Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ ( Dàn ý + bài mẫu) hay nhất

Đề bài: Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ

Phân tích 4 câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương vừa được GrabHanoi biên soạn và xin gửi tới độc giả cùng học hỏi để bạn đọc có thêm tài liệu học tập nhé. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết qua bài viết dưới đây.

Dàn ý Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ mẫu 1

1. Mở bài:

Giới thiệu về tác giả Tế Xương và bài thơ Thương vợ:
+ Tú Xương, một trong những thi sĩ trung đại có phong cách nghệ thuật độc đáo.
+ Bài thơ Thương vợ là một tác phẩm tiêu biểu cho mảng thơ này của ông.
+ 4 câu thơ đầu thể hiện sự trân trọng, đồng cảm của Tú Xương với sự tảo tần, khốn cùng của người vợ.

2. Thân bài:

a. Hai câu đề:

– Công việc vất vả, ẩn chứa nhiều nguy hiểm:
– Trạng ngữ “quanh năm”: nỗi vất vả triền miên, mưu sinh quanh năm suốt tháng => siêng năng, tảo tần của bà Tú.
– Danh từ “mom sông”: địa điểm làm việc chông chênh, không vững vàng, đầy bất trắc trong công việc của bà Tú.

– Gánh nặng gia đình “Nuôi đủ năm con với một chồng”:
+ Sự đảm đang, tháo vát của bà Tú.
+ Gánh nặng gia đình đè nặng lên đôi vai
+ Nỗi đau xót của ông Tú về sự vô dụng của mình.
+ thi sĩ tự giễu cợt mình, đặt mình ngang hàng với “năm đứa con thơ”, sống no đủ trên sự hi sinh, vất vả của bà Tú.

b. Hai câu thực:
– “Lặn lội thân cò”, “ỉ eo mặt nước”: nghệ thuật đảo ngữ, ẩn dụ tô đậm nỗi nhọc nhằn, bươn chải của người vợ.
=> Một người phụ nữ kiên cường, đảm đang, giàu đức hi sinh, sẵn sàng đánh đổi cả bản thân mình vì hạnh phúc, ấm êm của gia đình.

3. Kết bài:

phân tích chung: Qua 4 câu thơ đầu thi sĩ đã thể hiện xúc cảm thật tâm, tình cảm yêu thương và trân quý của ông dành cho người vợ tào khang của mình.

Xem thêm: Top 20+ bài phân tích thương vợ chọn lọc hay nhất 2023

Dàn ý phân tích 4 câu cuối bài Thương vợ mẫu 2

1. Mở bài

Giới thiệu về tác giả và tác phẩm Thương vợ của Trần Tế Xương

Bài thơ thể hiện tấm lòng trân quý và hàm ơn người vợ đảm trách, giàu đức hi sinh cho chồng con.

2. Thân bài

a. Nêu ra những đức tính cao đẹp của bà Tú

Bà Tú là một người đảm đương, túa vát, chăm chút với chồng con, làm không quản ngày đêm khó khăn và cũng không thở than lấy nửa lời:

Nuôi đủ năm con với một chồng

Hai câu thơ:

Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Câu thơ một lần đã được Tú Xương nêu ra sự cảm phục sự quên mình của vợ

Duyên chỉ có một là nợ những hai nhưng bà Tú không một lời kêu ca, âm thầm bằng lòng sự vất vả vì chồng con.

Nắng mưa chỉ sự nặng nhọc, năm, mười là số lượng phiếm chỉ để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thành ngữ chéo, vừa nói lên sự nặng nhọc gieo neo, vừa thể hiện được đức tính chịu khó, tận tình vì chồng vì con của bà Tú.

b. Nêu ra sự thương xót của ông Tú với vợ

ba má thói thường ăn ở bạc,

Có chồng lãnh đạm cũng như chơi.

Hai câu thơ cho thấy giọng thơ như chửi rủa thói ăn ở bạc bẽo của chính thi sĩ.

Lời chửi trong hai câu kết là lời Tú Xương rủa mát mình nhưng lại mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Ông chửi “thói đời” bội nghĩa, vì nghề đời là một nguyên nhân xâu xa khiến bà Tú phải khổ. Từ cảnh ngộ riêng, tác giả lên án thói thường bạc tình tổng thể.

3. Kết bài

Xã hội xưa coi người đàn bà là thân phận phụ thuộc. Một nhà nho như Tú Xương dám sòng phẳng với bản thân, với thế cuộc, dám tự thừa nhận mình là “quan ăn lương vợ”, chẳng những đã biết nhìn thấy khuyết điểm, mà còn dám tự nhận khiếm khuyết. Một con người như thế là một nhân cách đẹp.

Liên hệ với thực trạng đời sống hiện nay: người phụ nữ hiện nay, sự trân trọng của người đàn ông dành cho nữ giới được cải thiện.

Phân tích 4 câu thơ đầu bài Thương Vợ – Mẫu 1

Tú Xương là một trong những thi sĩ tiêu biểu nhất của nền văn học Trung đại Việt Nam giai đoạn cuối TK XIX, đầu thế kỉ XX. kế bên mảng thơ trào phúng, Tú Xương còn có “gặt hái” được những thành tựu đáng kể ở mảng thơ trữ tình, một trong những bài thơ tiêu biểu nhất có thể kể tới “Thương vợ”. Bằng tình yêu thương và tấm lòng trân trọng vợ, tác giả đã viết nên những vần thơ chứa chán sự yêu thương, thông cảm dành cho người vợ của mình. Bốn câu thơ đầu của bài thơ đã thể hiện được nỗi đồng cảm, sự hàm ân sâu sắc của thi sĩ với sự tảo tần, vất vả của vợ.

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,
ỉ eo mặt nước buổi đò đông.

Hai câu đầu đoạn thơ gợi mở về công việc mưu sinh hàng ngày của bà Tú. Trạng ngữ “quanh năm” đặt đầu gợi ra nỗi vất vả triền miên, mưu sinh quanh năm suốt tháng của bài Tú. Câu thơ cho thấy được sự tảo tần, siêng năng mưu sinh của người phụ nữ làm nghề bán lẻ. Danh từ “mom sông” được sử dụng thật khéo khi vừa chỉ địa điểm làm việc, vừa, gợi sự chông chênh, không vững vàng, đầy bất trắc trong công việc của bà Tú. Ở cái mỏm đất bên sông, hình ảnh bà Tú lam lũ càng nhỏ bé và đơn chiếc hơn bao giờ hết. Hình ảnh bà Tú bươn trải với cuộc sống vất vả, xô người thương, xuôi ngược với công việc buôn thúng bán bưng nặng nhọc để mưu sinh, nuôi sống gia đình thật đẹp cũng thật đáng trân trọng.

Cuộc sống dẫu có rất nhiều vất vả, toan lo nhưng vì chồng con, vì gia đình, bà Tú vẫn mạnh mẽ đối mặt mà không một lời oán thán:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Lẽ thường, người đàn ông là trụ cột gia đình, chăm lo cho vợ con nhưng ở đây, bà Tú lại là người nặng gánh. Câu thơ sử dụng số từ “năm”, “một” phối hợp với những danh từ “con”, chồng”, tưởng chỉ là những con số khô khan mà đọc lên nghe nhói lòng thương cảm. Bà Tú vất vả quanh năm, chịu thương chịu thương chịu khó để chăm lo “nuôi đủ” chồng, con. Hai tiếng “nuôi đủ” được đặt ở đầu câu như một tiếng vang đầy tự hào cũng thật trào phúng của người chồng dành cho vợ của mình, một người phụ nữ đảm đang, tháo vát. không những thế, trong câu thơ còn chứa chan cả nỗi đau xót của ông Tú về chính mình, một kẻ bất tài, vô dụng, không trợ giúp được gì lại trở thành gánh nặng cho vợ mình. thi sĩ tự giễu cợt mình, đặt mình ngang hàng với “năm đứa con thơ”, sống no đủ trên sự hi sinh, vất vả của bà Tú.

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
ỉ eo mặt nước buổi đò đông”

Trong hai câu thực tiếp theo, thi sĩ đã thể hiện được những vất vả, cực nhọc và nguy hiểm trong công việc mưu sinh đầy vất vả của bà Tú. Nghệ thuật đảo ngữ phối hợp cùng ảnh ảnh ẩn dụ đặc sắc “lặn lội thân cò” càng tô đậm nỗi nhọc nhằn, bươn chải của người vợ. Hình ảnh người phụ nữ chất phác, lam lũ trong không gian hoang vắng, hẻo lánh, một mình lam lũ chẳng nề hà khiến ta vừa cảm phục, vừa xúc động. Tình từ tượng thanh “ỉ eo” gợi lên không gian chợ búa với những thanh âm hỗn độn của kẻ bán, người mua, của những tiếng kì kèo mặc cả, cãi cọ hơn thua càng tô đậm hình tượng bà Tú cần mẫn, tất bật giữa chốn chợ búa xô người thương.

Ca dao xưa có câu:

“Con ơi nhớ lấy câu này,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”

Dẫu biết là vậy, nhưng vì miếng cơm, manh áo, vì chồng, vì con bà Tú nào có thể ngừng bước. Đôi chân gầy guộc ấy vẫn quyết xông pha nơi quãng vắng, đò đông, kiếm đôi ba đồng toan lo cho cuộc sống. Thật quả là một người phụ nữ tảo tần, giàu đức hi sinh, sẵn sàng đánh nhận về mình tất cả những vất vả, nhọc mệt vì hạnh phúc, ấm êm của gia đình. Vẻ đẹp về phẩm chất của bà thật đáng trân trọng và cảm phục biết bao.

Bằng lời thơ giản dị, những hình ảnh sắp gũi mà giàu trị giá biểu thị, Tú Xương đã thể hiện xúc cảm thật tâm, tình cảm yêu thương và trân quý của ông dành cho vợ. Bốn câu thơ như một khúc nhạc ngọt ngào, xúc động nhưng đầy đau xót viết về vẻ đẹp của bà Tú nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

Phân tích 4 câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương mẫu 2

Tình nghĩa vợ chồng bao năm nay luôn được con người coi trọng và là một trong các tình cảm cao hấp dẫn nhất của con người. Trong xã hội cũ, có nhà thơ Tú Xương đã có các xúc cảm, vần thơ ý nghĩa khi viết về người vợ qua bài thơ Thương vợ của mình. Qua bốn câu thơ cuối, thi sĩ đã khắc họa thành công hình ảnh lam lũ của vợ mình.

Trong bốn câu thơ đầu, Tú Xương đã nêu lên được tình cảnh, điều kiện làm việc của vợ mình, trong bốn câu thơ cuối, ông đã mang đến cho bạn đọc cái nhìn cụ thể nhất, chi tiết nhất về cuộc thế bà Tú và góc nhìn yêu thương của mình dành cho vợ:

Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Vợ chồng là duyên là nợ, trong bối cảnh xã hội ấy, người nữ giới phải lấy chồng theo sự sắp đặt của bác mẹ, cam chịu số phận mà không được chọn cho mình cuộc sống. Ông Tú đặt mình vào vị trí của bà Tú để thốt lên lời cam chịu đấy, ông hoá thân vào bà để cảm thông sâu sắc hơn: lấy chồng như thế này thì cũng là duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đành thế. Cho nên có khổ đau bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số mệnh. Âu đành là một sự bất đắc dĩ, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. Dám quản là không dám kể gì tới công lao, là thái độ bằng lòng gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.

Khép lại bài thơ là tiếng chửi chua chát mà Tú Xương đã thốt lên thay cho vợ mình:

ba má nghề đời ăn ở bạc,
Có chồng dửng dưng cũng như thường.

Câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói thường ăn ở bạc. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Đối với ông Tú thì tự trách đến mức phải bật ra tiếng chửi như thế là rất giận mình. Tiếng chửi trước tiên là một sự thông cảm, thấu hiểu với những khó khăn, nặng nhọc mà vợ mình đã phải trải qua. không những thế, tiếng chửi còn là sự tự trách bản thân mình của ông Tú, rằng công danh sự nghiệp của ông vẫn còn dang dở, rằng mình chưa thể đem lại cuộc sống hạnh phúc cho vợ. Câu kết là sự phán xét cực kì đớn đau nhưng cũng rất công minh, ông Tú xỉ vả mình là ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức dửng dưng. lạnh nhạt trước việc nhà, trước mọi lo toan, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Sự hững hờ ấy được ông thốt lên trong cơn giận, tình thật ông rất thương vợ, quan tâm và đồng cảm với vợ của mình thì mới có thể phân tích được nỗi nặng nhọc đó.

Bài thơ khép lại để cho độc giả dâng trào các cảm xúc khác nhau trong lòng. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ khái quát và bốn câu thơ nói riêng vẫn giữ nguyên tình cảm, trị giá cao đẹp vốn có của mình; đồng thời đóng góp một phần quan trọng vào kho tàng văn học Việt Nam.

Phân tích 4 câu cuối bài Thương vợ mẫu 3

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Trần Tế Xương và bài thơ Thương vợ.

2. Thân bài

“Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng là duyên nợ nên không thở than, trách móc. Cho nên có khổ đau bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nào dám quản công. Chẳng còn là chuyện thân nữa, dù là thân cò, mà đã là chuyện phận rồi, chuyện số mệnh.

“Năm nắng mười mươi”: Đức hi sinh lặng thầm cao quý vì chồng con, ở bà hội tụ cả sự tảo tần, đảm trách, nhẫn nại. “Âu đành” là một sự cực chẳng đã, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. “Dám quản “tức là không dám kể gì đến công lao, là thái độ hài lòng gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại càng làm cho câu thơ phù hợp với cảm xúc bị dồn nén vào trong.

Hai câu thơ cuối: Hai câu kết là một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Đối với ông Tú thì tự trách tới mức phải bật ra tiếng chửi như thế là rất giận mình. Bài thơ ông viết ra cốt để giãi tỏ tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang và tự trách mình là đồ tầm thường, vô tích sự.

→ Cuộc sống khó nhọc gian truân nhưng càng làm nổi bật phẩm chất cao đẹp của bà Tú: đức tính chịu khó, nhiệt tình vì chồng vì con của bà Tú. đó cũng là vẻ đẹp chung cho nhiều nữ giới trong xã hội phong kiến.

3. Kết bài

Khẳng định lại trị giá nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Phân tích 4 câu cuối bài Thương vợ mẫu 4

Trần Tế Xương (bút danh là Tú Xương) là nhà thơ trào phúng nổi tiếng, có nhẽ là thi sĩ trào lộng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhà. Thơ trào lộng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được nhiều ý trung nhân thích vì có thuộc tính trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Và “Thương vợ” điển hình cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.

Trong đó, ở 4 câu thơ cuối, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bà Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đành phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

quần chúng. # ta thường nói “vợ chồng là duyên nợ”. nhà thơ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thành hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì linh nghiệm rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông Tơ bà Nguyệt), còn “nợ” thì đã thành bổn phận nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự đi lại trong tâm tưởng của bà Tú. “Một duyên hai nợ âu đành phận” là bà Tú đã thuận theo lòng trời và thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bà!). Nói gọn lại là bà Tú đã chấp nhận! Và bằng lòng cuộc hôn nhân duyên nợ này, bà chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bà ưng ý vị quan “ăn lương vợ” nên bà đâu “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thành ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả áp dụng sáng tạo thành “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây là sự linh diệu của những con số một – hai và năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bà Tú chịu cất hết.

Trước người vợ giỏi giang, tần tảo, chịu cất mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì nhà thơ chỉ còn biết tự trách mình:

bố mẹ nghề đời ăn ở bạc,

Có chồng lạnh lùng cũng như không!”

Vì quá thương vợ mà nhà thơ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ nghề đời…” thì đã thành lời xỉ vả mình. Thật ra là một cách ông Tú nhún nhường để cho công trạng của bà Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải là người “ăn ở bạc”. Ẳn chơi sa đà thì có, “hờ hững” nữa, thì thi sĩ đã thành thật nói rồi, chứ bội nghĩa, bạc nghĩa thì không. gang thép với cường quyền mà nhũn với vợ như thế thì thật là con người đáng kính.

Bài thơ độc đáo, đầy tình cảm “Thương vợ” nghe đâu cũng đã lại thể hiện rõ bắt mắt nghệ thuật thơ Tú Xương cho dù nghiêm sang trọng nhưng vẫn hài hước, tự trào. Thông qua bài thơ người đọc như nhận thấy được một sự thật tình nhằm nhè của Tú Xương về thế cục về thời cục mà ông sống.

Phân tích 4 câu cuối bài Thương vợ mẫu 5

Trần Tế Xương (1870-1907), thường hay gọi là Tú Xương, quê ở Nam Định, sinh tiền là người học rộng tài cao, có chí nhưng lại không gặp may mắn trong tuyến đường công danh. Vì bất thích chí trong chuyện học hành thi cử nên ông Tú thường lấy việc sáng tác văn học làm thú vui để đỡ đi nỗi ngao ngán, day dứt. Thơ văn của ông là sự kết hợp, lồng ghép giữa các yếu tố trữ tình, trào lộng và hiện thực sâu sắc, đôi lúc người ta thường ví đôi mắt nhìn của ông Tú và những tác phẩm của ông chính là cuốn nhật ký đặc sắc về một thời đại mà xã hội rối ren Tây, Tàu, Ta lộn lạo. Với cuộc đời ngắn ngủi chỉ khoảng 37 năm trời thế nhưng Tú Xương đã để lại một sự nghiệp thơ ca hơi khổng lồ với 100 tác phẩm, ấn tượng hơn cả là trong số những tác phẩm ấy ông đã dành hẳn một đề tài để viết người vợ tào khang – bà Tú. Trong số đấy, bài thơ Thương vợ là một trong những tác phẩm đặc sắc và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú, tình cảm ấy được bộc lộ một cách trung thực và rõ nét nhất là ở hai câu kết tự như lời “chửi” của bài thơ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc/Có chồng lạnh nhạt cũng như không”.

Thương vợ là một bài thơ điển hình về đề tài trữ tình của Tú Xương, thơ xưa dưới ý kiến phong kiến hủ lậu, trọng nam khinh nữ thường hiếm có các tác phẩm viết về người vợ, người đàn bà. Phái nam nhân thường thường giam mình trong một lối mòn suy nghĩ rằng người vợ phải tam tòng tứ đức, đã theo chồng thì việc chịu gian khó, cực nhọc phục dịch, nâng túi sửa khăn cho người chồng đã là điều kèm theo, có mệt có khổ âu cũng là thường tình, không việc gì phải trằn trọc, thay vào đấy cái họ trằn trọc thường cao xa, vượt khỏi cuộc sống tầm thường. Nhưng tới Tú Xương thì lại khác, không phải vì ông vô công rỗi nghề, vì ăn lương vợ mà ông phải viết thơ, viết văn để ca ngợi vợ, mà chính lên đường từ ái tình thương và lòng trân trọng vô bờ của một người chồng dành cho người vợ tào khang của mình. phát xuất từ tinh thần về cuộc đời, ý thức về các nỗi nặng nhọc gian khó của vợ, mà cái thế cục khốn nạn đã không cho ông có thể san sẻ với bà Tú, để cả gia đình với bảy miệng ăn đè nặng lên đôi vai một mình bà Tú. Phải xác nhận rằng, Tú Xương có một gia tài thơ ca đồ sộ tới hơn trăm bài như thế, một phần lớn nhà nhờ công lao của vợ ông, ông có thể thiếu may mắn trong tuyến đường công danh, thế nhưng trái lại ông trời đã cho ông một người vợ thảo hiền hết mực, bà tôn trọng, thương yêu, hy sinh vì chồng con rất mực. Dẫu áp lực cơm áo đang trĩu nặng trên vai nhưng bà Tú cũng không muốn chồng mình rời khỏi nghiệp bút nghiên để lao vào cuộc sống lao động vất vả, bà vẫn muốn ông là một tú tài được thỏa sức với nghiệp văn học, chẳng phải chịu nhiều gian lao. Tấm lòng ấy của vợ, Tú Xương nhìn thấy một cách rõ ràng, ông không vô tình gạt sang một bên hay giấu giếm ở trong lòng để giữ tự tôn của một người đàn ông phong kiến, mà trái lại ông đưa hết những tình cảm ấy vào thơ văn của mình, bằng ngôn từ giản dị, chân thực, đôi lúc có chỗ đanh đá, ngoa ngoắt, nhưng đó lại mới đúng là đặc sắc thơ văn Tú Xương, trữ tình, hiện thực và trào lộng luôn đan xen với nhau.

Hai câu cuối trong bài Thương vợ của Tú Xương, đích xác nghe giống một câu “chửi”.

“Cha mẹ thói thường ăn ở bạc

Có chồng lãnh đạm cũng như không”

“Cha mẹ” ở đây không phải có ý trách móc gì phụ mẫu, chẳng qua là Tú Xương thương vợ khổ cực quá, ông tức cho cái nghề đời nhiễu nhương rối loạn, không cho nổi ông một tuyến đường công danh sáng lạn, không để ông vung hết cái tài của mình, mà bấy nhiêu lâu thi thố cũng chẳng ăn người nào, vẫn chỉ một kiếp tú tài bé con. Giá như thời buổi Nho học còn hưng vượng, cỡ tú tài cũng khấm khá, cũng có thể gõ đầu vài lớp trẻ, thế nhưng đời bạc, phận cũng bạc theo ông lại sinh ra đúng cái buổi Tây, Tàu trà trộn làm bát nháo đi cái nền nếp văn hóa lâu đời của đất nước. Xã hội phong kiến suy tàn, Nho học suy vong, các bậc trí thức đương thời cũng ngán ngẩm lui về chốn thôn quê, không màng sự thế, bởi khi ấy đạo đức xã hội xuống cấp, đồi bại, tư cách con người biến dạng, họ sẵn sàng vứt bỏ liêm sỉ, đạo đức giày xéo lên nhau mà chuộc lợi, ăn sung mặc sướng. Còn những người có tâm, có tài như Tú Xương lại phải chịu cái kiếp để bọn ô hợp đè đầu cưỡi cổ, phải chịu cảnh lực bất tòng tâm. Thử hỏi có thể không uất ức, không buông một tiếng chửi cái “thói đời ăn ở bạc” được hay không?

Tiếng chửi đời ấy, cũng là tiếng tự chửi mình của Tú Xương, ông tự trách mình bất tài, vô ích chẳng thể san sẻ bớt gánh nặng cho vợ, mà chỉ biết làm một người chồng ngày ngày ăn lương vợ, giương mắt nhìn vợ mình chịu biết bao vất vả. như vậy bà Tú đúng như lời Tú Xương nói “Có chồng dửng dưng cũng như không”, dưới chế độ phong kiến, đạo lí vẫn là người chồng quang gánh việc mưu sinh, là cột trụ của cả nhà, còn người vợ có trách nhiệm tề gia nội trợ, nuôi dạy con cái, thượng đế sinh ra đàn ông và phụ nữ thực tại cũng đã có ý như thế rồi. Thế nhưng trong gia đình của Tú Xương thì lại khác, một mình bà Tú gánh cả hai gánh nặng ấy trên vai, bà không nỡ để chồng đi làm công cho bè lũ tay sai, cho quân xâm lăng mà ông vốn ghét cay ghét đắng, bà cũng chẳng yên tâm để ông bếp núc, con cái, thế là bà ấp ủ tất. ý thức được hoàn cảnh gia đình, Tú Xương lại càng thêm tự trách, càng thêm đớn đau và căm ghét cái xã hội đẩy đưa, đốn mạt lúc bấy giờ.

Nhưng phải chăng Tú Xương chỉ chửi đời, chửi mình? Tú Xương còn chửi cả các kẻ giống mình nữa, ông chửi các kẻ bội nghĩa, tinh ăn lười làm, thích hưởng thụ, coi vợ là người ăn kẻ ở, phải hầu hạ cho các thói ăn chơi, tận hưởng của mình. Chửi những ông chồng, các kẻ đốn mạt, nhẫn tâm vứt lên đôi vai người vợ kết tóc các gánh nặng chất chồng, nhưng lại chẳng có lấy một sự day dứt, thương cảm, không biết tôn trọng yêu quý vợ mình, để những người phụ nữ bất hạnh ấy phải chịu biết bao đắng cay, khổ cực của cuộc thế. tương tự đúng với cái câu “Có chồng dửng dưng cũng như không” thật, chẳng bằng họ không lấy chồng có khi thế cuộc lại đỡ vất vả.

Bài thơ Thương vợ đã thể hiện một cách sâu sắc và cảm động tình cảm thành tâm của người chồng dành cho vợ mình, dẫu rằng ông không cho bà được một cuộc sống sung túc, êm đềm thế nhưng cách mà ông tôn trọng, yêu thương bà Tú khiến bà có một chỗ dựa ý thức vững chắc, là động lực để bà Tú tiếp diễn phấn đấu vì gia đình, điều ấy khiến người ta thật hâm mộ. Hai câu thơ cuối là những lời máu nóng tận đáy lòng, cũng là tiếng phản kháng của Tú Xương trước cuộc thế đen bạc, là lời tự trách đầy đau xót, đắng cay của ông với chính bản thân, với cả các đức ông chồng tệ hại, vô bổ, để vợ phải nặng nhọc cực nhọc cả thế cục.

—————————-

Trên đây GrabHanoi vừa giới thiệu tới các bạn phân tích 4 câu cuối bài Thương vợ của Tú Xương. Chắc hẳn qua bài viết độc giả đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung tri thức của bài viết rồi đúng không ạ? Bài viết đã gửi tới độc giả dàn ý và những bài văn mẫu phân tích về 4 câu cuối bài Thương vợ. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Ngữ văn 11.

Ngoài ra, những em có thể tham khảo thêm những bài viết cùng chủ đề phân tích về bài thơ Thương Vợ của Tú Xương, Phân tích hai câu thơ cuối bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương, Hình ảnh bà Tú qua bài thơ Thương vợ của Tú Xương để làm vượt bậc tâm sự mang nỗi niềm thế sự của tác giả để tích lũy cho mình những kinh nghiệm làm văn hay nhé!