Top 6+ bài Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ

Văn mẫu lớp 11: Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ là tài liệu vô cùng hữu ích, được tổng hợp từ bài văn đạt điểm cao. Từ đó những bạn lớp 11 có thêm nhiều gợi ý học tập, biết cách vận dụng những thao tác lập luận để phân tích hình ảnh ông Tú hay. Trong bài viết dưới đây GrabHanoi giới thiệu tới những bạn 6 bài phân tích hình ảnh ông Tú hay nhất, mời các bạn cùng theo dõi tại đây. 

Dàn ý phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ

a) Mở bài

– Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm:

  • Trần Tế Xương – một ánh sao lạ vụt sáng trên bầu trời văn học nước Việt với những bài thơ mang tư tưởng li tâm Nho giáo.
  • Thương vợ là một bài thơ tiêu biểu của Trần Tế Xương.

– Khái quát hình ảnh ông Tú: không chỉ thể hiện thành công hình tượng trung tâm là bà Tú mà bài thơ cũng đặc biệt thành công hình ảnh ông Tú với những phẩm chất đáng quý.

Xem thêm: Tuyển tập văn mẫu phân tích bài thơ thương vợ của tú xương chọn lọc mới nhất 

b) Thân bài

* Ông Tú là người có tấm lòng thương vợ sâu sắc

– Ông Tú cảm thương cho sự vất vả, lam lũ của bà Tú

– Ông thương bà Tú vì phải mang gánh nặng gia đình, quanh năm lặn lội “mom sông”:

  • Thời gian “quanh năm”: làm việc liên tục, không trừ ngày nào
  • Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định.

=> Ông Tú thương hoàn cảnh làm ăn vất vả, xuôi ngược, không vững vàng, ổn định, bà không những phải nuôi con mà phải nuôi chồng.

– Ông thương vợ phải lặn lội bươn chải khi làm việc:

  • “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng
  • Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn
  • “khi quãng vắng”: thời gian, không gian hẻo lánh rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo lắng.
  • “ỉ eo… buổi đò đông”: cảnh chen lấn, xô đẩy, tranh giành ẩn chứa sự bất trắc
  • Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cảnh đông đúc

-> Tấm lòng thương xót da diết của ông Tú trước thực cảnh mưu sinh của bà Tú

– Ông phát hiện và trân trọng, ngợi ca những đức tính tốt đẹp của vợ

Ông cảm phục bởi tuy vất vả nhưng bà Tú vẫn chu đáo với chồng con:

“nuôi”: săn sóc hoàn toàn “đủ năm con với một chồng”: một mình bà Tú phải nuôi cả nhà, không thiếu

Ông Tú trân trọng sự siêng năng, tảo tần đảm đang của vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận”: chấp nhận, không than vãn

“dám quản công”: đức hy sinh thầm lặng cao quý vì chồng con, sự tảo tần, đảm đang, nhẫn nại.

=> Trần Tế Xương đã trân trọng đề cao phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu thương chịu thương chịu khó, tận tình vì chồng vì con của bà Tú.

* Ông ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ và căm phẫn trước xã hội đẩy người phụ nữ vào bất công

– Người đàn ông trong xã hội phong kiến đáng lẽ ra phải có sự nghiệp hiển hách để lo cho vợ con, nhưng ở đây, ông Tú ý thức được bản thân là gánh nặng của vợ.

  • “Nuôi đủ năm con với một chồng” : Tú Xương ý thức được hoàn cảnh của mình, nhận mình có khuyết thiếu, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con và mình, coi mình là một đứa con đặc biệt.
  • “Một duyên hai nợ”: Tú Xương cũng tự ý thức được mình là “nợ” mà bà Tú phải gánh chịu
  • “Có chồng hờ hững cũng như không”: Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng là một biểu hiện của thói đời

– Từ tấm lòng thương vợ, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc đẩy người phụ nữ vào bất công

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều đắng cay vất vả

=> Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mà lên tiếng chửi, ông căm phẫn xã hội đẩy người phụ nữ vào ngang trái bất công.

c) Kết bài

– Khẳng định lại những nét nghệ thuật tiêu biểu góp phần thể hiện thành công hình ảnh ông Tú

– Trình bày suy nghĩ bản thân

Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ – Mẫu 1

Thơ xưa viết về người vợ đã ít mà viết về vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi hơn. những thi nhân chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, kể cũng là điều nghiệt ngã, khi người vợ đi vào thiên thư mới được đi vào địa hạt thi ca. Bà Tú có thể đã chịu nghiệt ngã của thế cục nhưng lại có được niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có được. Ngay lúc còn sống, bà đã đi vào thơ ông với tất cả niềm yêu thương, trân trọng của chồng. Ông Tú phải thương vợ lắm thì mới hiểu và viết được như thế. Trong thơ ông ta bắt gặp hình ảnh bà Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp theo sau.

Trong bài thơ, hình ảnh bà tú hiện lên rõ nét qua những nét hoạ của Tú Xương, nhưng để làm được điều đó hẳn ông phải là một người chồng yêu thương và hiểu vợ rất nhiều. Ông luôn dõi theo những bước đi đầy gian truân của bà Tú, thương nhưng chẳng biết làm gì, chỉ biết thể hiện nó qua thơ ca. Bằng những lời thơ chất phác, mộc mạc thực lòng, tú Xương đã khắc họa rõ nét hình ảnh bà Tú với lòng yêu thương da diết. Mỗi chữ trong thơ Tú Xương đều chất chứa bao ý tình, yêu thương và lòng cảm phục sâu sắc:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Từ “đủ” trong “nuôi đủ” vừa nói rõ số lượng, vừa nới chất lượng. Bà Tú nuôi cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo tới mức: “Cơm hai bữa cá kho rau muống. Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Tuy chỉ ẩn hiện đằng sau hình ảnh bà Tú, khó thấy, nhưng khi đã thấy rồi thì ấn tượng thật sâu đậm, ở đây cũng vậy, ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện qua từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hài, trào phúng là một tấm lòng không chỉ thương mà còn là tri ân vợ. Có người nghĩ rằng, trong câu thơ trên, ông Tú tự coi mình là một đứa con đặc biệt để bà Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mà tách riêng rẽ ròi là để ông tự riêng tri ân vợ. thi sĩ không chỉ cảm phục hàm ân sự hi sinh rất mực của vợ mà ông còn tự trách mình, tự lên án bản thân. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là do duyên, nhưng duyên một mà nợ hai. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít, nợ nhiều. Ông chửi thói đời bội nghĩa, vì thói đời là một nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ, sự hờ hững của ông với vợ con cũng là một biểu hiện của thói đời bội nghĩa.

Ở cái xã hội đã có luật bất thành văn đối với người phụ nữ: “Xuất giá tòng phu”, đối với quan hệ vợ chồng thì “phu xướng, phụ tuỳ” vậy mà có một thi sĩ dám sòng phẳng với bản thân, với thế cục, dám tự thừa nhận mình là quân ăn bám vợ, không những đã biết nhìn thấy thiếu sót, mà còn dám tự nhận thiếu sót. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao. Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện đầy đủ vẻ đẹp nhân văn của tâm hồn Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ biết thương vợ mà còn hàm ân vợ, không chỉ để lên án thói đời mà còn là để trách bản thân. thi sĩ dám tự nhận thiếu sót, càng thấy mình khuyết thiếu, càng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình yêu thương, quý trọng vợ là xúc cảm có phần mới mẻ so với những xúc cảm thân thuộc trong văn học trung đại. xúc cảm mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và tiếng nói thân thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương vừa mới lạ, độc đáo vẫn rất sắp gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tiềm thức dân tộc.

Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ – Mẫu 2

Trong thơ Tú Xương có cả một mảng đề tài riêng viết về người vợ – bà Tú. Ở những bài thơ này, bà Tú bao giờ cũng xuất hiện trước và khuất lấp phía sau là hình ảnh ông Tú. Dù chỉ là nét vẽ thoảng qua nhưng khi đã nhìn thấy hình dáng ông trong đó người đọc sẽ vô cùng ấn tượng, nhớ mãi về một người đàn ông yêu thương và trân trọng vợ mình. Trong bài thơ Thương vợ, hình ảnh ông Tú cũng thấp thoáng hiện lên nhưng để lại biết bao ấn tượng với người đọc.

Bài thơ vượt bậc lên là chân dung bà Tú lam lũ, tảo tần “quanh năm kinh doanh ở mom sông” nuôi sống gia đình. Nhưng đằng sau bức tranh chủ đạo ấy ta còn thấy một bức tranh khác cũng không kém phần đặc sắc chính là hình ảnh ông Tú với lòng yêu thương, quý trọng và tri ân vợ. Không chỉ vậy, ông còn là người có tư cách cao đẹp.

Trước hết, Tú Xương là người có tình yêu thương vợ sâu sắc:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Ông tuy không kinh doanh cùng vợ nhưng ánh mắt trái tim ông thì vẫn một lòng hướng theo bà, để quan sát, để yêu thương bà Tú hơn khi cảm thấy hết những vất vả, cực nhọc mà bà Tú phải trải qua. Đặc biệt tự trân quý, yêu thương đó được thể hiện rõ nhất trong câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, đây là lời ông kể công, tính công cho vợ. Xuân Diệu đã từng nhận xét: “Chồng cũng là một thứ con còn dại, phải nuôi. Đếm con, năm con chứ người nào lại đếm chồng, một chồng – tại vì phải nuôi như con cho nên mới liệt ngang hàng mà đếm để nuôi cho đủ”. Đặc biệt chữ “đủ” gợi cho ta nhiều ý nghĩa, nhiều cách hiểu, đủ – đủ thành phần trong gia đình: cả cha và con; đủ – đủ mọi thứ ăn uống, vui chơi: “Cơm hai bữa cá kho rau muống/ Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”. Đồng thời ông Tú cũng tự tách riêng mình với năm đứa con để cảm nhận hết tình yêu thương của vợ và dành lời tri ân sâu sắc dành cho bà Tú. có nhẽ phải là một người yêu thương, trân trọng vợ tận tình ông mới có thể hạ cái tôi cao quý của mình để nói lời tri ân, cảm ơn sâu sắc đối với vợ tới tương tự.

Không chỉ vậy, Tú Xương còn là con người có tư cách, điều đó được thể hiện rõ nhất qua lời tự trách: “Một duyên hai nợ âu đành phận”. Bà Tú lấy ông cái duyên, nhưng đồng thời cũng là cái nợ, là gánh nặng. Duyên tới với nhau thì ít mà nợ với nhau thì nhiều. Ông Tú tự nhận mình chính là cái nợ mà bà Tú cả đời này phải đèo bòng, bà có trách nhiệm phải trang trải. Mặc dù gánh trên mình trách nhiệm nặng nề nhưng người vợ không hề ta thán, kể công, như một lẽ thường tình của người phụ nữ Việt Nam, bà sẵn sàng hi sinh tất cả cho chồng con. Câu nói “âu đành phận” “dám quản công” như một lời Tú Xương nói hộ nỗi lòng vợ, đồng thời cũng là lời kể công thay cho vợ. Câu thơ như tiếng thở dài não nùng của người chồng thương vợ và có tư cách.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không

Tiếng chửi thói đời những tưởng là tiếng nói phẫn uất của bà Tú, nhưng thực chất đó là lời tác giả tự trách chính mình, tự phê phán chính mình, đó là cách thể hiện tình cảm rất đặc biệt Tú Xương dành cho vợ. Thói đời ở đây có thể hiểu là những quy tắc nghiêm nhặt, cổ hủ của chế độ phong kiến đã đẩy người vợ vào công cuộc mưu sinh với bao khó khăn, vất vả thậm chí cả nguy hiểm. Đó còn là thói vô cảm của người đàn ông, không quan tâm, không sẻ chia những nhọc nhằn trong cuộc sống với vợ. Tiếng chửi là lời nói phẫn uất, nhưng cũng chất chứa biết bao yêu thương, trân trọng, lòng hàm ân Tú Xương dành cho vợ.

Bằng tiếng nói giản dị, tình cảm thực lòng sâu sắc Tú Xương đã góp một xúc cảm mới mẻ vào văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ không chỉ thấy sự tảo tần, hi sinh của bà Tú, mà còn thấy được tình yêu thương, sự tri ân mà tác giả dành cho vợ. từ đó còn làm sáng lên tư cách cao đẹp của Tú Xương.

Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ – Mẫu 3

Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam Tú Xương là thi sĩ viết về vợ nhiều nhất. “Thương vợ” là bài thơ thành công nhất trong mảng đề tài này của ông. Bài thơ đã khắc họa trung thực hình ảnh bà Tú một người vợ, người mẹ, người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu thương chịu khó và giàu lòng hi sinh dành cho chồng con. Nhưng ẩn đằng sau đó là hình ảnh ông Tú mang trong mình nét đẹp tư cách và tâm hồn. Một người chồng thương yêu, thông cảm và tri ân sâu sắc với vợ dám đựng lên tiếng chửi đời, chửi mình và nhận thiếu sót bản thân.

Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. thế cục của Tú Xương là thế cục của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến thuộc loại nhà Nho “Dài lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vào người vợ của mình. Mọi tiêu pha trong gia đình đều do một tay bà Tú suy tính.

Trong sáu câu thơ đầu hiện lên là chân dung và nét đẹp phẩm chất của bà Tú. Công việc vất vả, gian truân “Quanh năm” kinh doanh ở trên mảnh đất cheo leo, bốn bề bao quanh là nước đầy rẫy những nghiêm trọng chốn “mom sông” để kiếm ăn “Nuôi đủ năm con với một chồng” gánh nặng gia đình đặt lên đôi vai người phụ nữ chân yếu tay mềm mà tấm lòng son sắt, kiên cường, dai sức. Chỉ một từ “đủ” đã nói lên được chất lượng và số lượng, đủ cơm ăn áo mặc cho cả một gia đình năm con, một chồng không phải là điều dễ dàng. Tú Xương phải là một người chồng thương vợ rất đỗi mới có thể dõi theo từng bước chân đi của vợ, quan sát được từng nét biểu cảm trên gương mặt bà Tú khi “lặn lội thân cò”, khi “ỉ eo mặt nước buổi đò đông” Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò và ý thơ trong ca dao “con cò lặn lội bờ sông” mà đặc tả sự vất vả của bà Tú. Sự cực khổ ấy được nâng lên thành một thân phận một kiếp người vì duyên nợ mà “Âu đành phận”, “năm nắng mười mưa dám quản công”. Câu thơ khiến cho ta nhớ tới câu ca dao:

“Một duyên, hai nợ, ba tình
Chiêm bao lẩn khuất bên mình năm canh”

Ngoài cái duyên cái nợ còn có cái tình cái nghĩa vợ chồng. những số từ tăng tiến: một, hai, năm, mười càng thể hiện sức dồn nén, chịu đựng của bà Tú càng làm dâng lên nỗi lòng thông cảm, thương xót của Tú Xương dành cho vợ.

Tú Xương tuy chỉ xuất hiện gián tiếp ẩn sau hình ảnh bà Tú, thi sĩ không chỉ cảm phục, cảm thương và tri ân vợ mà còn mượn lời bà Tú lên án thói đời bội nghĩa “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”, chính quan niệm lễ giáo phong kiến khó tính về “Tam tòng tứ đức”, “Xuất giá tòng phu” là nguyên nhân sâu xa khiến cho bà Tú cùng với biết bao người phụ nữ xưa phải khổ cực, chịu nhiều đắng cay. Ông cũng tự trách, tự chửi bản thân mình “hờ hững cũng như không”, tự trách mình là kẻ ăn bám “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm mà ông coi mình là món nợ đời “một duyên hai nợ” mà bà Tú phải gánh vác, duyên thì ít mà nợ thì nhiều. Ông tự trào bằng lối viết hóm hỉnh, độc đáo vừa là để ngợi ca công lao vợ vừa là chê trách, nhận thiếu sót về bản thân mình. Một con người dũng cảm dám nhìn thấy sự thiếu sót, thiếu trách nhiệm của một người chồng đối với vợ “thưng đấu nhờ lưng một mẹ mày”, của người cha đối với con và trách nhiệm của người đàn ông đối với gia đình. Ông biết nhận lỗi, biết đền bù lại bằng những câu thơ tha thiết yêu thương thực lòng khiến cho người đời không hề trách móc mà thông cảm cho Tú Xương.

Ông không phải là một kẻ bất tài vô lương nhưng sống trong một xã hội chế độ phong kiến thối nát không biết trọng dụng nhân tài, trị giá của đồng tiền, danh vọng vùi lấp tài năng con người khiến cho Tú Xương long đong khoa cử tám lần lều chõng đi thi trong suốt quãng đời ngắn ngủi 37 năm gói gọn trong ba việc đi học, đi thi và làm thơ.

Hình ảnh bà Tú trăm cơ nghìn cực cùng với tấm lòng yêu thương dành cho vợ đã trở thành nguồn cảm hứng trữ tình phong phú và hấp dẫn trong thơ ông. Bằng tài năng thi ca với sự cải cách mới mẻ trong tiếng nói, thi liệu và đề tài. Bài thơ “Thương vợ” đã thể hiện được ân tình sâu đậm và thực lòng của thi sĩ đối với bậc hiền phụ đồng thời cho thấy tâm hồn tư cách cao đẹp của Tú Xương luôn linh hoạt, nhân hậu với những người thân yêu của mình với tài năng của một thi sĩ biết vận dụng sáng tạo lời ăn tiếng nói của dân gian phối hợp với tiếng nói chưng học làm nên một bài thơ hay và sâu sắc.

Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ – Mẫu 4

Trần Tế Xương (hay còn gọi là Tú Xương) quê làng Vị Xuyên, Mĩ Lộc, Nam Định, là một trong những tên tuổi vượt bậc của nền văn học Việt Nam thế kỉ 19. Tuy thế cục ngắn ngủi nhưng Trần Tế Xương đã để lại một di sản ý thức cao quý. kế bên những bài thơ đả kích, phê phán chế độ phong kiến mục nát, ông còn có những bài thơ cảm động về người phụ nữ. Thương vợ là một bài thơ xuất sắc nhất trong đề tài ấy. Bài thơ thể hiện một cách thực lòng và cảm động tấm lòng thương vợ của Trần Tế Xương.

thế cục của Trần Tế Xương là thế cục của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông vốn là người có tài nhưng rất phóng túng. Trong thời buổi giao thời, Nho học suy vong, lại thêm học hành, thi cử long đong chỉ đỗ Tú tài khiến Trần Tế Xương phải sống trong cảnh nghèo khổ, bất đắc ý. Bất mãn trước thời cuộc, những tác phẩm của Trần Tế Xương đã dựng nên bức tranh sinh động, nhiều mặt về xã hội thực dân phong kiến buổi đầu. Đó là gương mặt xấu xa của bè lũ thực dân nửa phong kiến thống trị. Ông vạch trần thế lực đồng tiền trong xã hội đã ngự trị, chi phối đời sống. Đồng thời, qua những tác phẩm ông cũng bộc lộ khá sâu sắc tâm sự của bản thân về cái nghèo, về thi cử long đong, nỗi buồn trước thời cuộc và vận mệnh nước nhà.

Khác với những thi sĩ khác (quá đề cao tính giáo lí), Trần Tế Xương trở về với thế cục thực trong những nỗi thông cảm sâu sắc nhất. trong khi vị trí của những Nho sĩ trở nên mất ưu thế, Trần Tế Xương đã kịp phát hiện vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam tảo tần, chung thủy và giàu đức hi sinh. Thương vợ chính là một bài ca cảm động, là sự trân trọng tôn quý đối với thân phận người phụ nữ:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
ỉ eo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Mở đầu bài thơ, Trần Tế Xương dựng lên bức tranh lao động của bà Tú. Vẻ đẹp hình tượng nhân vật bà Tú hiện lên trong bức tranh lao động khem khổ, hiu hút và cam chịu tới tội nghiệp:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Công việc của bà Tú là kinh doanh nhỏ. Công việc ấy diễn ra thường xuyên, triền miên, tiếp nối ngày này qua ngày khác. Nơi làm việc là mom sông. Đó là một nơi cheo leo, chông chênh và hiểm trở. Câu thơ giới thiệu hình ảnh bà Tú đầy vất vả, gian truân. Tác giả tỏ ra thông cảm với công việc làm ăn và công lao của bà Tú.

Câu thơ tiếp theo làm hiện rõ gánh nặng thế cục của bà: nuôi đủ năm con với một chồng. “Nuôi đủ” tức là không thiếu nhưng cũng chẳng thừa. Cái nghèo cái khổ cứ mãi đeo đẳng hết ngày này tháng nọ. Nó gợi lên sự đảm đang, tháo vát, khéo vun vén của bà Tú để có thể thăng bằng cuộc sống gia đình. Người đọc chợt giật thột nhìn thấy, cái gánh nặng ấy có cả ông Tú nữa qua giải pháp đối 5 với 1, cách diễn đạt tách 5 con với một chồng. Ông Tú cảm nhận mình là kẻ ăn theo, ăn bám vợ, là gánh nặng cho vợ. Thậm chí gánh nặng ông Tú còn hơn cả 5 đứa con.

Đối với người Nho sĩ xưa, ít có người nào lại nói thực, nói mạnh như Trần Tế Xương. Ông tự thấy mình vô dụng, thấy mình là gánh nặng trong thế cục bà Tú mà đáng lẽ ra những phận sự đó chính ông mới là người phải thực hiện. Ta thấy ở đâu đó trong câu thơ cái gật đầu ngán ngẩm, thất vọng và buồn bã tới thê lương. Một người đàn ông không thể lo cho vợ, cho con, phải sống vô nghĩa lí giữa thế cục. Ở đâu đó ta cũng nghe được tiếng khóc thầm não nùng. Không phải của bà Tú mà là của ông Tú. Khóc vì cảm thương vợ đã vất vả, hi sinh, cam chịu vì ông mà không hề than vãn, kêu ca:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
ỉ eo mặt nước buổi đò đông.

Vận dụng sáng tạo hình ảnh “thân cò”, tác giả đã gợi liên tưởng trong ca dao xưa. Trong ca dao, hình ảnh thân cò nhằm chỉ cho người phụ nữ nhỏ bé, đầy xấu số và khổ đau:

Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc thủ thỉ

Hay:

Cái cò lặn lội bờ sông
Cổ dài mỏ cứng cánh cong lưng gù

Hình ảnh con cò là tất cả nỗi vất vả, lam lũ, thân phận bé nhỏ, thấp hèn, hẩm hiu của người phụ nữ và cũng là của người nông dân trong xã hội phong kiến chất chứa đầy bất công. Họ luôn phải sống cam chịu, chấp nhận thiệt thòi mà không biết than vãn cùng người nào. Bà Tú cũng đứng trong nghịch cảnh ấy. Tất cả những khổ nhọc ấy chỉ biết là số phận mang lại. Cái số phận bất di bất dịch mà con người đã sớm phải chấp nhận trong xã hội phong kiến nhiều bất công, ngang trái.

Hình ảnh bà Tú được khắc họa đậm nét trong sự bươn chải, tảo tần, xông pha qua nghệ thuật đối thanh, đối ý, đối từ loại giữa hai câu. bà Tú đi sớn về khuyên, bất chấp ngày nắng ngày mưa, buổi đông, buổi vắng. Hết “lặn lội khi quãng vắng” lại tới lúc vãn chợ “buổi đò đông”.

Bằng hai câu thơ, Trần Tế Xương đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ tảo tần, xông pha kiếm sống, không quản ngại thân phận nhỏ bé, đơn chiếc vì chồng con. tới đây, ông đột nhiên nghĩ về cái nguyên nhân khiến bà Tú cam chịu, hi sinh tới thế:

Một duyên, hai nợ, âu đành phận,
Năm nắng, mười mưa, dám quản công.

Một duyên hai nợ nói lên cái số cái phận hẩm hiu của bà. Bà Tú lấy chồng vì duyên thì ít mà vì nợ thì nhiều. Thành ngữ năm nắng mười mưa càng làm tăng thêm những vấn đề, vất vả, khổ cực, nhọc nhằn của bà. muôn thuở người phụ nữ là thế. Sinh ra nào biết tới những vinh quang ở đời. Cuộc sống của họ luôn đứng phía sau người đàn ông. nếu như người đàn ông học hành thành tài, có công có trạng, sang giàu phú quý thì họ cũng được nhờ. nếu như người đàn ông học hành thất bại, thi cử long đong nhưng ông Tú thì đời họ cũng tăm tối theo. Biết thế, bà Tú cũng “âu đành phận”. Cái phận đã thế, cho nên bà nào “dám quản công”. tức là bà sẵn sàng chấp nhận, cam chịu, không một lời trách than, hi sinh tất cả vì chồng con.

Trần Tế Xương đã nhìn thấu nỗi lòng bà Tú, càng thêm yêu, thêm quý cái tính, cái đức cao đẹp ấy. Lời thơ giản dị, nhưng sự trân quý của ông Tú dành cho bà Tú là vô cùng lớn. Nó vượt ra khỏi những luật lệ khắc nghiệt của quy tắc xã hội phong kiến để vươn tới cái đẹp thuần mĩ, tinh khiết ở đời. Bà Tú mang những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam vốn có. Họ đảm đang, tháo vát và giàu đức hi sinh. Thương vợ, thương cảnh nhà nghèo túng, ông Tú trở lại trách đời, trách mình đã sống một thế cục vô nghĩa:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!

Lời ông Tú đựng lên tiếng chửi đời, một lời nói mát, dỗi hờn, chút oán trách với đời. Chính thói đời trớ trêu đã khiến cho bà Tú lầm than, cùng cực. Chính những hứa hứa ban đầu khi lấy một sĩ tử với những hứa hứa công danh, phú quý đã khiến bà Tú bước vào một trục đường truân chuyên. Ông Tú nhìn thấy, lỗi lầm ấy là do chính mình. Dù đã rất nỗ lực nhưng trục đường công danh ấy không thể trở thành hiện thực. Thế nên, trước ông trách đời đã tệ bạc với một người đầy khát vọng và tài năng như ông. Sau là ông chửi mình, trách mình là người vô trò trống, ăn bám vợ. Qua tiếng chửi bộc lộ tấm lòng thương vợ và tư cách cao đẹp của thi sĩ.

Qua bài thơ Thương vợ, Trần Tế Xương khiến cho người đọc phải suy ngẫm về lẽ đời, về tình người. Sống là phải biết thông cảm, chia sẻ niềm vui nỗi khổ ngay chính trong nghịch cảnh cam go nhất. Ở đó, tình người rất cần hiển hiện để xoa dịu những nỗi đau, để làm lành những vết thương.

Chỉ cần nói Thương vợ thôi là Trần Tế Xương đã vượt lên trên cả thời đại: phát hiện, tôn vinh và ngợi ca điều mà cả xã hội không biết, không dám ngợi ca. xúc cảm mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ánh và tiếng nói thân thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất sắp gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tiềm thức dân tộc. Tấm lòng thương vợ của Trần Tế Xương qua bài thơ là một cái nhìn mới mẻ và tiến bộ của thi sĩ đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến nước ta.

Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài Thương vợ – Mẫu 5

Tú Xương có rất nhiều vần thơ, phú nói về vợ. Bà Tú vốn là “con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. một người con dâu giỏi làm ăn kinh doanh, hiền lành được bà con xa sắp mến trọng. Nhờ vậy mà ông Tú mới được sống thế cục phong lưu: “tiền nong phó cho con mụ kiếm – Ngựa xe chẳng lúc nào ngơi”. “Thương vợ” là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là bài thơ tâm sự, đồng thời cũng là bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của ông Tú đối với người vợ hiền thảo của mình.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh của bà Tú trong gia đình và ngoài thế cục – hình ảnh trung thực về một người vợ tảo tần, một người mẹ hiền lành, giàu đức hi sinh.

Hai câu thơ trong phần đề giới thiệu bà Tú là một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu thương chịu khó. nếu như như bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, chân nam đá chân chiêu, vì tớ đần trong mọi việc” câu đối của Nguyễn Khuyến thì bà Tú là một người phụ nữ.

“Quanh năm kinh doanh” là cảnh làm ăn đầu tắt mặt tối, từ ngày này qua ngày khác, từ tháng này qua tháng khác… không được một ngày ngơi nghỉ. Bà Tú “kinh doanh ở mom sông”, nơi cái mảnh đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước; nơi làm ăn là cái thế đất chông chênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một thế cục nhiều mưa nắng, một cảnh đời cùng cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Một gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền nong… chứ người nào “đếm” con, “đếm” chồng(!). Câu thơ tự trào ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đình gặp nhiều vấn đề: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Có thể nói, hai câu đầu, Tú Xương ghi lại một cách trung thực người vợ tảo tần, đảm đang của mình.

Phần thực tô đậm thêm chân dung bà Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” làm ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. tiếng nói thơ tăng cấp tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam màu tiếp nối nhau, bổ trợ và gia tăng: đã “lặn lội” lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nào nói hết được! Hình ảnh “con cò”, “cái cò” trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông…” được tái tạo trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi đã đem tới cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bà Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ… của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ

“ỉ eo” từ láy tượng thanh chỉ sự làm rầy rà bằng lời đòi, gọi liên tục dằng dai; gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một thế cục “lặn lội”, một cảnh sống làm ăn “ỉ eo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã làm vượt bậc cảnh kiếm ăn nhiều cùng cực. Bát cơm, manh áo mà bà Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng” phải “lặn lội” trong mưa nắng, phải tranh giành “ỉ eo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn!

“Duyên” là duyên số, duyên phận, “nợ” là cái “nợ” đời mà bà Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả và khổ cực. những số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một … hai… năm… mười…” làm nổi rõ đức hy sinh thầm lặng của bà Tú, một người phụ nữ chịu thương chịu thương chịu khó vì sự no ấm hạnh phúc của chồng con và gia đình. “ u đành phận”.. dám quản công”… giọng thơ nhiều xót xa thương cảm.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu, bằng tấm lòng hàm ân và cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vài nét rất trung thực và cảm động về hình ảnh bà Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tảo tần, chịu thương, chịu thương chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện văn pháp điêu luyện trong sử dụng tiếng nói và sáng tạo hình ảnh. những từ láy, những số từ, phép đối, đảo ngữ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và hình ảnh “thân cò”… đã tạo nên ấn tượng và sức hút của văn học.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông”, lúc “buổi đò đông” đưa vào thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình “ăn lương vợ” mà “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô trò trống, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mà đau xót thế!

Phân tích hình ảnh ông Tú trong bài thơ Thương vợ – Mẫu 6

Người phụ nữ từ rất lâu đã trở thành đề tài thân thuộc trong thi ca. Song mỗi thời đại khác nhau, dưới góc nhìn của những tác giả khác nhau họ lại hiện lên với những hình ảnh riêng. Tế Xương cũng là một thi sĩ tiêu biểu khi viết về đề tài người phụ nữ với bài thơ “Thương vợ”. Đặc biệt qua bài thơ ta không chỉ thấy được hình ảnh người phụ nữ mà còn cảm nhận được hình ảnh của nhà nho Trần Tế Xương.

Nói tới nhà nho là nói về một thời vang bóng đã qua. Nhà nho là những người có tri thức trong xã hội xưa, đọc sách thánh hiền và theo Khổng Tử, giúp ích cho nhân dân, cho quốc gia. Trong bài thơ này, chúng ta cũng nhìn thấy ở Tế Xương hình ảnh của một nhà nho nhưng thêm nhiều đặc điểm yếu tố tiến bộ, mới mẻ hơn.

Tú Xương là một nhà nho, cũng đèn sách bao năm để đi thi, mong tới ngày đỗ đạt công danh. Ngày đó, người ta ít viết về người vợ, nhất là khi vợ đang còn sống. những thi nhân chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, tức là khi người vợ đi vào thiên thư mới được đi vào địa hạt thi ca. Chính vì vậy khi đặt bút viết về vợ của mình, Tú Xương đã có điểm khác biệt với những nhà nho cùng thời.

Trong bài thơ, Tú Xương đã sử dụng tình yêu thương và hàm ân để khắc họa hình ảnh bà Tú với những đường nét rõ ràng nhất. Ông luôn dõi theo những vất vả gian truân của vợ mình, thương thì thương lắm nhưng chẳng biết làm gì, đành gửi gắm vào trong thi ca. Bằng những lời thơ thực lòng, mộc mạc, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh bà Tú với lòng yêu thương da diết. từng câu chữ, từng ý thơ đểu chất chứa bao tình cảm, bao yêu thương và lòng hàm ân:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
ỉ eo mặt nước buổi đò đông”

Có thể thấy qua lời kể của thi sĩ, người vợ vốn ở nhà nội trợ, cần được chồng chở che nay lại là trụ cột gia đình. Bà Tú vừa nuôi con, vừa nuôi chồng. Vất vả quanh năm suốt tháng, lặn lội những chuyến đò đông, kinh doanh ở mom sông đầy nguy cơ và bất trắc. Vậy mà “Cơm hai bữa cá kho rau muống. Quà một chiều: khoai lang, lúa ngô”, bà lo cho chồng cho con chu đáo, vẹn toàn. Tú Xương không xuất hiện trong câu thơ nhưng chảy trong đó là tình cảm của ông.

Hiếm khi có một nhà nho không rập khuôn những lễ giáo, quy định khó tính của nho giáo về tư tưởng trọng người có học, Tú Xương đã thẳng thắn nhìn nhận sự vô dụng của bản thân. Ông tự trào phúng bản thân, trào phúng xã hội và thầm lặng phân bua tấm lòng thương yêu và tri ân vợ.

Tú Xương đã không gộp mình với con để nuôi mà tách riêng rẽ ròi là nhắc nhở bản thân, để gửi gắm lòng hàm ân tới vợ của mình. Ông tự trách mình, tự lên án bản thân. Dẫu viết “Một duyên, hai nợ, âu đành phận” nhưng ông không dựa vào duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bà Tú lấy ông là duyên một còn nợ là chín. Tú Xương tự coi mình là cái nợ mà bà Tú phải gánh chịu. Duyên ít, nợ nhiều.

Tú Xương đã phải thốt lên:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Ông chửi thói đời bội nghĩa – nguyên nhân sâu xa khiến bà Tú phải khổ. Chửi cả người chồng có cũng như không là mình, chửi sự hờ hững của ông với vợ con khiến bà Tú chịu cực chịu khổ. Đây chính là tư tưởng của một nhà nho tiến bộ, dám nhìn nhận và lên án bản thân mà không quy chụp theo lễ giáo gia trưởng bất công.

Ở cái xã hội ràng buộc người phụ nữ “Xuất giá tòng phu”, “phu xướng, phụ tùy” mà có một thi sĩ dám sòng phẳng với bản thân, với thế cục, dám tự thừa nhận mình là kẻ ăn bám vợ. Ông không những nhìn thấy thiếu sót mà còn thẳng thắn thừa nhận thiếu sót. Một nhà nho tiến bộ như thế thật đáng trân trọng.

Bà Tú có thể đã chịu rất nhiều nghiệt ngã, đắng cay của thế cục nhưng bà lại có được niềm hạnh phúc mà bao người vợ khi ấy không có được. Ngay lúc còn sống, bà đã đi vào bài thơ của chồng với tất cả những gì đẹp nhất trong niềm yêu thương, trân trọng của chồng. Để rồi từ đó giúp người đọc nhìn thấy hình ảnh nhà nho thực sự trong con người Tú Xương.

Và tương tự, bài thơ “Thương vợ” không chỉ ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ tảo tần chịu thương chịu thương chịu khó vì gia đình, vị tha và đáng trân trọng mà còn tái tạo hình ảnh nhà nho Tế Xương –một người vừa có học vấn vừa có tư tưởng tiến bộ, đáng trân trọng.