất tốt đẹp và tấm lòng trung trinh của người phụ nữ. Trước hết, ở nhân vật Vũ Nương ta nhận thấy, nàng là một người vợ rất đỗi thương chồng, sống trọn đạo vợ chồng. Lúc còn ở bên nhau, nàng toan lo mọi bề, tất cả đều toàn vẹn, cặn kẽ. Biết tính chồng hay ghen, thế nên, trong cuộc sống vợ chồng, nàng rất đỗi “giữ gìn mực thước, không để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. Vũ Nương đã cư xử khéo léo, đúng mực, nhường nhịn và giữ đúng mực thước, không bao giờ để xảy ra nỗi bất hòa trong gia đình. vì vậy, chúng ta có thể thấy, nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình và rất tiết hạnh. Nhưng với tính tình đa nghi, độc đoán, đổi với vợ phòng ngừa quá sức của Trương Sinh tiềm tàng những nguy cơ gây vỡ lẽ hạnh phúc gia đình, dự đoán thảm kịch về sau mà nhân vật sẽ gây ra cho Vũ Nương.
Cuộc sống hạnh phúc êm ấm lại không kéo dài được bao lâu. Chiến tranh xảy ra, triều đình mộ lính tráng. Trương Sinh tuy giàu có nhưng lại là kẻ thất học nên chàng bắt buộc phải tòng quân đánh giặc. Đây có thể xem là thời cơ để Trương Sinh lập công danh. Nhưng với Vũ Nương, công danh ấy không quan trọng bằng sự bình yên của chồng. Lời nàng dặn chồng trước lúc chàng ra đi khiến ta không khỏi xúc động: “Chàng đi chuyến này, thiếp cũng chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, hay mặc áo gấm trở về quê, chỉ xin ngày chàng về mang theo được hai chữ bình yên, như thế là đủ rồi”. Tấm lòng của nàng vẫn luôn hướng về an nguy của chồng. Tấm lòng ấy không thay đổi dù là khi gia đình ấm êm hạnh phúc hay là khi chàng Trương phải đi lính. Bởi lẽ, nhắc tới chốn trận mạc nơi biên ải xa xôi ai cũng nghĩ tới “một chắc sa trường rằng chữ hạnh” cũng như “kim cổ chinh chiến kỉ nhân hồi”. Vì vậy mà với Vũ Nương, nguyện vọng duy nhất của nàng là chàng Trương được bình an. Đó là mong ước hết sức thông thường của một người vợ, một người phụ nữ thèm khát cuộc sống gia đình bình yên.Tình thương chồng của nàng còn thể hiện qua sự chia sẻ trước những nỗi vất vả, gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng cũng như niềm thông cảm cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
Trong những năm tháng xa chồng, nàng luôn nhớ Trương Sinh tha thiết, thậm chí nàng còn trỏ bóng mình trên tường vừa để dỗ con vừa để vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nỗi buồn nhớ của nàng khắc khoải triền miên, dài theo năm tháng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”.Nỗi nhớ chồng khôn nguôi nhưng cũng chính vì vậy mà nàng nhiệt tình giữ trọn đạo nghĩa vợ chồng.
Ngay cả khi bị Trương Sinh nghi oan thất tiết thì tình yêu, sự thủy chung của vẫn được thể hiện qua những lời phân trần hết sức tha thiết, mong tìm cách hàn gắn lại hạnh phúc gia đình. Vũ Nương đã ra sức phân trần để cho chồng hiểu. Nàng khẳng định nàng bị oan: “cách biệt ba năm, giữ trọn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót…”. Nàng nói lên thân phận của mình, nhắc tới tình nghĩa phu thê và khẳng định một lòng nhất mực thủy chung, son sắt với chồng.Thậm chí, nàng còn cầu xin chồng “đừng nghi oan cho thiếp”. Vũ Nương đang ra sức giữ gìn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Điều đó cho thấy nàng thực sự rất trân trọng hạnh phúc gia đình mà mình đang có và càng làm vượt bậc lên niềm khát khát hướng tới hạnh phúc gia đình ấm êm của người phụ nữ Vũ Nương.
Nhưng mọi phấn đấu của nàng đều đã không được đền đáp, dù phải tìm tới cái chết để chứng minh tấm lòng của mình. Bị dồn đẩy tới bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi phấn đấu không thành. vô vọng không cùng, Vũ Nương đành mượn dòng nước con sông Hoàng Giang sâu thẳm để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. Lời thề trước khi chết của nàng khiến ta không khỏi thông cảm “thiếp nếu như đoan trang giữ trinh tiết trắng gìn lòng vào nước xin làm ngọc Mị Nương, hay xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược ưng ý chim dạ cá lừa chồng dối con, thì dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin khắp mọi người đều phỉ nhổ”. tới phút cuối cuộc thế nàng vẫn khẳng định tấm lòng thủy chung son sắt ấy… Vũ Nương thật là người vợ giàu lòng tự trọng.
Ở thủy cung nàng vẫn không hề oán hận, vẫn ngóng chờ ngày về để sum hiệp với gia đình. Thẳm sâu trong tâm não của nàng vẫn là ước muốn được đoàn viên, được quay trở về dù chỉ một lần với chồng con, với cuộc sống gia đình hạnh phúc ngày xưa. . Khi Trương Sinh lập đàn tẩy oan, Vũ Nương chỉ trở về nói lời đa tạ rồi từ biệt. Nàng không hề trách móc, oán hận Trương Sinh, điều đó đã giúp chồng vơi bớt nỗi lòng, nỗi hối hận. Người phụ nữ nào cũng mong muốn được lợi cuộc sống hạnh phúc từ khá ấm gia đình, Vũ Nương cũng không phải trường hợp ngoại lệ, nhưng nàng không thể trở về.
Vũ Nương còn là một con dâu hiếu thuận, lễ nghĩa hết sức toàn vẹn và người mẹ hiền, nàng một mình chu đáo nuôi con nhỏ. Chồng đi ra trận mạc, nàng đã thay chồng gánh vác việc nhà, trọn đạo dâu con, tận tình săn sóc mẹ già. Sau đó ít lâu, nàng đã hạ sinh bé Đản.Nàng vừa một mình làm cha một mình làm mẹ. Sợ con buồn khi thiếu vắng cha, nàng đã chỉ bóng mình trên vách để nói với con đó là cha. Thế nhưng mọi việc đều được nàng chu tất lo lắng. Tác giả không trình bày trực tiếp nhưng ta có thể hiểu được Vũ Nương đã vất vả thế nào khi một mình quán xuyến mọi việc trong gia đình. Tuy vất vả cực nhọc là thế nhưng nàng vẫn chưa bao giờ oán than một lần. Đặc biệt, đối với mẹ chồng, nàng không hề ghét bỏ như người ta thường nói về mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu. Nàng nhiệt tình săn sóc thờ phụng mẹ chồng. Khi mẹ ốm, nàng cũng hết sức lo lắng khôn khéo lựa lời khuyên nhủ. Chính tấm lòng của Vũ Nương đã cảm động mẹ chồng. Ta có thể thấy câu nói của mẹ chồng Vũ Nương dành cho nàng “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, rồi con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con như con đã chẳng phụ mẹ”. Câu nói ấy là minh chứng rõ nét và thuyết phục nhất về phẩm chất của Vũ Nương. Mẹ chồng đã dành cho nàng những lời có cánh. Trước khi mất bà không lo lắng cho con trai cũng không oán trách số phận mà nói lời cảm ơn tới nàng dâu của mình. Việc đặt lời khen vào mẹ chồng đã tăng thêm tính trung thực và khách quan cho câu chuyện. Vũ Nương không chỉ quan tâm săn sóc mẹ chồng khi mẹ chồng đau ốm mà khi mẹ chồng mất đi “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ tính liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Tấm lòng ấy của nàng thật khiến ta cảm động. Vũ Nương là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam, mang trong mình vẻ đẹp phẩm chất rất đáng trân trọng, ngợi ca.
Một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đảm đang, hiếu thảo, nhất mực thủy chung và nhiệt tình vun vén, trân trọng hạnh phúc gia đình như thế, đáng lẽ ra phải được lợi hạnh phúc trọn vẹn.Nhưng thật ngang trái và nghịch lí thay nàng lại phải chịu một cuộc sống gia đình xấu số và phải chết trong đớn đau, xót xa, đầy nước mắt.
thảm kịch khởi đầu từ câu nói thơ ngây của trẻ con. Thật ra để dỗ con, Vũ Nương hay chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo rằng đó là cha của Đản. Bé Đản thơ ngây nói với Trương Sinh. Đản cũng như chính Vũ Nương không ngờ rằng chỉ một cái bóng ấy lại gây ra thảm kịch cho gia đình nàng. Trương Sinh vốn tính đã đa nghi nghe lời con đã vội khẳng định chắc nịch là vợ đã thất tiết. Vừa gia trưởng đa nghi lại vừa cố chấp, Trương Sinh khước từ mọi thời cơ giảng giải của Vũ Nương. Nàng nhiệt tình kêu oan nhưng trương Sinh không nghe không nói cho nàng rõ sự tình mà cứ nhất mực đánh đuổi nàng đi. tới những người láng giềng bênh vực nàng cũng không thể làm Trương Sinh động lòng. phẩm giá trong trắng và tấm lòng trinh trắng của nàng dành cho chồng. Cũng bởi vậy mà cuối cùng nàng đành lựa chọn lựa cái chết để khẳng định sự trinh trắng. Bởi lẽ với nàng khi trinh tiết đã bị nghi ngờ thì mạng sống này còn đáng giá gì. nếu như sống nàng chỉ có thể sống trong nhục nhã ê chề. Nên chỉ đành sử dụng cái chết để chứng minh. Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi khổ đau chờ chồng tới thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa.
Tấm lòng trinh trắng của nàng đã được người đời hiểu thấu, mối oan ức nhục nhã ấy đã được hóa giải. Những tưởng một kết thúc có hậu cho câu chuyện nhưng Vũ Nương lại lựa chọn lựa cách xa lánh cuộc thế không hội ngộ sống chung cùng chàng Trương. Vũ Nương không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi và trần thế không còn chỗ nào cho người như nàng nương tựa. Đàn tẩy oan chỉ có thể khôi phục danh dự cho nàng chứ không thể làm sống lại tình xưa. Giữa Vũ Nương và Trương Sinh, dòng sông là nơi tẩy oan, nơi tái ngộ, nhưng không thể vượt qua.
Cái kết của Vũ Nương càng khiến cho người đọc day dứt và từ đó lên án tố cáo xã hội phong kiến. những người phụ nữ chung thủy son sắt nhưng lại không được tôn trọng trong xã hội phụ quyền trọng nam khinh nữ. Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật khắc nghiệt, bất công với nữ nhi. “Phận phụ nữ” trong xã hội phong kiến cũ đớn đau, bạc phận, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khó tính như sợi dây oan trái trói chặt người phụ nữ. Và cũng như Vũ Nương, người phụ nữ trong xã hội suy vong ngày ấy luôn tìm tới cái chết để bảo vệ phẩm giá của mình.Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những thảm kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không tự ti với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những khổ đau không gì sánh được.
Người đọc cũng nhìn thấy không chỉ ngừng lại ở đó tác phẩm còn gián tiếp lên tiếng tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Chính chiến tranh phi nghĩa đã làm tan nát biết bao gia đình đang hạnh phúc êm ấm. nếu như Trương Sinh không đi lính, nếu như chàng không rời xa gia đình khi Vũ Nương sinh bé Đản thì có nhẽ họ vẫn là một gia đình hạnh phúc trạch êm trọn vẹn bên nhau. Nhưng cái hạnh phúc ấy lại quá đỗi mỏng manh bị thành kiến xã hội bóp nát. Trương Sinh mất vợ, Bé Đản mất mẹ còn Vũ Nương mất cả một đời. thảm kịch lại chồng chất tiếp nối thảm kịch.
Tính thảm kịch của truyện vẫn tiềm tàng ngay trong cái lung linh kỳ ảo, sắc thái bi đát vẫn nằm sau hình ảnh rực rỡ của truyền kì. Điều đó một lần nữa khẳng định niềm cảm thương của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức lôi cuốn và những trị giá mới. Phần này hoàn toàn là những tình tiết kì ảo, thể hiện tính chất truyền kì của truyện và tạo nên những trị giá thẩm mĩ mới mà truyện cổ tích chưa có.
Với sự sáng tạo cao về khắc họa nhân vật, cách kể chuyện, xây dựng kết thúc, phối hợp cùng việc khai thác vốn văn học dân gian và sử dụng tinh tế những yếu tố kì ảo, Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ đã giãi tỏ sự cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính thảm kịch của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Hơn hết, truyện truyền kì trung đại này cũng đã khẳng định nét đẹp tâm hồn của họ, chứa lên tiếng nói cho bao ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp, công bằng mà họ hằng hy vọng.
Ngợi ca phẩm chất tốt đẹp và bênh vực người phụ nữ không chỉ có Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ mà nhiều nhà văn, thi sĩ khác cũng đã đồng thời lên tiếng. Với tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã ngợi ca, trân trọng nhan sắc, tài năng, phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều như là những chuẩn mực, hình mẫu lí tưởng cho vẻ đẹp của con người mọi thời đại (Chị em Thúy Kiều). Nơi thanh lâu, tác giả đã khắc họa nỗi nhớ của Thúy Kiều đi liền với tình thương – một biểu hiện rất đáng trân trọng của đức hi sinh, lòng vị tha, chung thủy (Kiều ở lầu Ngưng Bích). Thiên tài Nguyễn Du cũng không quên gây ấn tượng cho người đọc với hình ảnh Thúy Kiều sống sâu nặng ân tình, sắc sảo, kiên quyết nhưng vẫn đầy khoan dung, khoan dung (Kiền hảo ân báo thù).
Bếp lửa của Bằng Việt lại xây dựng đầy cảm động hình ảnh người bà với tấm lòng phúc hậu, tình thương bát ngát, sự chu đáo, thái độ tĩnh tâm, vững lòng. Người bà đã trở thành chỗ dựa ý thức vững chắc cho cháu vượt qua mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh.
Người phụ nữ đi qua chiến tranh được khắc họa trong Những ngôi sao xa xôi lại càng đẹp hơn trong hình ảnh những cô thanh niên xung phong sống có ý thức trách nhiệm cao, quyết tâm hoàn thành tốt mọi công việc được giao; dũng cảm không sợ gian khổ, hi sinh; luôn trẻ trung, yêu đời; sống chan hòa, yêu thương nhau và luôn tin tưởng, lạc quan về thắng lợi cuối cùng của cách mệnh. có nhẽ vì vậy là không thể bỏ qua Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê trong những tác phẩm ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Những tác phẩm trên đã giúp người đọc nhận thức sâu sắc hơn về trị giá nội dung tư tưởng của tác phẩm, cũng như thấm thía hơn tình cảm của tác giả thể hiện trong từng nhân vật.
Với nội dung sâu sắc ấy, Chuyện người con gái Nam Xương đã đi vào quỹ đạo nhân văn chung của văn học dân tộc, tạo được sự cộng hưởng với nhiều tác phẩm viết về người phụ nữ cũng như kết nối bền chặt cùng tâm hồn người đọc bao thế hệ. Tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn để lại cho người đọc nhiều suy nghĩ. có nhẽ tất cả chúng ta đều tiếc nuối đau xót cho Vũ Nương người con gái với tấm lòng trinh trắng nhưng lại bất lực trước xã hội đầy thành kiến. Chuyện người con gái Nam Xương đã để lại nhiều suy nghĩ, day dứt, đầy thương cảm cho thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 5
Người phụ nữ trong xã hội xưa, họ phải sống trong những lễ giáo phong kiến. cuộc thế của họ phải chịu nhiều khổ cực, xấu số. Nguyễn Du đã từng bộc lộ:
“đớn đau thay phận phụ nữ
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung”
Trong những tác phẩm văn học thời viết về người phụ nữ phải kể tới “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Nàng Vũ Nương đã trở thành một trong những hình ảnh tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ xưa.
Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh – một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn sống giữ gìn mực thước để gia đình hòa thuận. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời thơ ngây của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương nhiệt tình giảng giải nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm tới cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn tẩy oan cho vợ, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.
Chỉ với vài lời giới thiệu đơn thuần, Nguyễn Dữ đã khắc họa cho người đọc thấy được hình ảnh một người phụ nữ mang đậm nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nàng không chỉ xinh đẹp ở bên ngoài mà còn mang những nét đẹp bên trong tâm hồn. Đó là một người vợ rất đỗi hiểu chuyện, lễ nghĩa. Biết chồng có tính hay nghi, luôn phòng ngừa vợ quá mức nhưng nàng vẫn không tủi thân mà phấn đấu sống giữ gìn để gia đình luôn hòa thuận. tới khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “trượng phu đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Người vợ nào mà không mong muốn chồng mình được thành danh, nhưng đối với Vũ Nương, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. Đó chính là một khát khao hết sức bình dị, thiết thực của người phụ nữ luôn mong muốn có được hạnh phúc.
Trong suốt những năm chồng nàng đi lính, Vũ Nương là một người phụ nữ nhưng lại gánh vác trách nhiệm của một trụ cột gia đình. Nàng vừa phải dạy dỗ con thơ, vừa phải săn sóc mẹ chồng. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai, nàng đã hết lời khuyên bảo. Khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; tính liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Quả hiếm có người con dâu nào được như Vũ Nương. Với đứa con thơ, vì thương con phải xa cha từ nhỏ, mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Người mẹ ấy đã nói láo đứa trẻ cái bóng chính là cha của mình. Sau khi đi lính trở về, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng nào ngờ cuộc thế Vũ Nương lại trở nên xấu số. Trương Sinh nghe tin mẹ già đã mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ ngon dỗ ngọt: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé thơ ngây hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Điều đó khiến Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình ở nhà đã có người đàn ông khác. Vũ Nương trở về bị chồng nghi ngờ nhiếc mắng. Dù tủi thân nhưng vẫn hết lời giảng giải. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm tới cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Thật xót xa cho số phận của một người phụ nữ xinh đẹp mà bạc phận. Chỉ vì lời thơ ngây của con trẻ, sự đa nghi của chồng mà phải tìm tới cái chết.
Nhưng Vũ Nương không mệnh chung, nàng được đức Linh Phi cứu và sống ở thủy cung. Khi gặp lại Phan Lang – một người sống cùng làng tình cờ cũng được Linh Phi cứu thoát chết dưới thủy cung liền giãi bày nỗi oan khúc của mình. Nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu như còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn tẩy oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Lúc bấy giờ, Trương Sinh đã hiểu rõ mọi chuyện, bèn lập đàn tẩy oan cho nàng, Vũ Nương hiện về thăm lại hai cha con. nhịn nhường như kết thúc của câu chuyện mà tác giả xây dựng đã thể hiện được niềm thông cảm và mong muốn về một cuộc sống hạnh phúc cho người phụ nữ xưa.
cuộc thế của Vũ Nương, vốn đã không được lựa chọn lựa tình yêu, hôn nhân. Mà nàng phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ theo quan niệm: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” của tư tưởng Nho giáo. Cuộc hôn nhân của nàng và Trương Sinh cũng gặp nhiều xấu số. Chiến tranh đã chia cắt hai vợ chồng để rồi chính chiến tranh cũng góp phần cho sự hiểu lầm của Trương Sinh. Sự ghen tuông, đa nghi của chồng cũng khiến nàng phải tìm tới cái chết mới có thể rửa sạch nỗi oan khúc. Tất cả những nguyên nhân ấy đã khiến cho cuộc thế của nàng trở nên xấu số hơn hết. Trong một xã hội đầy bất công vốn “trọng nam khinh nữ”, nàng Vũ Nương chỉ còn biết cam chịu và nhẫn nhục, nàng không thể phản kháng lại cái xã hội bất công ấy. Để rồi cuối cùng phải lựa chọn lựa cái chết chứng minh cho sự trong sạch của bản thân. Thông qua nhân vật Vũ Nương, Nguyễn Dữ đã tố cáo xã hội phong kiến khó tính, vô nhân đạo đã gây ra bao bất công cho người phụ nữ.
Tóm lại, qua nhân vật Vũ Nương, người phân tích thêm hiểu hơn về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Từ đó chúng ta thêm yêu thương, trân trọng hơn họ.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 6
Viết về số phận người phụ nữ là một đề tài thân thuộc trong văn học. tới với văn học Việt Nam trung đại, người đọc không thể không biết tới tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ. Qua hình ảnh nhân vật Vũ Nương, tác giả đã khắc họa trung thực thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Hình ảnh nhân vật Vũ Nương khiến cho người đọc cảm thấy ấn tượng: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương. Người đã thùy mị nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Vũ Nương chính là một đại diện cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến với đầy đủ những phẩm chất: công, dung, ngôn, hạnh. Tưởng rằng xinh đẹp tài năng là thế sẽ được lợi hạnh phúc, nhưng cuộc thế sau này lại chịu nhiều xấu số:
“đớn đau thay phận phụ nữ
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung”
(Nguyễn Du)
Nàng là một người vợ biết giữ gìn mực thước, không để vợ chồng bao giờ phải thất hòa. tới khi chồng phải đi lính, nàng cùng không nửa lời oán trách mà còn ân cần, dịu dàng dặn dò: “trượng phu đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Vũ Nương không mong muốn chồng trở về với vinh hoa phú quý hay công danh sự nghiệp, mà nàng chỉ mong muốn bình yên”. Một ước mong giản dị nhưng lại thể hiện được tình yêu thương sâu sắc dành cho chồng. Bởi bước ra nơi chiến trường là đụng độ với nghiêm trọng, chết chóc. Nên hy vọng chồng có thể trở về bình yên chính là điều thiết thực nhất.
Năm tháng không có chồng ở nhà, dù phải một mình nuôi con, săn sóc mẹ chồng nhưng Vũ Nương chẳng mảy may oán thán lấy một lời. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con, nàng vẫn hết lời khuyên bảo. tới khi mẹ chồng mất, nàng “hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ; tính liệu như đối với cha mẹ sinh ra”. Đứa con thơ còn nhỏ, nàng thương con và mong muốn con có một gia đình đầy đủ. Vũ Nương đã nói láo con, chỉ vào chiếc bóng và bảo rằng đó là cha Đản. Chính vì một lời nói láo vô hại ấy, sau này lại đem tới lại thảm kịch cho cuộc thế nàng.
Trương Sinh đi lính trở về, gia đình sum hiệp, tưởng rằng giờ đây cuộc sống sẽ được hạnh phúc, nhưng nào ngờ cuộc thế Vũ Nương lại trở nên xấu số. Nghe tin mẹ mất, hết sức đau lòng, liền bế con ra mộ thăm mẹ. Khi thấy đứa trẻ quấy khóc bèn dỗ ngon dỗ ngọt: “Con nín đi, đừng khóc! Lòng cha đã buồn khổ lắm rồi!”. Đứa bé thơ ngây hỏi cha: “Ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói thơ ngây của con trẻ đã khiến chàng nghi ngờ vợ là thất tiết. “Cái bóng” trở thành người cha để yên ủi con trẻ, nhưng lại trở thành lý do dẫn tới thảm kịch của Vũ Nương. Khi trở về, Trương Sinh liền mắng vợ một bữa cho lại gan. Dù Vũ Nương hết sức tủi thân nhưng nàng vẫn hết lời giảng giải cho chồng hiểu. Họ hàng, xóm thôn bênh vực cũng không ăn thua. Biết là vô tác dụng, nàng liền tìm tới cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Xót xa thay cho người phụ nữ mang danh là thất tiết, không thể thân oan cho sự trong sạch của bản thân, bị chồng ruồng bỏ và phải tìm tới cái chết để hết tội. cuộc thế người phụ nữ trong xã hội phong kiến vốn đầy những bất công. Không thể tự mình quyết định tình yêu, hôn nhân và cả cuộc thế. Họ phải cam chịu, nhẫn nhục mà không thể phản kháng lại cái xã hội phong kiến ấy:
“Thân em như con hạc đầu đình
Muốn bay chẳng chứa nổi mình mà bay”
Nhưng, câu chuyện mang tính nhân văn ở chỗ, tác giả đã xây dựng một kết thúc có hậu cho câu chuyện. Vũ Nương nhảy xuống sông, nhưng được chư tiên trong thủy cung thương mà cứu thoát, sống tại nơi thủy cung và gặp gỡ với Phan Lang – một người vốn sống cùng làng. Trước khi Phan Lang trở về, nàng gửi nhờ Phan Lang “một chiếc hoa vàng mà dặn”: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu như còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn tẩy oan ở bến sông, đốt cây thần đăng chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về”. Trương Sinh sau khi biết mình đã đổ oan cho vợ, nay lại nghe Phan Lang kể lại câu chuyện dưới thủy cung gặp được Vũ Nương được nàng nhờ vả, liền lập đàn tẩy oan cho vợ. Vũ Nương hiện về trong làn khói mờ ảo, gia đình ba người được gặp nhau. Một kết thúc không có thật ngoài cuộc sống. Đó giống như là một giấc mơ của nhân dân ta rằng những người tốt rồi sẽ có được hạnh phúc. Nhưng cũng chỉ ngừng lại ở ước mơ mà thôi, khi Vũ Nương không thể trở về cuộc sống trần thế, chỉ có thể tiếp tục cuộc sống ở thủy cung.
Qua phân tích trên, người đọc nhịn nhường như hiểu hơn về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Nhờ đó, chúng ta biết trân trọng và yêu thương họ nhiều hơn. Quả là một tác phẩm phẩm văn học luôn có sức lan tỏa và lay động mạnh mẽ tới tâm hồn con người.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 7
“Chuyện người con gái Nam Xương” chính là một câu chuyện hay và hấp dẫn của tác giả Nguyễn Dữ. Chính việc thông qua cuộc thế và số phận đầy thảm kịch và cũng thật đầy những khổ đau, gian truân của nhân vật Vũ Nương tác giả đã phơi bày khuân mặt xấu xa, cũng như thật là bất nhân của xã hội phong kiến đương thời đã giày đạp lên số phận người dân lao động, đặc biệt là thân phận những người phụ nữ.
Vũ Thị Thiết hay chính là Vũ Nương, là người con gái quê ở Nam Xương. Vũ Nương xuất thân trong gia đạo thật nghèo túng nhưng lại đẹp người và đẹp nết, trong vùng thật khó ai có thể so sánh. Nàng được gả cho Trương Sinh, gia tư khá giả lại có tính hay đa nghi, đã vậy lại luôn luôn có tính phòng ngừa quá mức khi chồng đi lính. Thế rồi ở nhà Vũ Nương ở nhà thay chồng tận tình thờ phụng mẹ già, chăm lo con nhỏ. Khi thiên hạ thái bình thì Trương Sinh trở về, đau buồn vì nghe tin mẹ mất đã vậy lại tin lời nói thơ ngây của con trẻ. Thế rồi nhân vật Trương Sinh nghĩ rằng vợ mình đã thất tiết nên đã có những hành động sỉ nhục, thoá mạ, đồng thời cũng đã đánh đập Vũ Nương tàn tệ khiến nàng phải tìm tới cái chết trên bến Hoàng Giang. Nhờ Phan Lang mà Trương Sinh hiểu ra sự tình nhưng cũng đã quá muộn, Vũ Nương vĩnh viễn không trở về.
Nguyễn Dữ cũng đã tỏ ra quan tâm tới những con người bình dân vốn rất nhỏ bé trong xã hội phong kiến. Ta nhận thấy được trước và sau ông, không ai có tấm lòng bao dung tới vậy. Người đọc cũng có thể dễ dàng nhận thấy được chính nhân vật Vũ Nương là tụ họp vẻ đẹp của một con người lý tưởng. Ở Vũ Nương thì nàng lại có đầy đủ vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam. trước hết đó chính là việc Vũ Nương là một người con gái có ngoại hình xinh đẹp, lại thêm tính cách cao quý. Thực sự thì chính vẻ đẹp ấy được Nguyễn Dữ giới thiệu ngày từ đầu thiên truyện đó chính là những câu văn “Vũ Thị Thiết… tính đã nết na thùy mị, lại thêm tư dung tốt đẹp”. quả tình chính với sự phối hợp toàn vẹn giữa vẻ đẹp hình dung và vẻ đẹp tâm hồn khiến cho người con gái tên Vũ Nương trở thành mẫu người lý tưởng của xã hội phong kiến đương thời.
Chưa hết, khi về làm vợ Trương Sinh, người đọc như một lần nữa lại thấy được ở Vũ Nương thì chính những phẩm chất tốt đẹp ấy có dịp để thể hiện, phô bày nàng rất hiếu thảo với bên chồng, yêu mẹ chồng và con rất đỗi, sống thật chí tình chí nghĩa khiến láng giềng ai cũng mến yêu.
Thế rồi ta như nhận thấy được cũng chính tấn thảm kịch đời nàng xảy ra từ lúc mới bước chân về làm vợ Trương Sinh. mặc cho dù nàng chẳng làm điều chi trái ý. Nhưng đối với vợ, lúc này đây thì nhân vật Trương Sinh lúc nào cũng tỏ ra phòng ngừa quá mức. Có thể nhận thấy được chính sự phòng ngừa của trương Sinh khẳng định chàng chưa từng tin vào tiết hạnh của vợ. Và đó chính là một điều sỉ nhục trước hết đối với phẩm hạnh của Vũ Nương. Tuy nhiên, có thể nhận thấy được ở nàng Vũ Nương lại luôn biết giữ phận, nàng đã làm việc chu đáo, giữ được hòa khí vợ chồng. Thực sự cuộc sống có vẻ bình yên nhưng có nhẽ đối với nàng có chút căng thẳng, hạnh phúc gắng gượng gập lại. Thế nhưng ở những người phụ nữ thì cũng thật khó khăn, tuy vậy nào đi chăng nữa thì thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ vẫn luôn bị coi rẻ.
Nhận thấy được hoàn cảnh chiến tranh gây ra cảnh ly biệt. Có thể nhận thấy chiến tranh khắc sâu tính cách của Trương Sinh, tất cả nhịn nhường như cũng lại đã làm cho tính đa nghi của chàng có dịp bùng phát lớn. Người đọc cũng có đôi phần hiểu được tuy không nói một lời nào nhưng có nhẽ Trương Sinh không hề tin vợ. Thế rồi ngay cả lúc ra trận, chàng không hề nói một lời từ biệt với Vũ Nương mà cứ lẳng lặng mà đi. có nhẽ chính vì vậy cho nên khi trở về, ta như cũng thấy được cũng chỉ cần một tín hiệu nhỏ thôi, và đáng nói ở đây đó chính là một tín hiệu mơ hồ chưa chắc chắn mà Trương Sinh cũng đã khép tội cho Vũ Nương mặc những lời giảng giải của nàng. Không chịu nổi nữa, vô vọng thì nàng tới cái chết. Thực sự người đọc sẽ không thể nào mà quên được chi tiết Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang. Chi tiết này đã khiến cho người đời mãi mãi xót xa về tấn thảm kịch đẫm đầy nước mắt của người phụ nữ trong xã hội xưa họ tốt đẹp, họ xinh đẹp tương tự nhưng chịu nhiều oan ức. Thông qua đây ta như thấy được đó cũng chính là tấn thảm kịch cái đẹp bị giày đạp, bị rẻ rúng và những thân phận của người lao động, đặc biệt là những người phụ nữ họ bị vùi dập không tiếc thương. Đồng thời thông qua đây cũng chính là bản án sắt đá tố cáo khuân mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời.
Có thể khẳng định được rằng chính hình tượng nhân vật Vũ Nương chính là hiện thân của tấm lòng vị tha. Vũ Nương cũng chính là vẻ đẹp của người phụ nữ toàn tài nhưng lại bị xã hội bất công vùi dập.
Thông qua nhân vật Vũ Nương ta như thấy được ngòi bút của Nguyễn Dữ đã hướng tới thể hiện và trân trọng, đồng thời đó cũng chính là sự ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ, họ chung thủy, đoan trang và nhân hậu. Thế rồi cũng lại giãi tỏ sự thông cảm sâu sắc đối với nỗi khổ đau và ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp cho những con người thông thường nhất mà ở họ lại có được những phẩm chất tốt đẹp. Không ngừng lại ở đó truyện như còn tố cáo mạnh mẽ chế độ phong kiến khắc nghiệt, cửa quyền, xã hội phong kiến mục ruỗng như thật nhẫn tâm đẩy con người vào bước đường cùng không lối thoát.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 8
Từ thuở xa xưa, người phụ nữ được cho là những người chân yếu tay mềm, chỉ biết phụ thuộc, chẳng làm được trò đời trống gì, bị khinh bỉ rẻ rúm, bị đàn áp dưới chế độ nam quyền. Nhưng chính họ lại luôn là đề tài phổ biến, truyền cảm hứng sáng tác cho những tác giả trong nền văn học trung đại Việt Nam. Và Vũ Nương – một người phụ nữ tiêu biểu trong xã hội phong kiến có rất nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp oan trái và có cuộc thế xấu số – đã được tác giả Nguyễn Dữ khắc họa thành công qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Trước hết, Vũ Nương là người phụ nữ tụ họp nhiều nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của nàng được thể hiện trong nhiều mối quan hệ ở từng hoàn cảnh khác nhau. Khi còn là một thiếu nữ, Vũ Nương sở hữu nét tính cách thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp nên nàng được người người quý mến. Sau khi được gả về nhà chàng Trương, nàng là người vợ thủy chung son sắc, nhiệt tình chăm lo cho gia đình nhỏ. Biết chồng có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn mực thước nghi lễ, không để xảy ra bất hòa. Ngày tiễn chồng lên đường ra nơi biên ải, Vũ Nương như xé lòng dặn dò chồng đầy tình nghĩa: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Với lời dặn dò của nàng, ta thấy Vũ Nương không hề mong được vinh quang hiển hách mà chỉ cầu sao cho chồng được bình an. Không chỉ vậy, nàng còn thông cảm với những vất vả khó khăn mà sau này chồng mình sẽ phải chịu đựng phía trường chinh.
Những năm tháng xa chồng, Vũ Nương không những thương nhớ mà còn thủy chung chờ chồng trở về:” Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Ngày qua ngày, tháng qua tháng, năm rồi lại năm, nỗi nhớ chồng của nàng chưa có khi nào có xu thế giảm, cứ kéo dài theo năm tháng:” Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.”
Trong quan hệ với mẹ chồng, Vũ Nương là một nàng dâu vô cùng ngoan ngoãn, hiếu thảo. Mẹ chồng lâm bệnh nặng, nàng săn sóc tận tụy chu đáo, lo thuốc thang trị liệu, lo lễ bái thần phật, dịu dàng sử dụng lí lẽ ngọt ngào khuyên bảo hy vọng bệnh tình của bà mau qua. Biết mình không thể tiếp tục cõi đời, bà mẹ chồng đã kịp thời trăng trối trước lúc lâm chung để khẳng định về tư cách, công lao đức độ của Vũ Nương đối với bà: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ chồng mất, nàng một mình một thân lo việc ma chay tế lễ như đối với cha mẹ đẻ của mình. Tấm gương tảo tần nghĩa hiếu ấy khó ai mà có được trong hoàn cảnh mồ côi mồ cút, vất vả như nàng.
Trong quan hệ với con, Vũ Nương là người mẹ lành đảm đang nhiệt tình yêu thương con, một mình nuôi con với tất cả tình yêu nàng gom góp của mình và của người cha đứa bé nơi chiến trường vì sợ con thiếu thốn tình cảm. Những đêm con khóc, nàng thường dỗ ngon dỗ ngọt con bằng cách chỉ vào bóng mình trên vách tường và nói đó là cha nó.
Không những thế, Vũ Nương còn là người trọng danh dự, phẩm giá. Điều này được thể hiện qua tình huống khi nàng bị nghi oan, Vũ Nương hết mình tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ bằng phương pháp phân trần, giảng giải. Hình ảnh nàng trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang đã khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng của nàng. Khi đã quy tiên, sống yên ổn ở một toàn cầu khác, Vũ Nương không nguôi nhớ về nơi trần tục, về chồng con, về quê hương đất tổ và mong được tẩy oan.
tương tự, Vũ Nương quả là một người phụ nữ đẹp nết đẹp người, tháo vát đảm đang, hiếu thảo, thủy chung, nhiệt tình bồi đắp hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp của nàng như ánh hào quang tỏa sáng ngay cả khi đã về nơi suối vàng. Thật đáng trân trọng và cảm phục biết bao!
Một người phụ nữ có rất nhiều phẩm chất tốt đẹp như Vũ Nương lẽ ra phải được lợi hạnh phúc nhưng nàng lại gặp số phận đắng cay trái ngang đầy oan trái và có cuộc thế vô cùng xấu số. trước hết, Vũ Nương là nạn nhân của tư tưởng phong kiến nam quyền, hôn nhân bị mua bằng tiền nong, không tình yêu. Mặt khác, cuộc sống hôn nhân giữa nàng và Trương Sinh có phần không đồng đẳng vì Vũ Nương là “con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Trương Sinh đã xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm dâu. Sự cách bức giàu nghèo đã tạo thêm cái thế cho Trương Sinh- người đàn ông gia trưởng trong một gia đình giàu có dưới xã hội phong kiến – để hắn có thể dễ dàng giày đạp lên thân phận Vũ Nương.
Cái thứ hai, Vũ Nương là nạn nhân của cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa. Gia đình đang yên ấm hạnh phúc thì phải “chia phôi vì động việc lửa binh”. Những ngày ở nhà, Vũ Nương mòn mỏi đợi chờ chồng, ngóng trông đầy thương nhớ như nàng vọng phu hoài cổ. Ngày sum họp lại là ngày “bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao liễu tàn trước gió”. Do có tính đa nghi lại thêm lời con trẻ nói nên bỏ ngoài tai lời vợ phân trần, bà con láng giềng bênh vực. Đó là lí do mà Trương Sinh luôn mồm nhiếc mắng, nguyền rủa, đuổi đánh, dồn đẩy nàng tới cái chết đầy đau thương. Thật xót xa cho nàng! Chỉ vì lời nói của con trẻ, chỉ vì anh chồng hồ đồ ghen tuông xa xôi, độc đoán mà phải kết liễu cuộc thế.
Tóm lại, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ chính là hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ trong xã hội xưa và cũng là lời tố cáo về xã hội phong kiến nam quyền ngày xưa. Từ đó cho thấy sự thông cảm cho số phận Vũ Nương của tác giả tài hoa Nguyễn Dữ.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 9
Người phụ nữ luôn là đề tài thân thuộc được thể hiện trong văn học thời trung đại. Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành công với bài thơ “Bánh trôi nước”, đại thi hào Nguyễn Du với tuyệt tác “Truyện Kiều” và Nguyễn Dữ – học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Chuyện người con gái Nam Xương” – thiên thứ 16 của “Truyền kì mạn lục”. Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem tới bao suy tư, trằn trọc cho người đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công.
“Chuyện người con gái Nam Xương” xoay quanh về cuộc thế và số phận bi thảm của Vũ Nương – người con gái nhan sắc, tiết hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính. Chàng đi đầy tuần, Vũ Nương sinh con trai, nhiệt tình nuôi dạy con, săn sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Qua câu chuyện kể, ta thấy người phụ nữ là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công. cuộc thế của họ là một chuỗi dài những khổ đau, xấu số.
Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khó tính, ngặt nghèo. Biết nàng “tính đã thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp” cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không đồng đẳng, bởi lẽ nó không phải là sự rung động của hai trái tim cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó “cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó”. Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn luôn tự ti “thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Dù Vũ Nương có luôn giữ gìn mực thước thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm tàng nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu, thô bạo.
Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa rời, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tai họa ập xuống cuộc thế Vũ Nương. Chỉ vì lời nói thơ ngây của bé Đản: “ơ hay! Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biết nói chứ không giống như cha tôi trước kia…”, làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hàng xóm thôn có nhiệt tình khuyên can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới, mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ “la um lên cho lại gan”, Trương Sinh đã nhiếc mắng, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng cho phép người đàn ông được quyền khinh thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn mực thước, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ… Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị nhiếc mắng và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng xóm thôn bênh vực và biện bạch cho. Hạnh phúc gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm thèm khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi khổ đau chờ chồng tới hóa đá trước đây, cũng không còn có thể có lại được nữa. Thất vọng tới tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khúc và tiết hạnh của nàng: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược ưng ý chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Qua tác phẩm, ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng gập để vượt lên số phận nhưng cuộc thế nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, giày đạp và ức hiếp con người.
Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử – một cái chết đầy oan ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự vẫn chỉ một tí động lòng mà không hề hối hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự, chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khúc của cái xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi” có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu xa của những khổ đau mà người phụ nữ phải chịu.
Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc thế Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già quyến luyến, vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa chưa khuyến luyến sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàm lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”
Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa rời, mẹ già cũng vì thương nhớ con mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé… Chính chiến tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa rời dẫn tới hiểu lầm. Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây xấu số cho cuộc thế Vũ Nương. nếu như không có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính, thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn tới cái chết thương tâm. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn tới cảnh từ biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình.
Có thể nói, sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm tới cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc thế đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc thế, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán:
“đớn đau thay phận phụ nữ
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung”.
Viết về cuộc thế và số phận bi thảm của Vũ Nương, của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, tác giả Nguyễn Dữ đã tố cáo, lên án xã hội bất công, vô nhân đạo, giày đạp lên quyền sống của con người. Đây cũng là tiếng kêu thương đầy nước mắt, là sự xót xa thương cảm của tác giả trước nỗi oan khiên mà người phụ nữ phải gánh chịu.
Qua “Chuyện người con gái Nam Xương”, ta xót xa thương cảm cho người phụ nữ xấu số trong xã hội xưa bao nhiêu, ta càng căm giận cái xã hội thối nát, bất công đã đẩy người phụ nữ vào vòng oan trái bấy nhiêu. Đọc tác phẩm, ta lại càng thêm nâng niu, trân trọng cái tài, cái tâm của người con huyện Thanh Miện, Hải Dương dành cho những thân phận bọt bèo trong xã hội phong kiến đương thời.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 10
Xem Thêm : Top 26 bài Nghị luận về lòng yêu nước ngắn gọn
“Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ nhìn thoáng qua ngỡ là những câu chuyện ma quái, hoang đường nhưng ngẫm kĩ đó lại là bức tranh đời sống của xã hội thực tế. Chỉ qua truyện ngắn ’’Chuyện người con gái Nam Xương”, đặc biệt là qua số phận của nhân vật chính trong tác phẩm – nàng Vũ Nương – ta đã phần nào hiểu thêm về số phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ đẹp đẽ, tiết hạnh nhưng phải chịu một số phận khổ đau xấu số khiến người đọc vừa yêu mến, trân trọng lại vừa đồng cảm, xót thương.
Nàng Vũ Nương trong tác phẩm có một nét đẹp vẹn toàn, hài hoà giữa vẻ đẹp ngoại hình và vẻ đẹp tâm hồn “vừa đẹp người vừa đẹp nết”. Và đó cũng chính là vẻ đẹp tiêu biểu cho những người phụ nữ Việt Nam. Điều đó khiến người đọc luôn dành cho Vũ Nương một niềm yêu mến, trân trọng lớn lao.
Là người vợ, người mẹ hay người con dâu Vũ Nương luôn làm tròn nghĩa vụ của mình. Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.” Vũ Nương đã “giữ gìn mực thước, không từng lần nào vợ chồng phải tới thất hoà.”. Hai vợ chồng chia li Vũ Nương một lòng nghĩ tới sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. […] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lòng luôn tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được.” Ngay cả khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết giãi tỏ nỗi niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng nhiệt tình săn sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên nhủ.”, thương yêu, lo lắng toàn vẹn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, tính liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”- Đặc biệt, tấm lòng nàng dành cho mẹ chồng khiến bà cảm động: khi mất, những lời cuối cùng của cuộc thế bà dành để chúc phúc cho con dâu.
Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, Vũ Nương đã chọn lựa cái chết để chứng minh phẩm tiết. Hành động này cho thấy lòng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ này.
Nhưng càng yêu quý, trân trọng những người phụ nữ tương tự bao nhiêu ta càng xót thương cho số phận của họ bấy nhiêu. Thật là những tấm lụa đào phất phơ giữa chợ, những trái bần trôi bị gió dập sóng dồi, những hạt mưa sa tan tác…
Xinh đẹp, tiết hạnh tương tự nhưng nàng có một cuộc hôn nhân không được lựa chọn lựa: Trương Sinh là một kẻ vô học nhưng giàu có “xin với mẹ đem trăm lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này không có quyền lựa chọn lựa cho mình một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng chẳng khác nào một cuộc trao đổi bán mua.
Về nhà Trương Sinh, ổn thoả được một thời gian rồi chiến tranh phong kiến cũng cướp đi cái hạnh phúc gia đình nàng đã cố công giữ gìn. Không chỉ vậy, những mực thước cũ xưa lỗi thời được chiến tranh tiếp tay một lần nữa hại đời Vũ Nương. Và lần này đã dập vùi đời nàng vĩnh viễn. Quen theo nếp nghĩ, nếp sống trưởng giả, Trương Sinh nghi ngờ cho tấm lòng sắt son của vợ, không cho nàng thanh minh lấy nửa lời. Sự lựa chọn lựa của Vũ Nương: tự sát tự vẫn đã phản ánh một thực tế: xã hội phong kiến xưa không có chỗ cho những con người đẹp đẽ như nàng, nàng không thể thuộc chốn ấy. Nhưng như thế cũng có nghĩa nàng phải từ giã hạnh phúc trần gian, từ bỏ gia đình, con cái…
Người đọc nhẹ lòng khi Vũ Nương được thân oan chiêu tuyết nhưng vẫn nhói lòng bởi cái chết đã khiến nàng một đi không trở lại, để dở dang cả quãng đời đương độ viên mãn tròn đầy nhất.
Yêu mến và xót thương, hai dòng xúc cảm không khi nào nguôi khỏi tấm lòng người đọc đối với thân phận người phụ nữ xưa qua hình ảnh nàng Vũ Nương. Càng yêu thương những viên ngọc bị dập vùi ấy ta càng căm phẫn trước những thế lực phong kiến đen tối, hủ lậu giày đạp lên quyền hưởng hạnh phúc, quyền được sống của con người. Nguyễn Dữ và bao thi sĩ, nhà văn khác hẳn đã nhân đạo biết bao khi viết về những con người như thế, khơi dậy trong lòng người những xúc cảm thẩm mĩ nhân đạo hướng tới cái thiện cái mỹ của cuộc thế này… Và vì vậy, ta càng trân trọng hơn hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa mà nàng Vũ Nương, nàng Kiều, … là những hiện thân sống động.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 11
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Những câu thơ trên là những câu thơ trong bài Bánh trôi nước của thi sĩ Hồ Xuân Hương. Bài thơ là lời bộc bạch đầy đau xót về thân phận những người phụ nữ trong xã hội cũ. Họ là những người phụ nữ thùy mị, nết na nhưng cuộc thế họ lại vô cùng đớn đau và đầy thảm kịch. Họ không có quyền chọn lựa lựa cuộc sống cho mình mà phải chịu đựng sự rẻ rúng, bất công của xã hội phong kiến cổ hủ thời xưa. Cùng đề tài với bài thơ này là hình ảnh nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của nhà văn Nguyễn Dữ. Đọc truyện, ta mới thấu hiểu được những nỗi đau mà người phụ nữ phải chịu thực sự cùng cực tới nhường nào.
Sự bất công đối với người phụ nữ trong xã hội cũ được thể hiện ngay từ khi cuộc hôn nhân của Vũ Nương và Trương Sinh khởi đầu. Vũ Nương được tác giả nhắc tới là một người phụ nữ “tính tình thùy mị, tư dung tốt đẹp”. Chính vì lẽ đó mà Trương Sinh đem lòng cảm mến nàng, xin mẹ một trăm lượng vàng để cưới về. Ở đây, ta thấy được chỗ đứng của những gia đình có tiền, có quyền. Chỉ cần có tiền là có thể bắt ép bất kì ai. Cuộc hôn nhân của Vũ Nương và Trương Sinh là một cuộc hôn nhân không đồng đẳng, nó không xuất phát từ tình yêu thật sự tới từ cả hai phía mà chỉ đơn thuần là một cuộc mua bán đúng nghĩa. Ta có thể hiểu được điều này bởi trong xã hội phong kiến, con người ta vẫn phải chịu đựng sự sắp xếp của cha mẹ “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”. Vũ Nương ngay từ đầu đã không có quyền chọn lựa lựa cuộc hôn nhân cũng như cuộc sống của chính mình. Nàng chỉ như một cánh hoa thuận theo dòng nước giống như nhân vật Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
hay như sự cập kênh, phụ thuộc vào người khác của hình ảnh bánh trôi: “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”. Thương thay cho số phận đắng cay, tủi hờn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến! Chuỗi thảm kịch cuộc thế của nàng tiếp tục kéo dài khi sau bao nhiêu năm đằng đẵng chờ chồng, Vũ Nương lại bị người chồng của mình gán cho tội không chung thủy. Trương Sinh hồ đồ, độc đoán chỉ một mực tin vào lời của con nhỏ mà vội vàng xét nét, hồ nghi người vợ chung chăn chung gối với mình. Hành động nhiếc mắng và đuổi vợ đi của Trương Sinh cho thấy sự hống hách, phô trương của chế độ nam quyền độc đoán. Rằng ở trong chế độ này, nam nhân có thể làm tất cả mọi thứ, kể cả thoá mạ, xỉ nhục người phụ nữ của mình. Họ coi số phận của người phụ nữ như một món hàng, rẻ mạt và vô trị giá. Biết bao nhiêu sự hi sinh, bao nhiêu năm tháng tuổi xuân chờ chồng và thờ phụng cha mẹ chồng như chính cha mẹ đẻ của Vũ Nương giờ đây đã tan thành mây khói. Dù nàng đã thiết tha biện bạch: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn đã từng nguội lòng. Đâu có mất nết hư thân như lời chàng nói”. Có chăng vì sự đơn chiếc nên người mẹ mới lấy cái bóng của mình để dỗ ngon dỗ ngọt con nhỏ, lại trở thành cái cớ để Trương Sinh hằn học, xúc phạm làm nhục nàng?
Bị nhiếc mắng, đuổi ra khỏi nhà, Vũ Nương không còn cách nào khác để thân oan cho bản thân, nàng đành chọn lựa cách đau lòng nhất. Đó là trẫm mình xuống dòng sông Hoàng Giang tự vẫn. Trước khi chết, nàng đã phải thề nguyền: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám”, nỗi oan ức của nàng có nhẽ chỉ có đất trời mới thấu, chỉ có thần sông mới hiểu… Cái kết cho cuộc thế của Vũ Nương cũng chính là cái kết đầy thảm kịch của những người phụ nữ sống trong thời kì phong kiến. Đâu đó ở trong tấn thảm kịch của họ, ta nhìn thấy bóng vía của người đời hỉ hả, vô tình trước một xã hội phong kiến thối nát lúc bây giờ.
Có thể nói, cuộc thế và số phận bi đát của Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương đã tố cáo sắt đá tội ác của xã hội phong kiến đầy bất công, oan trái. Vũ Nương hay chính là đại diện cho cả một phòng ban những người phụ nữ nói chung, là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán và là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. nếu như có bất kì một ai đứng ra thân oan cho nàng, hay nếu như người chồng độc đoán ấy mà chịu xem xét, phân tích rõ ngọn ngành thì có nhẽ Vũ Nương đã không phải chịu thảm kịch đớn đau tương tự.
Khép lại thiên truyện thứ 16 trong tác phẩm Truyền kì mạn lục của nhà văn Nguyễn Dữ, người đọc không khỏi khâm phục trước tài năng viết truyện tuyệt vời của ông. Truyện không chỉ nêu lên số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ mà còn cho thấy cái nhìn và tấm lòng của tác giả đối với nhân vật khi tới cuối truyện, ông đã để cho Trương Sinh biết rằng mình đã nghi oan cho vợ dù là muộn màng. Ông để cho Vũ Nương được Linh phi cứu và tẩy oan. Nhìn lại thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, ta thầm cảm ơn vì cho tới hiện tại, người phụ nữ đã được đối xử đồng đẳng, họ là những con người “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” và đặc biệt là không phụ thuộc vào bất cứ ai.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 12
thi sĩ Huy Cận từng viết:
“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”
Có thể nói, ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn vinh. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc thế và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn thơ hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thay, trong xã hội cũ người phụ nữ lại phải chịu một số phận đầy thảm kịch và đáng thương: Văn học thời ấy cũng đã nhắc nhiều tới kiếp đời của người phụ nữ, mà có nhẽ tiêu biểu trong số ấy là nhân vật Vũ Nương “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Người phụ nữ ngày xưa xuất hiện trong văn học thường là những người phụ nữ đẹp. Từ vẻ đẹp ngoại hình cho tới tính cách, nhưng mỗi người lại mang một vẻ đẹp khác nhau, mỗi thân phận có một đặc điểm ngoại hình riêng biệt.
Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là tiếng nói đồng cảm, trân trọng, ngợi ca của tác giả đối với con người đặc biệt là người phụ nữ. Toàn bộ câu chuyện xoay quanh cuộc thế và số phận bi thảm của người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương. Phải nói rằng Nguyễn Dữ không có ý định cho Vũ Nương mang đức tính của một phụ nữ yêu nước hay một mỹ nhân nơi gác tía lầu son. Vũ Nương là người phụ nữ bình dân vốn con kẻ khó có một khát khao bao trùm cả cuộc thế – đó là thú vui nghi gia nghi thất. Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng “tính cách đã thuỳ mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp”.
Càng đi sâu vào trong câu chuyện ta càng thấy vẻ đẹp của nàng được tác giả tập trung thể hiện rõ nét. Trong những ngày đoàn viên ít ỏi, dù Trương Sinh con nhà hào phú tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá sức nhưng nàng khéo léo cư xử, giữ gìn mực thước nên gia đình không khi nào phải thất hòa. Khi tiễn chồng đi lính, mong ước lớn nhất của nàng không phải là công danh phú quý mà là thèm khát ngày chồng về “mang theo hai chữ bình yên thế là đủ rồi”.
Những ngày chồng đi xa, nàng thực sự là một người mẹ hiền, dâu thảo, săn sóc thuốc thang tận tình khi mẹ chồng đau yếu, ma chay tế lễ chu tất khi mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời truyền tụng đẹp đẽ nhất về Vũ Nương vào mồm của chính mẹ chồng nàng khiến nó trở nên vô cùng ý nghĩa: “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Người thiếu phụ tận tụy, hiếu nghĩa ấy còn là một người vợ thuỷ chung đối với chồng. Trong suốt ba năm chồng đi chinh chiến, người thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp đó một lòng một dạ chờ chồng, nuôi con: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được mọi người yêu mến bằng tính tình, phẩm hạnh của nàng. Trong cái nhìn nâng niu trân trọng của ông, Vũ Nương là con người của gia đình, tiết hạnh của nàng là tiết hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo, một người yêu mến cuộc sống gia đình và làm mọi việc để giữ gìn, vun vén cho hạnh phúc. Tục ngữ có câu:
“Hoa thơm ai chẳng nâng niu
Người ngoan ai chẳng thương yêu mọi bề”
Hay:
“Gái có công thì chồng chẳng phụ”
Thế nhưng công lao của Vũ Nương không những không được biết tới mà chính nàng còn phải hứng chịu những phũ phàng của số phận. Nàng phải một mình một bóng thầm lặng nuôi già dạy trẻ, những nỗi khổ về vật chất đề nặng lên đôi vai mà nàng phải vượt qua hết. Những tưởng khi giặc đã tan, chồng về, gia đình được sum vầy thì không ngờ giông bão đã ập tới, bóng đen của cơn ghen đã làm cho Trương Sinh lú lẫn, mù quáng. Chỉ nghe một đứa trẻ nói những lời thơ ngây mà anh đã tưởng vợ mình hư hỏng. Trương Sinh không những không tra hỏi mà đánh đập phũ phàng rồi ruồng rẫy đuổi nàng đi, không cho nàng thanh minh. Bị dồn vào bước đường cùng, Vũ Nương phải tìm tới cái chết để kết thúc một kiếp người. có nhẽ thảm kịch của Vũ Nương không phải là trường hợp cá biệt mà kinh khủng thay là số phận của rất nhiều chị em phụ nữ, là kết quả của bao nhiêu nguyên nhân mà chế độ phong kiến đã sản sinh ra làm số phận của họ thật bi đát. Từ những kiếp đời bạc phận ấy, Nguyễn Dữ đã góp phần khái quát nên thành lời kiếp khổ đau của người phụ nữ, mà từ xa xưa số phận ấy cũng đã được thể hiện trong lời ca dao
“Thân em như hạt mưa xa
Hạt rơi xuống giếng, hạt ra ngoài đồng”
Trong tác phẩm này có được sự sáng tạo tài tình chi tiết về chiếc bóng oan trái để phê phán xã hội phong kiến và nói lên số phận của người phụ nữ trong xã hội đó thật mỏng manh. Cái bóng là một chi tiết nghệ thuật sáng tạo, độc đáo, giàu ý nghĩa. Chi tiết này xuất hiện tác dụng thắt nút câu chuyện (đẩy những tranh chấp tới đỉnh điểm). Cái bóng xuất hiện trong lời nói đùa của Vũ Nương khi nói với con. Những ngày xa rời, bé Đản luôn hỏi về bố. Thương đứa con ra đời chưa biết mặt cha, muốn tạo cho con ý niệm trước hết về người cha để nó không cảm thấy thiếu vắng, luôn cảm thấy hình ảnh cha sắp gũi bên mình. Vũ Nương chỉ cái bóng mình trên vách và nói với con đó là cha Đản. Trong những tháng ngày xa chồng, nàng luôn nghĩ về người chồng yêu dấu, trong suy nghĩ của nàng, chồng luôn ở kế bên, vợ chồng như hình với bóng. Vũ Nương Chỉ vì muốn con vui, muốn bớt buồn, và giải khuây khi sống đơn chiếc vò võ nuôi con. Chắc hẳn người thiếu phụ chỉ muốn nguôi đi cảm giác con mình đang sống vắng cha. Nhưng nàng đâu thể ngờ từ trò chơi này làm tan nát đời nàng, không ngờ một lời nói đùa trong thương nhớ lại trở thành sợi dây vô tình, oan trái thắt chặt cuộc thế nàng. Chính điều này đã gây ra cho nàng bao nỗi xấu số, tủi nhục. Chính vì cái bóng mà nàng đã mất chồng, Đản đã mất mẹ
nếu như truyện được kể thật đúng theo trình tự thời gian thì chi tiết chiếc bóng phải được kể trước khi Trương Sinh trở về. Nhưng không ngờ Nguyễn Dữ lại tài hoa tới tương tự. Đã ỉm nhẹm lại cái chi tiết giật gân ấy. Rồi bùng nén ra ở một vị trí thích hợp đã gây ra bão giông, khuấy lên sóng gió. Không còn gì để ngăn được cơn tức tối của kẻ có tính hay ghen Trương Sinh nổ bùng. Thú vui nghi gia nghi thất, hạnh phúc duy nhất, niềm mong ước duy nhất của một đời Vũ Nương trong phút chốc trở nên hoàn toàn tan vỡ. Cái bóng không là một nhân vật nhưng nó lại tham gia đắc lực vào câu chuyện, nó trở thành một chi tiết nghệ thuật đắt giá khiến câu chuyện hấp dẫn người đọc. Chính cách thắt nút và mở nút câu chuyện bằng chi tiết cái bóng đã làm cho cái chết của Vũ Nương thêm oan ức và trị giá tố cáo xã hội nam quyền đầy bất công với phụ nữ càng thêm sâu sắc.
Bình đã rơi, trâm đã gãy, liễu đã tàn trước gió, sen đã rũ trong ao, người thiếu phụ chung tình mà bạc phận chỉ còn có thể tìm tới cái chết để giãi bày tấm lòng trong trắng của mình.
Người phụ nữ đẹp là thế, vậy mà đáng tiếc thay họ lại sống trong một xã hội phong kiến thối nát với bộ máy quan lại mục rỗng, chế độ trọng nam khinh nữ vùi dập số phận họ. Càng xinh đẹp ngoan hiền thì họ lại càng khổ đau, lại càng phải chịu nhiều sự chèn lấn, bất công. Như một quy luật khắc nghiệt của thời bấy giờ “hồng nhan bạc phận”. Đớn đau thay số phận của nàng. Nàng đã gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn. Và người đời sẽ lưu truyền thêm một tấm thảm kịch về số phận người phụ nữ. Tấm thảm kịch về cái đẹp bị giày đạp phũ phàng.
Tấm thảm kịch này là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tuông ích kỷ, sự hồ đồ vũ phu của gã đàn ông và luật lệ phong kiến khắc nghiệt dung túng cho sự độc ác hủ bại. Đó còn là lễ giáo phong kiến khắc nghiệt với tư tưởng nam quyền độc đoán đã biến Trương Sinh thành một bạo chúa gia đình. Để nghìn đời trên bến Hoàng Giang, khắc khoải niềm thương và nỗi khiếp sợ dằng dai về một người thiếu phụ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, chung tình mà bạc phận!
Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ Nương. Khi thì cách xử thế, khi thông qua lời nói, khi hành động, khi thái độ, hình ảnh Vũ Nương hiện lên là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hoá. Đó là lời nhắn nhủ. Hãy quan tâm tới thân phận người phụ nữ, tới số phận con người. Hãy tôn vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương tới hạnh phúc lứa đôi và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được hạnh phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc. Có được hạnh phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được lâu bền lại càng là một điều khó khăn hơn. Đó là tất cả ý nghĩa mà chúng ta có thể nhìn thấy được từ: “Chuyện người con gái Nam Xương”.
Câu chuyện về nàng Vũ Nương khép lại nhưng dư vang về sự bất bình, căm ghét xã hội phong kiến vô lương, vô nhân đạo thì còn mãi. Thời đại phong kiến trọng nam khinh nữ, đầy rẫy những sự bất công oan trái. Bị tác động và phải chịu đựng nhiều nhất chính là người phụ nữ. Thế nhưng, những người phụ nữ ấy vẫn luôn xinh đẹp, nết na, giàu lòng thương yêu và rất đỗi quan tâm tới mọi người xung quanh. Ta có thể bắt gặp lại hình ảnh của họ qua những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam. Trong một xã hội phong kiến suy vong và thối nát lúc bấy giờ, số phận của người phụ nữ thật bé nhỏ, long đong long đong. có nhẽ vì vậy mà em càng yêu mến, trân trọng xã hội tốt đẹp mà em đang sống ngày hôm nay.
Suy nghĩ về thân phận người phụ nữ – Mẫu 13
Trong văn học trung đại đã có rất nhiều tác giả viết về đề tài người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến. Ví như Nguyễn Dữ với tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương đã khắc hoạ nhân vật Vũ Nương – một đại diện cho hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến với những phẩm chất tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều khổ đau.
Vũ Nương là một người phụ nữ xuất thân bình dân có “tư dung tốt đẹp”. Nàng được Trương Sinh con trai nhà hào phú trong làng “mang trăm lạng vàng” cưới về làm vợ. Nhưng chính sự không đồng đẳng trong quan hệ gia đình, đồng tiền đã phát huy “sức mạnh” của nó khiến cho Vũ Nương luôn sống trong tự ti “con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Biết chồng bản tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn mực thước, không để vợ chồng có mối thất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu, Trương Sinh bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng ra trận, nàng rót chén rượu đầy và nói những lời dặn dò đượm tình thuỷ chung: “Thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ…”. Điều ước ao lớn nhất của nàng không phải là danh vọng, tiền nong mà là một cuộc sống gia đình đầm ấm yên vui. Trong những tháng ngày chồng đi xa, một mình nàng phải chèo lái con thuyền gia đình. Nàng săn sóc, thuốc thang cho mẹ chồng đau ốm, bệnh tật như đối với cha mẹ đẻ. Sự hiếu thảo của nàng khiến bà hết sức cảm động, trước khi qua đời bà đã nhắn nhủ : “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, nòi tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.”. Không chỉ vậy nàng còn phải chăm lo cho đứa con thơ vừa sơ sinh. Vì thương con, lo cho con thiếu thốn hình bóng người cha và cũng để nàng gửi gắm nỗi thương nhớ, mong mỏi chồng, Vũ Nương đã nghĩ ra tuồng cái bóng. Đêm đêm, nàng chỉ vào cái bóng của mình trên tường và nói với đứa con nhổ rằng đó là cha nó. Xã hội phong kiến trong buổi suy vong khiến con người luôn cảm thấy bất an: chỉ một trò đùa, một vật vô tri, vô giác như cái bóng cũng khiến hạnh phúc gia đình tan vỡ. Qua năm sau, việc quân kết thúc, Trương Sinh về tới nhà. Nghe lời của đứa con, chàng chẳng thèm suy nghĩ dù đó là lời nói của một đứa trẻ hồn nhiên, thơ ngây và quá mập mờ. Trương Sinh nhiếc mắng vợ rồi đánh đuổi nàng đi, không cho nàng giảng giải. Nàng thật sự thất vọng. Hạnh phúc gia đình đã tan vỡ. Tình yêu, lòng tin không còn. Thất vọng tới tột cùng, chán ngán vô hạn, nàng đã tìm tới cái chết để thanh minh cho bản thân. Niềm tin vào cuộc sống đã mất khiến cho Vũ Nương không thể trở về với cuộc sống trần gian dù điều kiện có thể.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến cũng đều giống như Vũ Nương. Số phận của họ như đã được định đoạt từ trước. Sinh ra mang kiếp phụ nữ thì dù giàu nghèo sang hèn không trừ một ai, lời “bạc phận” cũng đã trở thành “lời chung” – như Nguyễn Du đã viết trong Truyện Kiều :
“đớn đau thay phận phụ nữ,
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung”
Họ là nạn nhân của chế độ phong kiến với những điều luật khắc nghiệt, bất công với nữ nhi. ơ đó sinh mạng người phụ nữ không được coi trọng, họ bị mua bán, trả giá một cách công khai. Ở cái xã hội ấy, họ chỉ như một thứ đồ vật vô tri, không được có ý kiến hay thanh minh cho bản thân. Vũ Nương chết đi mang theo nỗi oan tột cùng, nhưng người gây ra tất cả những thảm kịch trên là Trương Sinh lại không bị xã hội lên án và cũng không tự ti với bản thân. Ngay cả khi nỗi oan ức ấy đã được giải thoát, Trương Sinh cũng không bị lương tâm cắn rứt, coi đó là việc đã qua rồi, không còn đáng nhắc lại làm gì nữa. Xã hội phong kiến đã dung túng cho những kẻ như Trương Sinh, để người phụ nữ phải chịu những khổ đau không gì sánh được.
Trong ca dao cũng nhắc tới người phụ nữ với sự khổ đau tương tự:
“Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài những, hạt ra ruộng cày”
Dù ca dao có xuất xứ từ nhân dân lao động, nhưng nó vẫn phản ánh đúng số phận của người phụ nữ – “những hạt mưa sa”. “Hạt mưa ấy” không biết mình sẽ rơi vào đâu: một nơi “đài những” hay ra “ruộng cày” ? Dù đó là đâu, dù muốn hay không họ cũng phải chấp nhận.
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ phong kiến, bà cũng hiểu số phận của mình sẽ bị xã hội đưa đẩy thế nào. Bà đã viết:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non”
Bà không cam chịu sống cuộc sống bất công tương tự. Bà đã khẳng định người phụ nữ phải có một vị trí khác trong xã hội. Nhưng sự phấn đấu của bà chỉ như một tia sáng hiếm hoi trong chuỗi đời u tối của người phụ nữ. Xét cho cùng, những khổ đau ấy tới với họ cũng là do họ sống quá cam chịu, quá dễ dàng thỏa hiệp. nếu như như họ biết đấu tranh tới cùng, nếu như như họ không chọn lựa cái chết để thanh minh thì những bất công ấy sẽ không có điều kiện phát triển.
Chúng ta đều xót thương và thông cảm cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Là một con người sống trong thời đại mới, ta thật hạnh phúc khi không phải bó buộc vào những luật lệ, thói quen xấu ấy.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nhân vật Vũ Nương
Nguyễn Dữ là một nhà nho sống vào thế kỉ XVI, nổi tiếng với tập văn xuôi viết bằng chữ Hán: Truyền kì mạn lục. Trong tác phẩm này, nhà văn tập trung phản ánh hiện thực của xã hội thời phong kiến Việt Nam thời bấy giờ đầy bất công, đen tối, chiến tranh liên miên, gây khổ đau cho dân lành. Đồng thời ông cũng chứa lên tiếng thở dài ngao ngán, đông cảm xót thương cho cuộc thế ngang trái, xấu số của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tiêu biểu là tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” với nhân vật Vũ Nương, một người phụ nữa nết na, hiền lành, tiết hạnh nhưng cuộc thế lại chịu nhiều oan khúc, đắng cay, tủi nhục.
Trong tuyệt tác Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du cũng đã từng kêu lên:
đớn đau thay phận phụ nữ
Lời rằng bạc phận cũng là lời chung.
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Sống trong xã hội phong kiến ngày xưa, cuộc thế người phụ nữ thời long đong, long đong, gặp nhiều hoàn cảnh đắng cay. Cho nên không biết bao nhiêu thi sĩ đã chứa lên tiếng thở dài ngao ngán đồng cảm xót thương cho cuộc thế ngang trái, xấu số của người phụ nữ trong xã hội cũ. Với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ, một nhà văn tài hoa, mang trong mình trái tim nhân đạo bát ngát rộng lớn cũng đã góp một tiếng nói bênh vực người phụ nữ.
Câu chuyện xoay quanh cuộc thế khổ đau và số phận bi thảm của nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương một người phụ nữ nết na, hiền lành, tiết hạnh nhưng cuộc thế lại chịu nhiều oan khúc, đắng cay, tủi nhục.
Vũ Nương là người con gái tiết hạnh, thủy chung với chồng, tận tụy với con và hiếu thuận với cha mẹ. tiết hạnh của nàng không những được láng giềng ghi nhận mà còn khiến cho thần linh phải cảm động.
Trương Sinh mến vì dung hạnh, vậy nên không tiếc bạc tiền, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức” nên “nàng cũng giữ gìn mực thước, không từng để lúc nào vợ chồng phải tới bất hòa”.
Khi chiến tranh xảy ra, Trương Sinh dù là con một nhưng vẫn bị bắt đi lính. Khi tiễn chồng, nàng ân cần dặn dò chồng. Nàng không mong chồng “đeo được ấn phong hầu, áo gấm trở về quê cũ” cho cha mẹ rỡ ràng, bản thân mình thì được sống trong cảnh sang giàu, phú quý mà chỉ mong ngày về “mang theo được hai chữ bình yên” để vợ chồng sớm được sum vầy, vui hưởng hạnh phúc. Lời dặn dò chân tình, tha thiết thể hiện tấm lòng yêu thương chồng của Vũ Nương. Đối với nàng, mạng sống của chồng mới là quan trong còn như chuyện công danh phú quý nàng đâu màng nghĩ tới.
Rồi trong những ngày chồng đi vắng, nàng luôn sống trong nỗi đơn chiếc, mòn mỏi đợi chờ, ngày đêm thương nhớ chồng: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”, lòng xót xa quặn thắt, “thổn thức tâm tình thương người đất thú” phải vất vả nơi biên ải xa xôi. Chiến tranh dằng dai triền miên, dẫu nàng có nhớ có thương, thư tín nghìn hàng thì cũng không dễ gì tới được tay chàng.
Khi chồng ra đi, nàng ở nhà làm tròn nghĩa vụ vợ hiền dâu thảo, sớm tối thờ phụng mẹ chồng, một mình nuôi dạy con thơ đúng như lời Đặng trần Côn đã từng trình bày trong “Chinh phụ ngâm khúc”:
“Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân”
Gánh nặng gia đình đè lên vai nhỏ bé. Dù trăm bề vất vả nhưng nàng không một lời than vãn. Mẹ chồng ốm đau bệnh thiến nàng “hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào, khuôn khéo khuyên nhủ”. tới khi người mất “phàm việc ma chay tế lễ, tính liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình”. Chính mẹ chồng nàng lúc sinh tiền cũng ghi nhận tấm lòng thơm thảo hiếu kính ấy mà bảo rằng: “Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Là người phụ nữ nết na tiết hạnh, đảm đang, tháo vát, thương chồng thương con, thủy chung son sắt khiến cho người ta phải đem lòng kính phục. Thế nhưng tiếc thay người con gái nết na, hiền lành, tiết hạnh ấy không được lợi một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc mà phải gánh lấy số phận bi thảm:
Khi Trương Sinh trở về, vợ chồng chưa vui câu sum họp, hưởng trọn ân ái cho bõ những tháng ngày xa rời thì bỗng đâu tai họa bất thần ập tới. Chỉ vì một phút nông nổi, hồ đồ, tin lời trẻ con, chưa tra rõ thực hư mà Trương Sinh đã một mực nghi ngờ, vu vạ cho vợ mình ở nhà thất tiết khiến cho hạnh phúc gia đình tan vỡ.
Lời nói vu vơ của bé Đản làm dấy lên nỗi hoài nghi của trương Sinh lâu nay: “trước đây thường có một người đàn ông, đêm nào cũng tới, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” đã làm máu ghen tuông trong lòng chàng liền bột phát, bản tính đa nghi hồ đồ. Trương Sinh chẳng thèm nghĩ tới chuyện hỏi han vợ cho tường tận mọi lẽ mà cứ “đinh ninh là vợ hư”, khinh thường đạo nghĩa vợ chồng, nỡ sinh lòng phản trắc, tằng tịu tư tình với người khác trong những ngày mình đi vắng.
Vậy nên vừa “về tới nhà, chàng đã la um lên cho lại gan”. Chỉ thương cho Vũ Nương bỗng dưng phải chịu hàm oan, bị chồng khinh thường khinh rẻ. Muốn níu giữ hạnh phúc gia đình và để cho chồng hiểu rõ lòng mình, nàng hết lời phân trần, biện bạch: nào là “cách biệt ba năm, giữ gìn một tiết”, chàng biền biệt nơi biên ải xa xôi, nàng ở nhà làm tròn nghĩa vụ vợ hiền dâu thảo. Chàng đi rồi nàng đâu thiết gì tới việc “điểm phấn tô son” làm đẹp bản thân mình; những “nơi liễu ngõ tường hoa” ong bướm trai gái dìu dặt, cũng “chưa từng bén gót”. Suốt ngày chỉ thui thủi trong nhà giữ gìn tiết hạnh thì làm sao “có chuyện mất nết hư thân như chàng đã nói”.
Lời lẽ phân trần rất mực đoan trinh, hợp tình hợp lí. Lại thêm có mọi người xung quanh chứng giám. Chỉ tiếc rằng Trương sinh vì quá đa nghi, nông nổi, hồ đồ và ích kỉ nên không thấu được nỗi oan tình của vợ. Trương Sinh đã tàn nhẫn nhiếc mắng, đánh đập, xua đuổi nàng ra khỏi nhà mà không hề nghĩ tới nghĩa vợ chồng. Nghĩ rằng hạnh phúc gia đình đã tan vỡ, không thể nào cứu vãn được nữa nên nàng chỉ biết ngậm ngùi đau xót thở than, tiếc cho mối lương duyên giờ đây như “bình rơi, trâm gãy, mưa tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió,… đâu còn có thể lại lên núi vọng phu kia nữa”.
Rồi trong cơn đớn đau, vô vọng, Vũ Nương quyết định tự sát nơi bến sông Hoàng giang, quyết sử dụng cái chết để rửa sạch nỗi oan tình, chứng tỏ lòng dạ ngay thẳng. Trước khi chết nàng ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu như đoan trang giữ tiết, trinh trắng gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược ưng ý chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”.
Quả là lời lẽ bi ai thống thiết, đớn đau như đứt từng khúc ruột khiến ta đọc xong cũng cảm thấy xót xa thương cảm cho người con gái nết na tiết hạnh mà không được lợi cuộc sống bình yên hạnh phúc. Suốt đời nàng phải chịu nỗi hàm oan, tiếng nhơ không rửa, hạnh phúc tuổi xuân phút chốc bị chôn vùi, tấm thân ngọc ngà phải chìm sâu nơi biển cả. thương ôi, cái giá của ba năm thủ tiết chờ chồng, vất vả thờ phụng mẹ già nuôi dạy con thơ, sống đơn chiếc mòn mỏi đợi chờ chính là người bị người chồng đầu ấp tay gối lớn tiếng vu vạ, đánh đập, đuổi xua, đẩy mình tới bước đường cùng, phải tìm tới cái chết oan trái.
Dù sau này, Trương sinh có hiểu ra sự tình, Vũ Nương được trở về trần gian. Nhưng nàng trở về là để nói rõ oan tình và từ biệt vĩnh viễn chốn dương gian. Cái dương gian lạnh lẽo tình người ấy đã không còn chỗ để người tốn đẹp và thẳng ngay như nàng dung thân nữa rồi.Quả là thật đắng cay, tủi nhục và cũng thật bất công biết bao nhiêu!
cuộc thế và số phận thảm khốc của Vũ Nương đã khiến cho bao người cảm động. Vua Lê Thánh Tông lúc đi ngang qua miếu thờ Vũ thị, nhớ lại chuyện xưa, xót thương người bạc phận mà khéo trách Trương Sinh rằng:
“ngun ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy tới nàng
Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt
tẩy oan chẳng lọ mấy đàn tràng
Qua đây luận bàn mà chơi vậy
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.”
(Lại viếng Vũ thị)
Có thể nói, cuộc thế và số phận bi thảm của nàng Vũ Nương cũng là cuộc thế và số phận bi thảm của biết bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời. Một xã hội trọng nam khinh nữ đầy rẫy bất công thối nát. Trong xã hội ấy người phụ nữ càng tài sắc, nết na tiết hạnh thì càng phải chịu nhiều khổ đau oan trái, bị oan mà không thể nói lời phân trần tẩy oan. Số phận của họ hoàn toàn do người khác định đoạt.
Khi người chồng đã lớn tiếng phán xét họ là người phụ nữ thất tiết, họ chỉ có ba lựa chọn lựa. Hoặc là rời bỏ xứ sở mà đi xa, suốt đời mang tiếng nhuốc nhơ. Hoặc nương nhờ nơi chốn từ bi, sống cho qua ngày đoạn tháng (Thị Kính). Hoặc sử dụng cái chết của mình chứng minh tấm lòng trong sạch thủy chung (Vũ Nương). tuyến đường nào cũng đưa người phụ nữ tới cảnh đoạn trường, khổ đau. Sống trong xã hội đó quyền sống, quyền hạnh phúc của người phụ nữ bị giày đạp, vùi dập không tiếc thương.
Qua Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã mạnh mẽ tố cáo những hủ tục xã hội khó tính và nói lên số phận xấu số, bi thảm của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời đồng thời thể hiện sự trân trọng của ông đối với những phẩm chất cao đẹp của họ.
Nguồn: http://grabhanoi.com
Danh mục: Lớp 9