Phân tích khổ 2 bài Từ ấy hay nhất (8 Mẫu + Dàn ý)

Phân tích khổ 2 bài Từ ấy của Tố Hữu gồm 8 mẫu dưới đây không chỉ giúp những em lớp 11 có thêm những ý tưởng hay cho bài viết của mình mà còn cảm nhận được một nhân sinh quan mới, đó là quan niệm sống vì mọi người vì cách mệnh.

Phân tích Từ ấy khổ 2 là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mệnh, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ. Ngoài ta những bạn xem thêm bài văn mẫu phân tích bài thư từ ấy, phân tích 2 khổ thơ cuối Từ ấy. Vậy dưới đây là 8 bài phân tích Từ ấy khổ 2 hay nhất, mời những bạn cùng đón đọc nhé.

Dàn ý khổ 2 bài thư từ ấy

Dàn ý số 1

I. Mở bài:

– Giới thiệu khổ 2 bài thư từ ấy – Tố Hữu

Ví dụ:

Tố Hữu là một trong những thi sĩ cách mệnh nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho tuyến đường cách mệnh, tuyến đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lý sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lý sống, lẽ sống mới qua lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi phân tích khổ 2 của bài thư từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.

II. Thân bài:

1. Hai câu thơ đầu: Tôi buộc lòng tôi với mọi người / Để tình trang trải với trăm nơi

  • Khẳng định quan niệm mới về lẽ sống của tác giả
  • Thể hiện sự gắn bó giữa cái tôi và cái ta, giữa cái chung và cái riêng
  • Ý thức tự nguyện của tác giả đóng góp cho lý tưởng đảng
  • Niềm tin vào lý tưởng đảng

2. Hai câu sau: “Để hồn tôi với bao hồn khổ, sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

  • Bộc lộ tình yêu thương con người
  • thi sĩ trường thành trong thời kỳ chống Mỹ
  • Khẳng định mối quan hệ sâu sắc giữa con người với văn học

III. Kết bài:

– Nêu cảm nhận của em về bài thư từ ấy

Ví dụ:

Qua khổ 2 bài thư từ ấy chúng ta có thể nhận thấy tình yêu, niềm tin đối với lý lẽ sống của tác giả đối với quốc gia và con người

Xem thêm: Top 20+ mẫu Phân tích thương vợ lớp 11 chi tiết nhất

Dàn ý số 2

I. Mở bài:

  • Giới thiệu khái quát về bài thư từ ấy và tác giả Tố Hữu
  • Dẫn dắt giới thiệu đoạn thơ thứ hai của bài:

Nghĩ về Tố Hữu, Chế Lan Viên từng chia sẻ: “Tố Hữu là một thi sĩ có lý tưởng. Lý tưởng ấy khiến cho thi sĩ luôn nghe được bên tai tiếng gọi của Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để thức tỉnh lòng người”. Khi đọc và cảm nhận bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, ta lại càng thấm thía hơn lời chia sẻ của thi sĩ Chế Lan Viên. Khổ thơ thứ hai trong bài thơ cũng là một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa.

II. Thân bài:

1. Nêu ngắn gọn vị trí đoạn thơ:

  • Đây là đoạn thơ thứ hai trong bài thơ “Từ ấy” .
  • Sau khổ thơ thứ nhất diễn tả những xúc cảm mãnh liệt, dâng trào mạnh mẽ vì được là một phần trong hàng ngũ những người sống và phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp, nhân vật trữ tình đã tiếp tục chia sẻ niềm vui sướng, hạnh phúc của mình với “trăm người”, “trăm nơi”.

2. Phân tích đoạn thơ:

  • Những từ “buộc”, “trang trải”, “sắp gũi” đã thể hiện sự tự nguyện gắn bó, san sẻ của nhân vật trữ tình. “Buộc” là gắn kết bền chặt, không bao giờ có thể rạn nứt hay chia xa. “Trang trải” là chia sẻ, “sắp gũi” là gắn bó, giao cảm.
  • thi sĩ không những mở rộng toàn cầu tâm hồn mình, chủ động kết nối tâm hồn mình với toàn cầu của những người lao động lao động mà còn thấy mình đang ở giữa mọi người trong một vòng tay lớn.
  • Ở mỗi dòng thơ, vòng tay ấy lại được nới rộng trong sự liên kết, bền chặt.
  • Đại từ “tôi” được tác giả đặt trong mối liên hệ với “mọi người”, với “trăm nơi” và với “bao hồn khổ”. Trong tình hữu ái giai cấp, nhân vật trữ tình không thấy mình riêng lẻ, đơn chiếc mà trở thành một phần của khối đời lao khổ.
  • Cái tôi tư nhân ấy một phần như muốn hòa chung vào với quần chúng nhân dân, một phần như tự ý thức được trách nhiệm của mình đối với quần chúng những người lao động ấy.
  • Dẫu biết rằng trong nhân dân còn biết bao nhiêu “hồn khổ”, song người đội viên cách mệnh ấy vẫn không nhụt chí, nản lòng mà vững tin vào Đảng, vào bản thân có thể đóng góp làm “mạnh khối đời”.
  • Đằng sau niềm tin, ý chí, ý thức của người đội viên cách mệnh ấy ta thấy bóng vía của người nghệ sĩ, người đội viên lao động Tố Hữu luôn nhiệt thành góp công, góp sức vào hành trình phóng thích dân tộc, xây dựng quốc gia, đem lại cuộc sống hòa bình, giàu có cho nhân dân.
  • Tố Hữu đã gắn kết đời sống mình với đời sống nhân dân một cách rất tự nhiên.

III. Kết bài:

  • Khẳng định lại trị giá nội dung và nghệ thuật của đoạn thơ:

Thơ Tố Hữu luôn sống mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam. Niềm cảm hứng, ý thức, ý chí quyết tâm góp công sức tư nhân vào công cuộc xây dựng, đắp bồi cái chung ông gửi vào từng trang thơ luôn lan tỏa mạnh mẽ tới từng thế hệ người Việt Nam. “Từ ấy” là một bài thơ tiêu biểu cho điều đó.

Xem thêm: Phân tích bài Từ ấy lớp 11 học sinh giỏi

Phân tích Từ ấy khổ 2 – Mẫu 1

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mệnh rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời khắc có ý nghĩa quyết định cả thế cuộc cách mệnh và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mệnh. Bài thơ là tiếng reo vui của người đội viên say mê lí tưởng, yêu nước, yêu thế cuộc, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan niệm, là nhận thức sâu sắc của thi sĩ về mối quan hệ mật thiết giữa tư nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại lao động dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản. Điều đó được thể hiện rõ nhất ở khổ thơ thứ hai.

Khổ thơ thứ hai là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mệnh, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.

nếu như ở khổ thơ trước với giải pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng tiếng nói giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhõm, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân tình của thi sĩ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mệnh”. Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của thi sĩ đối với giai cấp lao động. thi sĩ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi tư nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hoà giữa “cái tôi tư nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi tư nhân” để sống chan hoà với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn thi sĩ trải rộng ra với thế cuộc, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, thi sĩ đặc biệt quan tâm tới quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung tình cảnh trong thế cuộc, kết đoàn chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi tư nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đó, thi sĩ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.

Khổ 2 Từ ấy tiêu biểu cho văn pháp lãng mạn cách mệnh trong giai đoạn sáng tác trước hết của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân tình những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên khởi đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào tuyến đường cách mệnh đầy hắc búa, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mệnh. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

Phân tích Từ ấy khổ 2 – Mẫu 2

Tố Hữu là thi sĩ nổi tiếng và trưởng thành theo cách mệnh. Thơ của Tố Hữu là sự pha trộn hài hòa giữa chất trữ tính và chính trị. Ông cho ra đời rất nhiều tác phẩm thơ sống mãi và nổi tiếng như Việt Bắc, Gió Lộng, Ra Trận, Máu và Hoa… Một trong những tác phẩm nổi tiếng trong tập thơ của Tố Hữu phải kể tới Từ Ấy. Từ Ấy là tác phẩm mở đầu tuyến đường cách mệnh, tuyến đường thi ca của Tố Hữu. Bài thơ cũng là chân lý sống của tác giả thông qua lý tưởng cách mệnh. Đặc biệt ở hai khổ thơ đầu của bài thơ thể hiện rõ những vấn đề trong bài.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Mọi người đều có những giây phút trọng đại của thế cuộc và có những xúc cảm riêng hạnh phúc khôn tả. Trong tình yêu, hạnh phúc là khi yêu và được yêu, trong tình cảm gia đình, hạnh phúc là khi có mẹ có cha ở bên… Có thể nói, hạnh phúc với mỗi người là khác nhau nhưng đều chung một cảm giác, đó là tuyệt vời, là nắng ấm dịu dàng. Và với Tố Hữu, thì hạnh phúc tuyệt vời lúc này đây chính là gặp được lý tưởng cách mệnh, khiến cho tâm hồn của tác giả thử nở hoa, hạnh phúc không thể thốt thành lời.

“Từ ấy” là một khoảng thời gian không xác định nhưng nó cũng tức là rất lâu rồi, từ khoảnh khắc ấy, khoảnh khắc trông thấy chân lí của thế cuộc mình. Đó là khoảnh khắc tác giả thấy được ánh sáng cách mệnh, thấy được tuyến đường cứu nước đúng đắn và ông tin theo nó. Mặt trời ở đây chính là mặt trời chân lý, ánh sáng cách mệnh.

nếu như trái đất tồn tại được vì có ánh sáng của mặt trời soi sáng, khiến cho vạn vật đâm chồi nảy lộc, sự sống hình thành. Thì ánh sáng cách mệnh cũng chính là mặt trời rọi chiếu vào trái tim tác giả, khiến cho trái tim, khối óc của người đội viên như bừng sáng, xóa tan đi mọi u tối và tìm được cho mình tuyến đường đi đúng đắn. Vì vậy, tâm hồn của người đội viên cách mệnh lúc này đây mới rộn ràng tiếng chim, đậm hương thơm và là một vườn hoa lá. Tâm hồn hay chuẩn xác là niềm vui, niềm vui khôn xiết. Ánh sáng cách mệnh rọi chiếu khiến cho trái tim người cộng sản rộn rực, hạnh phúc khôn tả không khác gì tình yêu lứa đôi và có nhẽ còn cao hơn cả tình yêu. Đó là tình yêu lí tưởng, tình yêu cách mệnh dành cho dân tộc, cho quốc gia.

Khi bạn đang bế tắc trước thế cuộc, tuyến đường đi tăm tối không biết nên đi hướng nào cho đúng, bạn gặp được chân lí thế cuộc, gặp được ánh sáng dẫn bạn đi đúng hướng thì còn gì tuyệt hơn. Và người đội viên cách mệnh cũng vậy.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời

Sau những giây phút sung sướng trông thấy lý tưởng thế cuộc và cần phải đi, người cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động thật xứng đáng. Đó chính là trách nhiệm đối với thế cuộc, những kiếp người khốn khổ.

Tác giả sử dụng động từ “buộc” cho thấy sự chủ động, ràng buộc và xóa đi cái tôi tư nhân, thay vào đó là cái tôi hướng tới những kiếp người. Sự hẹp hòi ích kỉ không có mặt ở đây. Trên tuyến đường cách mệnh mà người đội viên đã lựa lựa chọn chỉ có sự hi sinh, đồng lòng, kết đoàn và thấu hiểu. Tác giả tự cho mình là con của mọi nhà, là anh của vạn kiếp phôi pha, là anh của vạn đầu em nhỏ… Tác giả đã “buộc” tức là dứt khoát, mạnh mẽ, lí trí sáng suốt thế cuộc mình với người dân. Dù đó là ai, thì người đội viên cách mệnh cũng sẽ tận tình phụng sự. Đây chính là ý thức tự nguyện, tình nhân ái làm cho mỗi người hòa vào thế cuộc và trở thành con người theo nghĩa của nó.

Khi con người kết đoàn, sống vì nhau sẽ tạo nên một khối thống nhất. có nhẽ vì vậy mà dân tộc Việt Nam bé nhỏ đã có thể “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” vì tình tương thân tương ái, hòa quyện vào nhau. Và có nhẽ, chính những con người cộng sản ấy đã là sợi dây kết nối vô hình để sắp gũi hơn với những mảnh đời xấu số, để hiểu và dẫn dắt họ đứng lên, đấu tranh tìm hạnh phúc.

Từ ấy là bản đàn dạo vui trước hết của người cộng sản khi gặp ánh sáng cách mệnh. Trong hai khổ thơ đâu cũng chính là niềm vui, là trách nhiệm cao cả mà người đội viên cảm nhận và thấy được. Tâm hồn bừng sáng cũng là lúc trái tim lí trí phải mạnh mẽ, dứt khoát và quyết tâm. Cho dù tuyến đường đó hắc búa khó khăn nhưng vẫn tiến về phía trước để thay đổi những thế cuộc xấu số.

Phân tích khổ 2 bài Từ ấy – Mẫu 3

Nghĩ về Tố Hữu, Chế Lan Viên từng chia sẻ: “Tố Hữu là một thi sĩ có lý tưởng. Lý tưởng ấy khiến cho thi sĩ luôn nghe được bên tai tiếng gọi của Tổ quốc, tự mình biến thành tiếng gọi ấy để thức tỉnh lòng người”. Khi đọc và cảm nhận bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu, ta lại càng thấm thía hơn lời chia sẻ của thi sĩ Chế Lan Viên. Khổ thơ thứ hai trong bài thơ cũng là một đoạn thơ đặc sắc, giàu ý nghĩa.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Đây là đoạn thơ thứ hai trong bài thơ “Từ ấy”. Sau khổ thơ thứ nhất diễn tả những xúc cảm mãnh liệt, dâng trào mạnh mẽ vì được là một phần trong hàng ngũ những người sống và phấn đấu vì lý tưởng cao đẹp, nhân vật trữ tình đã tiếp tục chia sẻ niềm vui sướng, hạnh phúc của mình với “trăm người”, “trăm nơi”.

nếu như như những thi sĩ lãng mạn cùng thời chưa có một nhân sinh quan sống đúng, họ sống chán nản hoặc tách biệt với nhân dân. Chẳng hạn như Xuân Diệu viết:

“Ta là một là riêng là thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi cùng ta”.

Hay như Chế Lan Viên thì nói:

“Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng biết
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.

Thì Tố Hữu lại có một nhận thức mới mẻ đúng đắn đó là:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi”.

Buộc là một cách nói ngoa dụ nhưng nhằm nhấn mạnh sự gắn bó kết đoàn với mọi người với nhân dân. Và Tố Hữu xác định gắn bó kết đoàn chưa đủ mà phải trang trải tình cảm, chia sẽ yêu thương với trăm nơi với mọi nhà. Hai chữ “buộc” và “trang trải” tình cảm với mọi người với trăm nơi đã thể hiện cái nhận thức khá toàn diện về một quan niệm sống mới, tức là một nhân sinh quan mới.

Sau nhận thức buộc và trang trải tình cảm thi sĩ còn thể hiện một nhận thức mới cụ thể hơn, đó là buộc và trang trải tình cảm với bao hồn khổ là với những con người lao khổ, để không ngoài mục đích là cho “mạnh khối đời” cho mạnh lực lượng chống chọi. tương tự quan niệm về gắn bó và chia sẻ tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể và có mục đích cụ thể.

Khổ thơ thứ hai thi sĩ đã phản ánh kết quả của lý tưởng Đảng được soi chiếu vào tâm hồn thi sĩ ở khổ thơ thứ nhất. Đó là sự hình thành một nhân sinh quan mới, đó là quan niệm sống vì mọi người vì cách mệnh.

Thơ Tố Hữu luôn sống mãi trong tim mỗi người dân Việt Nam. Niềm cảm hứng, ý thức, ý chí quyết tâm góp công sức tư nhân vào công cuộc xây dựng, đắp bồi cái chung ông gửi vào từng trang thơ luôn lan tỏa mạnh mẽ tới từng thế hệ người Việt Nam. “Từ ấy” là một bài thơ tiêu biểu cho điều đó.

Phân tích khổ 2 bài thư từ ấy – Mẫu 4

Tố Hữu là một trong những thi sĩ cách mệnh nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho tuyến đường cách mệnh, tuyến đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lý sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lý sống, lẽ sống mới của lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi phân tích khổ 2 của bài thư từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.

Khi giác ngộ lý tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi tư nhân và cái ta chung của mọi người:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi tư nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn tức là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản.

Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của thi sĩ đang trải rộng với thế cuộc: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói tới ý thức kết đoàn. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một tình cảnh, cùng chung một lý tưởng, kết đoàn với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc.

tương tự, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chuẩn xác, giàu hàm ý, thi sĩ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh kết đoàn, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi tư nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội.

Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa tư nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lý tưởng của thi sĩ Tố Hữu.

Phân tích khổ 2 bài thư từ ấy – Mẫu 5

Tố Hữu được mệnh danh là thi sĩ của dân tộc. Thơ ca của ông có tác động vô cùng lớn tới đời sống của nhân dân những năm cách mệnh. Tập thơ “Từ ấy” mở đầu cho chặng đường thơ ca cách mệnh của ông. Bài thơ cùng tên sáng tác năm 1938 như khúc hát sôi nổi về nhiệt huyết, tình yêu niềm tin với Đảng và cách mệnh. Mở đầu bài thơ là những câu thơ diễn tả xúc cảm dạt dào của người thanh niên trẻ tuổi, thì những vẫn thơ tiếp vẫn là mạch xúc cảm đó tác giả nói lên tiếng nói tình cảm gắn kết khối đại kết đoàn của dân tộc trong ánh sáng cách mệnh Đảng.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Tố Hữu tự nguyện“ buộc” lòng mình với long mọi người. Dưới ánh sáng của cách mệnh, tác giả thử hòa mình vào với muôn triệu trái tim Việt Nam. Từ “buộc” thể hiện sự gắn bó chặt chẽ, kết đoàn. Tác giả nguyện cùng đứng trong khổ cực, cùng nghèo đói, cùng vui sướng cùng hạnh phúc với người dân Việt Nam. Ông không ngại khổng ngại khó.

Cũng từ chữ “buộc” ta như thấy được sự trách nhiệm của ông đối với dân tộc, quốc gia. Trách nhiệm của một người dân Việt Nam là bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trách nhiệm của người đội viên cách mệnh là yêu thương lấy đồng bào, bảo vệ nhân dân thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi nghèo đói.

Tác giả “để tình trang trải với muôn nơi”. Phải chăng cái tình của tác giả mênh mông rộng lớn có thể “trang trải” tới muôn nơi? Đúng thế, đó là tình yêu với muôn vàn người dân đất Việt. Tình yêu đó mênh mông, tình yêu đó rộng lớn. Tác giả cuốn tình yêu của mình được hòa cùng tính yêu của muôn người. Đó là tình yêu to lớn, tình yêu gắn bó.

Không chỉ “trang trải tới muôn nơi” mà Tố Hữu còn muốn “Để hồn tôi với bao hồn khổ”. “ Hồn khổ” đó là cách nói hình ảnh về những con người Việt Nam thời kì này bị chiến tranh làm cho nghèo đói, bị thực dân đàn áp, cuộc sống khó khăn, vất vả. Những con người đó sống trong những tháng ngày tăm tối của nô lệ, của đàn áp. Tác giả nguyện để mình sống cùng những khổ cực, sống cùng những trắc trở để san sẻ những nỗi khổ, nỗi đau của triệu người dân.

Điệp từ “để” đứng ở đầu câu nhấn mạnh tình cảm, sự vị tha của một con người không chỉ yêu cách mệnh mà yêu cả những con người xung quanh. Đó là lí tưởng mới khi ánh sáng Đảng đã soi chiếu. Sống không chỉ vì ta mà còn vì mọi người.

Câu thơ cuối vang lên đầy xúc cảm:

“sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

“Khối đời” một cách nói trừu tượng về tình kết đoàn, sự gắn bó chặt chẽ của mọi người dân đất Việt Nam. Đó là những con người cùng chung tình cảnh khó khăn, cùng chung hoàn cảnh khổ cực. Đó cũng là cũng con người chung lý tưởng, chung chí hướng: sống vì quốc gia, vì dân tộc, đấu tranh cho một hòa bình độc lập dân tộc. Tố Hữu muốn nhấn mạnh trong khó khăn gian khổ, con người cùng nhau sắp gũi, cùng nhau sát cánh, cùng nhau đứng lên chống chọi thể hiện tình kết đoàn, tình dân tộc thì mọi điều đều vượt qua dễ dàng.

Khổ thơ với cách sử dụng từ ngữ hình ảnh chuẩn xác, hình ảnh, thơ mộng lãng mạn đã thể hiện rõ tư tưởng tình cảm, lý tưởng của tác giả. Khi cái tôi hòa vào cùng cái ta, khi cái riêng tư hòa cùng cái chung của cộng đồng thì lý tưởng ý chí được nhân lên, được củng cố thêm mạnh mẽ, vững chắc. Và ánh sáng của Đảng của cách mệnh đã soi sáng cho lý tưởng, cho ý chí đó.

Phân tích khổ 2 bài thư từ ấy – Mẫu 6

Tố Hữu là một trong những cánh chim đầu đàn trong nền thơ ca, văn học Việt Nam. Cả thế cuộc sự nghiệp sáng tác của ông đều hướng tới tư tưởng yêu nước, tự hào dân tộc và lý tưởng cách mệnh chống chọi của nhân dân ta. Trong vô vàn những tập thơ tiêu biểu, chắc hẳn những người yêu thơ không thể quên được tập thơ đầu tay của ông mang tên “ Từ ấy”. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “ từ ấy”, tác giả đã gửi gắm, thể hiện trọn niềm vui của người thanh niên trẻ khi được giác ngộ với cách mệnh.

Bài thơ được sáng tác vào năm 1938, trong giai đoạn Tố Hữu được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Đây được xem là một trong những dấu mốc quan trọng nhất thế cuộc thi sĩ, khi ông tìm được tuyến đường chân lý sẽ đi trong những tháng năm tuổi xanh. Luôn trong tâm thế khát vọng được chống chọi, cống hiến cho sự nghiệp phóng thích nước nhà, tác giả đã viết nên bằng tất cả niềm say mê, hạnh phúc khi có đảng qua những câu thơ trước hết:

“Từ ấy” là khoảng thời gian từ khi tác giả được giác ngộ lý tưởng cộng sản, ông cảm thấy vô cùng vui sướng, hạnh phúc biết bao. Hình ảnh “ bừng nắng hạ” bừng lên biết bao xúc cảm vỡ òa của tác giả khi được trải qua những khoảnh khắc thiêng liêng ấy. Một luồng ánh sáng chói sáng, hòa mình cũng hình ảnh ẩn dụ “ mặt trời chân lí chói qua tim” cho lí tưởng cách mệnh.

Tố Hữu đặc biệt sử dụng động từ “ bừng” và “ chói” đã gợi tả nên ánh sáng rực rỡ, mạnh mẽ từ khi Đảng mang lại cho thế cuộc ông. Trái tim ông như được tiếp thêm ngọn lửa rực cháy. Khi trái đất không thể tồn tại khi không có sự hiện diện của mặt trời, tựa như thế cuộc của thi sĩ sẽ không thể nào có lối sáng, nhận được những điều tốt lành nếu như như không có sự soi đường dẫn lối của cách mệnh.

Tiếp nối mạch xúc cảm, bằng tâm hồn và văn pháp trữ tình lãng mạn, giàu sức tạo hình, Tố Hữu đã tiếp tục diễn tả nỗi niềm vui mừng vô hạn trong những phút giây trước hết được sánh vai trong hàng ngũ của Đảng:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Những cặp hình ảnh ẩn dụ như “vườn hoa lá” và “ rộn tiếng chim” đại diện cho một toàn cầu mới tràn đầy hương sắc và sức sống. Phía sâu trong tâm hồn của người con người trẻ tuổi là những mong muốn, khát vọng đang thi nhau “đâm chồi nảy nở” tựa như hoa lá mùa xuân. Nó là một hình ảnh so sánh trừu tượng nhưng tác giả vẫn khiến cho người đọc như cũng cảm nhận được vô cùng trung thực của chính thi sĩ.

Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mệnh không chỉ mang tới ngọn nguồn sức sống mới mà còn mang tới những niềm say mê cho tác giả. Rồi ngày mai kia, ta sẽ còn có rất nhiều thời cơ được trải lòng mình đón ánh nắng sớm mai, cùng hương thơm ngạt ngào trong gió thoảng và tiếng chim lảnh lót bên tai. Những cảnh sắc yên bình, hài hòa và đẹp tươi mà quốc gia sẽ được đón chào nhờ có Đảng sẽ là động lực lớn lao cho tác giả phấn đấu.

Khi giác ngộ lý tưởng ấy, Tố Hữu đã khẳng định quan niệm về lẽ sống mới. Ta với Đảng tuy hai mà một, đã là một đảng viên, cần phải biết hòa chung cái tôi tư nhân và cái ta chung của tập thể:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời

Ngay từ khi ấy, thi sĩ đã tự nguyện “ buộc” lòng mình với mọi người, mọi người chính là cả nhân dân, những người dân máu đỏ da vàng luôn hướng về lá cờ đỏ sao vàng. “ Buộc” còn tức là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Từ những người nông dân chuyên lao động động, tới những người cùng chung giai cấp, họ đều ở đây, cùng nhau chống chọi vì quốc gia. Tâm hồn thi sĩ đang được “ trang trải” khắp bốn bề tổ quốc, để góp chút sức mạnh vào khối kết đoàn của dân tộc.

“Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung tình cảnh, lý tưởng , gắn bó với nhau và cùng phấn đấu vì một lợi ích chung của toàn dân tộc. Toàn bộ khổ thơ trên, thi sĩ đã bộc bạch hết những nỗi lòng, tâm tư thương yêu mến mộ đồng bào. Tình yêu giữa người với người, tình thương khi quốc gia bị chia cắt, giặc thù xâm hại sẽ thôi thúc những con người ấy kết đoàn, gắn bó nhau hơn. Khi ta có thể gạt bỏ cái tôi tư nhân, những mưu cầu cá thể để hướng tới mục đích chung của một dân tộc, thì “quân thù nào cũng bị xoá sổ, khó khăn nào cũng có thể vượt qua”.

Chỉ qua những câu thơ ngắn ngủi nhưng rất đỗi chân tình, từ niềm vui, hoan hỉ của tác giả khi được bắt gặp ánh sáng chân lý của Đảng đã khiến thế cuộc Tố Hữu bừng sáng biết bao. Những hình ảnh ẩn dụ hết sức sắp gũi và giàu ý nghĩa đã giúp người đọc cảm nhận được tận tình quyết tâm, lời thề trung thành với nước với dân của thi sĩ.

Phân tích khổ 2 bài thư từ ấy – Mẫu 7

Tố Hữu là một trong những thi sĩ cách mệnh nổi tiếng nhất, ông có những tác phẩm thơ sống mãi như tập Việt Bắc (1947-1954), tập Gió lộng (1955-1961), tập Ra trận (1962-1971), Máu và hoa (1972-1977),…. Một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của ông là bài Từ ấy. Từ ấy là bài thơ mở đầu cho tuyến đường cách mệnh, tuyến đường thi ca của Tố Hữu, bài thơ đồng thời là một chân lí sống của tác giả trong cuộc sống. Khổ 2 của bài thơ thể hiện sự nhận thức của tác giả về chân lí sống, lẽ sống mới qua lí tưởng đảng. Chúng ta cùng đi phân tích khổ 2 của bài thư từ ấy để hiểu rõ hơn những vấn đề trong bài.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi”

Động từ “buộc” được sử dụng một cách rất “đắt” trong câu thơ này. Nó là sự tự nguyện, là thái độ mong muốn được gắn kết sẻ chia. thi sĩ tự kết dính tấm lòng của mình với tất cả mọi người. Ông xem mọi người đều là người thân của mình, đều là đồng chí anh em cùng chung thiến nạn sướng vui, để chính ông tự muốn ràng buộc bản thân mình với họ. Sự ràng buộc này không phải là một mối quan hệ cụ thể, nó chính là sợi dây ân tình ơn nghĩa sâu nặng mà Tổ Hữu muốn gắn kết giữa muôn người. Ông muốn mọi người vui chung với niềm vui của ông, cùng chiêm nghiệm và giác ngộ lý tưởng cách mệnh để tuyến đường kháng chiến thêm những anh hùng. Tố Hữu đã đi từ cái “tôi” tư nhân tới cái “ta”chung ở tất cả mọi người. “Buộc” còn tức là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Thân làm nam nhi sinh ra giữa đất trời, trách nhiệm nặng nề và vinh hạnh luôn trên đôi vai người đội viên, chính là nhiệm vụ phóng thích, bảo vệ tổ quốc. Mọi người ở đây là những người nông dân Việt Nam, những con người hiền lành khổ cực, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Ta bỗng nhớ tới những câu thơ nói về chí làm trai:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.

Tố Hữu muốn ánh sáng cách mệnh được lan tỏa khắp nơi nơi, chiếu soi cho những thế cuộc khổ cực, soi sáng cho những tuyến đường còn mù mịt tăm tối, để cuối cùng, sức mạnh toàn dân tộc được gắn chặt, trỗi dậy và hành động thực sự. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của thi sĩ đang trải rộng với thế cuộc: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. thi sĩ tìm về sức mạnh của sự kết đoàn toàn dân tộc, cùng nhau nắm chặt tay chống chọi để trả nợ mối thù non sông. Điều này xuất phát từ ý thức giác ngộ cách mệnh của người đội viên Tố Hữu lúc bấy giờ.

Có thể thấy rằng toàn bộ đoạn thơ là lời bộc bạch chân tình về tâm trạng của thi sĩ khi gặp ánh sáng của thế cuộc mình. Với lối viết giản dị chân tình, Tố Hữu giúp độc giả hiểu và cảm nhận được niềm vui sướng mãnh liệt đang trào dâng trong trái tim người lính anh hùng.

Phân tích khổ 2 bài thư từ ấy – Mẫu 8

Lý tưởng cách mệnh là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả quốc gia ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang đơn độc của ông. Và “Từ ấy” ra đời như một kết quả thế tất, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên cách mệnh, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hoan hỉ mà rộn ràng Tố Hữu được lần trước hết đứng trong hàng ngũ của Đảng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua khổ thơ thứ hai bài Từ ấy.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Khổ thơ thứ hai của bài thơ là biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình. thi sĩ nguyện dấn thân vào thế cuộc nhân dân, “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” với nhân dân. Đó là nhận thức, là giác ngộ, là lẽ sống lớn. thi sĩ kết nối “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”, kết nối “kiếp phôi pha” để rồi cuối cùng làm cho “mạnh khối đời” – khối đại kết đoàn dân tộc.

Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Nhà thơ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với “mọi người”, với “trăm nơi”, với quần chúng đông đảo khắp mọi miền đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt với những thi sĩ Mới đương thời, trong khi Tố Hữu giác ngộ cách mệnh và đi theo tuyến đường lý tưởng thì những thi sĩ mới lại đang đau buồn với cái tôi bé nhỏ, đơn chiếc, chôn chặt niềm đau trong những vần thơ bi lụy.

Nhận thức mới của Tố Hữu cũng thật khác xa với nhân vật Hạ Du (Thuốc – Lỗ Tấn), Hạ Du xa rời quần chúng nhân dân để rồi ôm nỗi đau thảm kịch của người cách mệnh còn Tố Hữu lại biết đứng về nhân dân lao khổ và giác ngộ trong hàng ngũ ấy.

“Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Hai câu thơ này đã khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hòa vào tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng, Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”. Thật đáng quý biết bao tâm hồn cao đẹp ấy.

Nói tóm lại bài thơ “Từ ấy” là một bài thơ của một cái tôi tràn đầy xúc cảm. Đó là cái Tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem tất cả ý thức và tuổi xanh của mình phụng sự cho lý tưởng cao cả ấy. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.