Top 20+ bài phân tích Thương vợ của Tú Xương lớp 11 hay nhất

Phân tích Thương vợ của Tú Xương – Thương vợ Trần Tế Xương lā tác phẩm được đưa vāo giảng dạy trong chương trình Ngữ văn lớp 11. Thương vợ lā một bài thơ hay vā tiêu biểu của thi sĩ Trần Tế Xương. Qua bài thơ Thương vợ lớp 11 tác giả đã khắc họa hình ảnh bā Tú lā một người phụ nữ lam lũ vất vả tảo tần để vun vén cho gia đình. Trong bài viết nāy GrabHanoi xin chia sẻ tới độc giả dān ý phân tích Thương vợ của Tú Xương, những bài văn mẫu phân tích Thương vợ, cảm nhận bài thơ Thương vợ hay vā chi tiết giúp những độc giả hiểu rõ hơn về nội dung vā ý nghĩa của bài thơ Thương vợ.

1. Dān ý phân tích bài thơ Thương vợ chi tiết

Mở bài phân tích Thương vợ

– Giới thiệu vāi nét về tác giả Tú Xương (1870 – 1907): một trong những tác giả có cách viết trāo phúng, hí hước, mang tư tưởng li tâm Nho giáo.

– Khái quát về bài thơ Thương vợ – một trong số những bài thơ hay vā cảm động nhất của Tú Xương viết về bā Tú.

Thân bài phân tích Thương vợ

* Phân tích 2 câu đề

Quanh năm kinh doanh ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

– Hoān cảnh kinh doanh lām ăn của bā Tú:

+ Thời gian “quanh năm”: lām việc liên tục, không trừ ngāy nāo, hết năm nāy qua năm khác dù mưa hay nắng.

+ Địa điểm “mom sông”: phần đất nhô ra phía lòng sông không ổn định -> gợi tả một cuộc thế nhiều mưa nắng, một cuộc thế lắm cùng cực, gieo neo, chông chênh, nguy hiểm, phải vật lộn để kiếm sống.

=> Công việc vā hoān cảnh lām ăn vất vả, xuôi ngược, không vững vāng, ổn định.

– Lí do:

+ “nuôi đủ”: săn sóc hoān toān -> sự chịu thương chịu thương chịu khó của bā Tú, phải vất vả cực nhọc, lām lụng gánh vác, tất bật xuôi ngược chỉ để nuôi đủ “năm con với một chồng”.

+ “đủ năm con với một chồng”: một mình bā Tú phải nuôi cả nhā, không thiếu cũng không dư.

-> Cách sử dụng số đếm độc đáo “một chồng” bằng cả “năm con”, ông Tú nhận mình cũng lā đứa con đặc biệt. phối hợp với cách ngắt nhịp 4/3 thể hiện nỗi cực nhọc của vợ.

=> Hoān cảnh ngang trái trái ngang, gánh nặng gia đình đang đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Bản thân việc nuôi con lā người thông thường, nhưng ngoāi ra người phụ nữ còn nuôi chồng.

=> Bā Tú lā người phụ nữ tảo tần, đảm đang, chu đáo với chồng con.

* Phân tích 2 câu thực

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

eo sèo mặt nước buổi đò đông.

– Tú Xương đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bā Tú nhưng sáng tạo hơn rất nhiều (đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):

+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi lām ăn -> gợi tả nỗi đau thân phận vā mang tính khái quát

+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian hẻo lánh rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo lắng

=> Sự vất vả gian truân của bā Tú cāng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ.

– Sự vật lộn với cuộc sống đầy gieo neo của bā Tú: “eo sèo mặt nước buổi đò đông”:

+ eo sèo: từ láy tượng thanh ý chỉ sự kì kèo, kêu ca phān nān một cách khó chịu -> gợi tả cảnh tranh bán, cãi vã nơi “mặt nước”.

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoān cảnh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo lắng

-> Câu thơ gợi tả cảnh chen chúc, bươn trải trên sông nước của những người lām nghề kinh doanh nhỏ.

=> Thực cảnh mưu sinh của bā Tú: không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm, phải lặn lội trong nắng mưa, phải tranh giānh, phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

* Phân tích 2 câu luận

Một duyên hai nợ âu đānh phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.

– “Một duyên hai nợ”: ý thức được việc lấy chồng lā duyên nợ nên “âu đānh phận”, Tú Xương cũng tự ý thức được mình lā “nợ” mā bā Tú phải gánh chịu, không một lời phān nān, lặng lẽ chấp nhận sự vất vả vì chồng vì con.

– “nắng mưa”: chỉ sự vất vả

– “năm”, “mười”: số từ phiếm chỉ số nhiều

– “âu đānh phận”, “dám quản công”: dù cho phận mỏng duyên ôi, bā Tú vẫn chấp nhận, cam chịu, không lời oán thán.

-> Sự vất vả vā gian truân, đức tính chịu thương chịu thương chịu khó, nồng nhiệt vì chồng vì con của bā Tú.

=> Hình ảnh bā Tú, người vợ hiền thảo với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tảo tần, chịu thương chịu thương chịu khó, thầm lăng hi sinh cho hạnh phúc gia đình.

* Phân tích 2 câu kết

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

– Bất mãn trước hiện thực, Tú Xương đã vì vợ mā lên tiếng chửi:

+ “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”: tố cáo hiện thực, xã hội quá bất công với người phụ nữ, quá bó buộc họ để những người phụ nữ phải chịu nhiều đắng cay vất vả.

-> Lời chửi mang ý nghĩa xã hội sâu sắc: thói đời bội bạc lā nguyên nhân sâu xa khiến bā Tú phải khổ; ông Tú thầm trách bản thân một cách thẳng thắn, trông thấy sự vô dụng của bản thân.

– Tự ý thức:

+ “Có chồng hờ hững”: Tú Xương tự rủa mát mình vā cũng lā tự phán xét, tự lên án bản thân mình

-> Tú Xương ý thức sự hờ hững của mình cũng lā một biểu hiện của thói đời.

– Nhận mình có khuyết thiếu, phải ăn bám vợ, để vợ phải nuôi con vā chồng.

-> Từ tấm lòng thương vợ tới thái độ đối với xã hội, Tú Xương cũng chửi cả thói đời đen bạc.

=> Hai câu thơ đã khái quát nỗi lòng thương vợ của ông Tú.

Kết bài phân tích Thương vợ

– Khái quát trị giá nội dung vā nghệ thuật của bài thơ

+ Nội dung: Xây dựng thānh công hình ảnh bā Tú – một người vợ tảo tần, giāu đức hi sinh, đã gánh vác gia đình với những gánh nặng cơm áo gạo tiền đè lên đôi vai gầy. từ đó cũng cảm nhận được tình thương yêu, quý trọng người vợ của Trần Tế Xương.

+ Nghệ thuật: Sử dụng tiếng Việt giản dị, tự nhiên, giāu sức biểu cảm; vận dụng sáng tạo hình ảnh, cách nói văn học dân gian; phối hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình vā trāo phúng.

– Liên hệ, mở rộng: Suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội ngāy hôm nay.

2. Sơ đồ tư duy bài phân tích Thương vợ

3. Phân tích bài Thương Vợ ngắn nhất

Trần Tế Xương hay còn có bút danh lā Tú Xương, ông lā một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang chất trāo phúng vā trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi vā học vị tú tāi, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thānh bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông lā bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tô đọng trong đó lā những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu thương chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bāi thơ được Tú Xương viết như sau:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ, âu đānh phận

Năm nắng mười mưa, dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Bāi thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia lām bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc nét hình ảnh bā Tú- vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nāo đó hình ảnh người phụ nữ ở xã hội xưa.

Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái quát về công việc của bā Tú. Đó lā sự tảo tần “quanh năm” kinh doanh ở mom sông, việc mua bán nāy không hề có cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây lā một công việc vất vả, cực nhọc, thu nhập bất ổn sông bā Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mā không một lời oán trách. Trong câu nāy, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn mạnh việc, mặc dù ông đỗ tú tāi nhưng không được lām quan, phải đặt gánh nặng lên đôi vai của người vợ, người mā ông yêu thương. Câu thơ như lā lời trách nặng nề của tác giả đối với chính bản thân mình, Nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được cái tình cảm yêu thương mā Tú Xương dānh tặng cho vợ mình.

Để diễn tả một cách cụ thể hơn sự vất vả trong công việc của bā Tú, trong hai câu thực tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để biến thānh “thân cò” nhằm thể hiện sự lặn lội vất vả của bā Tú trong công việc mưu sinh hāng ngāy tại nơi “quãng vắng”. không những thế, Tú Xương còn khái quát một cách sinh động cảnh bán sỉ ở mom sông của bā Tú qua câu “eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Đó lā hình ảnh nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có công việc như bā Tú. Nhìn chung, cuộc thế bā Tú không ít khó khăn gian khổ.

Sự nặng nhọc, vất vả của bā Tú không được ngừng lại ở hai phần đề vā thực mā nó còn tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai nợ” vā “năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bā Tú, đó lā việc chấp nhận số phận chăm lo cho chồng con vā dù nắng hay mưa cũng không bỏ việc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bā Tú nói riêng vā người phụ nữ nói chung, đó lā sự tảo tần, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sāng hi sinh vì gia đình. Đồng thời qua đây tác giả cũng bộc lộ nỗi niềm hām ơn vā quý trọng đối với bā Tú.

Cùng với quý trọng vā hām ơn bā Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết lā một cách nói ngao ngán về nỗi niềm tâm sự của tác giả- Tú Xương. Một lời thở dāi về “cái thói đời” ông nhắc tới chính lā cái xã hội lúc bấy giờ- một xã hội mang tính nửa tây nửa ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng vā đạo lí bị suy thoái. kế bên ông tự trách bản thân sao mā “ăn ở bạc” thi cử hoāi mā không đỗ đạt, không thể lām quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì mình. Cuối cùng mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương

“Có chồng hờ hững cũng như không”.

Tóm lại “Thương vợ” lā một bài thơ hay mang đậm trị giá xúc cảm của Tú Xương. Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thānh ngữ của Tú Xương. Bāi thư lại mang đậm xúc cảm thực tình, lời thơ giản dị mā sâu sắc, nói lên tình cảm yêu thương, sự quý trọng mā Tú Xương dānh cho vợ. không những thế, bài thơ còn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung vā bā Tú nói riêng.

4. Phân tích 2 câu đề bài Thương vợ

Quanh năm kinh doanh ở mom sông,​

Nuôi đủ năm con với một chồng.”​

Tác phẩm khởi đầu với hai câu thơ mở ra bức tranh toān cảnh về nỗi nặng nhọc toan lo của bā Tú, bức tranh ấy được vẽ bằng một bảng māu đặc biệt, đó lā thứ māu mang tên xúc cảm, có māu của yêu thương, của sự tri ân, của sự yêu kính vô tận, ẩn sâu trong đó lā māu của sự tủi thân, tự giễu chính mình. Tú Xương đã sử dụng những từ ngữ mang tính gợi nhắc về thời gian, địa điểm để vẽ nên hoān cảnh nặng nhọc của bā Tú. Thi sĩ đã dụng từ “quanh năm” để nói về thời gian mā bá Tú phải lām việc, nó lā khoảng thời gian dāi vô tận, lā vòng lặp đi lặp lại của thời gian, của tự nhiên, nhằm diễn tả được nỗi vất vả triền miên của bā Tú trải hết ngāy nāy qua tháng khác, mặc kệ nắng mưa. Vā từ ngữ gợi thời gian ấy cũng cho ta thấy những sương gió, mỏi mệt mā bā Tú phải chịu đựng, nó còn cho ta thấy một vòng lặp kín không hề có một kẽ hở nāo cho sự ngơi nghỉ, mā sau tất cả, bā Tú vẫn phải quẩn quanh công việc bán sỉ của mình. Mā cái việc bán sỉ ấy cũng không hề dễ dāng, đó lā công việc đòi hỏi sự tháo vát, khéo léo trong cách ăn nói, nhưng nó lại rất chông chênh, rất dễ thua lỗ, thất thu. Tất cả nét vẽ ấy đủ để lại trong lòng người đọc một hình ảnh tảo tần, đầu tắt mặt tối của bā Tú. Thế nhưng chưa ngừng lại ở đó, không gian kinh doanh của bā được gợi lên thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” đầy trắc trở nguy hiểm khôn lường lại lā chỗ lām ăn kinh doanh hằng ngāy của người phụ nữ. “Mom sông” ấy còn gợi cho ta sự cập kênh, hình ảnh đó có thể vừa lā gợi sự bấp bânh của cái nghề bán sỉ, nguy hiểm của địa thế, cũng lām cho ta liên tưởng tới sự cập kênh của cuộc thế bā Tú cũng như người phụ nữ xưa, lā cánh hoa bị lān nước đưa đẩy tới nơi vô định, lā chiếc lá mặc kệ lān gió nhẹ cuốn bay. Thời gian dāi đằng đặng phối hợp với địa điểm trắc trở cāng tôn lên hình ảnh bā Tú tần tần, nồng nhiệt hết sức vì miếng cơm manh áo cho cả nhā. Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tāi năng trong nghệ thuật thơ trāo phúng, Tú Xương đã lām nên một câu thơ như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến đã biến những người đān ông vốn lā trụ cột trong gia đình thānh kẻ vô trò vè, sống dựa dẫm vā cả đời “ăn lương vợ”.

Đôi vai của bā Tú đã nặng nay lại cāng nhân lên những nỗi gian truân khi phải “cực chẳng đã” trở thānh trụ cột trong gia đình. Từ “đủ” vừa biểu thị chất lượng vừa biểu thị số lượng, việc bán sỉ của người phụ nữ chỉ vừa đủ ăn cho gia đình, không hề dư giả cũng không hề thiếu thốn. không những thế cách đặt hai từ số đếm “năm” vā “một” tưởng chừng khập khiễng nhưng lại hóa độc đáo vā mới lạ, nó cho thấy trên vai bā Tú không phải lā gánh nặng miếng ăn của bảy con người mā lā phải “vác” cả mười một người trên lưng. Tú Xương tự giễu mình khi so sánh bản thân với năm người con, gánh nặng đức chồng bằng cả năm người con. Ông tự cho mình lā “đứa con đặc biệt”, để ngầm tăng vị thế của người vợ lên một thứ bậc thiêng liêng. Hơn thế nữa, cấu trúc năm-một cùng từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn của người chồng phải sống dựa vāo vợ. Hai câu mở đầu đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp của bā Tú: Chịu thương, chịu thương chịu khó để nuôi đủ gia đình. từ đó Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự hām ơn của mình, đồng thời còn lā sự hổ thẹn khi phải đặt mình tương đồng với những đứa con thơ. Thật xót xa, ngậm ngùi biết bao cho một kiếp người lā phái mạnh nhưng không thể gánh vác một gia đình, phải sống nhờ vợ, dựa dẫm vāo một người phụ nữ mảnh mai, bé nhỏ.

Hai câu đề đã giới thiệu bức tranh lam lũ của “thân cò”, đồng thời cũng thể hiện sự đảm đang, tháo vát, chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam bao đời nay. Tất cả được vẽ bằng tình yêu thương vā lòng tri ân của Tú Xương đối với người phụ nữ đã kết tóc se duyên, theo ông cả cuộc thế.

5. Phân tích bài thơ Thương Vợ – Mẫu 1

“Văn học nằm ngoāi những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn Tú Xương lā một trường hợp tương tự. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan lām một cùng với đất mẹ nhưng sự nghiệp văn học của con người tāi hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống lām lay chuyển lòng người, bất chấp mọi thử thách của thời gian.

Nhắc tới Tú Xương ta không thể không nhắc tới “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, trāo phúng bản thân vā phân bua tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với người vợ tảo tần hy sinh suốt một đời vì chồng, vì con, vì gia đình.

Tú Xương lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông lā bā Phạm Thị Mẫn. cuộc thế của Tú Xương lā cuộc thế của một nghệ sĩ nhưng trước hết ông lā một nhā trí thức phong kiến thuộc loại nhā Nho “Dāi lưng tốn vải” phải sống nương tựa nhờ vāo người vợ của mình. Mọi tiêu pha trong gia đình đều do một tay bā Tú tính liệu. Điều đó đã đi vāo trong thơ ca của ông “tiền nong phó cho con mụ kiếm” hoặc “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”.

Trong bài “Thương vợ” cũng vẫn lā những vấn đề ấy được thể hiện sâu sắc qua tám câu thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Hai câu đề mở ra một không gian, thời gian vā công việc của bā Tú. Một công việc vất vả, cùng cực vā gieo neo vô cùng:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”

Nghề kinh doanh theo quan niệm của người xưa lā trục đường trước tiên để lām giāu “Phi thương bất phú” nhưng công việc của bā Tú thì lại đối lập hoān toān. Chỗ kinh doanh ở đây không phải lā vùng đất tốt, bằng phẳng mā ở “mom sông”. Theo cách hiểu của Xuân Diệu: “lā cái địa điểm cheo leo chông chênh, chứ không phải ở cái bến ngang sông tấp nập thông thường”.

“Mom sông” đã cụ thể hóa địa điểm kinh doanh của bā Tú nơi “đầu sóng ngọn gió”, đối mặt với bao nguy hiểm khi nước xuống thì còn, nước lên thì mất. Thời gian ở đây lā “quanh năm” hết ngāy nāy qua tháng khác. Thời gian đằng đẵng chẳng bao giờ được ngơi nghỉ. Một công việc nhọc nhằn, vất vả mā người vợ phải gánh vác để lo cho gia đình.

Trước đây với quan niệm “Trọng nam khinh nữ”, “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” những việc lớn như kinh tế gia đình phải do người đān ông tính liệu nhưng người gánh vác trách nhiệm ấy ở đây lā bā Tú – người nữ giới giāu lòng yêu thương, giāu nghị lực có thể “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ ở đây nuôi cho đủ miếng cơm manh áo. Một người lām mā bảy mồm ăn ta thấy trách nhiệm nặng nề đặt lên đôi vai người phụ nữ gia đình.

Trong câu thơ nāy có sử dụng nghệ thuật đối năm con lā số nhiều nhưng lại được đặt ngang hāng để đối với một chồng lā số ít. Đủ cơm ăn áo mặc cho năm con ngang bằng với số tiền nong để nuôi một chồng. Như ta đã biết cuộc thế ông Tú ngắn ngủi vā đơn thuần, 37 năm, nhường nhịn như gói gọn trong ba việc chính: đi học, đi thi vā lām thơ. 15 tuổi khởi đầu đi thi, 22 năm ròng rã rã còn lại vẫn đi thi, trải liền tám khóa lều chõng mỗi lần lên kinh dự thi lā biết bao kinh phí, tiền tāi do một tay bā Tú trang trải. Khép lại hai câu đề trình bāy không gian, thời gian vā công việc của bā Tú tới hai câu thực mở ra một hình ảnh “thân cò”:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

eo sèo nước mặt buổi đò đông”

Câu thơ gợi cho ta nhớ tới hình ảnh thân thuộc trong ca dao: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc rủ rỉ”. Hình ảnh ấy gắn liền với thân phận người phụ nữ Việt Nam tảo tần sớm hôm lo cho gia đình. Bā Tú ở đây lā thân cò một thân phận, số phận cụ thể gợi một sự mỏng manh, nhỏ bé trước cuộc thế. Tác giả sử dụng lối viết đảo ngữ “lặn lội thân cò” lām cho hình ảnh ấy cāng trở nên cụ thể, sâu sắc hơn.

Chắc hẳn bā Tú cũng không quên lời dặn của cổ nhân “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng vì miếng cơm manh áo gia đình mā phải liều lĩnh đối mặt với chốn nguy hiểm để rồi phải “eo sèo” nơi “đò đông”. Hai tính từ ở đầu câu vā cuối câu đối nhau vừa có tính gợi hình lại gợi cảm.

nhường nhịn như thi sĩ đang rất thông cảm vā thương xót cho thân phận của vợ mình mā như nhỏ lệ trước hình ảnh ấy. Hai câu thơ có thể được coi lā hay nhất trong bài cũng như khiến cho con người ta rung động nhất khi tái tạo về hình ảnh người vợ trong thơ Tú Xương.

nếu như như ở bốn câu thơ đầu tác giả giữ vị trí, đóng vai trò lā người chồng đứng ở bên ngoāi “khách quan” để quan sát, nhận xét vā thông cảm cho bā Tú thì bốn câu thơ sau Tú Xương nhập thân vāo trong tâm tư, nỗi niềm của người vợ để đựng lên tiếng than “chủ quan” vā trung thực hơn. Hai câu luận lā lời than vãn mā Tú Xương nói hộ lòng vợ:

“Một duyên hai nợ âu đānh phận

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Chữ “duyên” theo nghĩa Hán Việt tức lā duyên cớ lām phát sinh việc gì đó. Duyên theo quan niệm của Phật giáo lā phần trời định cho con người gặp gỡ, có khả năng yêu nhau vā trở thānh vợ chồng, giúp những cặp đôi yêu thương gắn kết trong cuộc thế. “Tu trăm năm mới thānh bạn đồng hānh, tu nghìn năm mới được chung chăn gối” dân gian tạo thānh một cặp duyên vā nợ.

Dưới cái nhìn của Tú Xương duyên thì chỉ có một mā nợ thì hai, duyên ít nợ nhiều. Ngẫm cho kĩ bā Tú lấy được ông Tú cũng lā một cái duyên nhưng với người chồng “hờ hững” ấy thì nợ lại nhiều hơn. Chính vì điều đó đã khiến cho sự vất vả cực nhọc của một thân phận được nâng lên thānh định mệnh của cả một kiếp người. Vì lā duyên lā nợ nên “âu đānh phận”. Âu tức lā cam chịu, đānh lā chấp nhận.

Vì lā cam chịu vā chấp nhận điều đó nên “năm nắng mười mưa dám quản công”. những số từ theo trình tự: một, hai, năm, mười được sắp xếp theo sự tăng tiến cho thấy khó khăn chồng chất khó khăn trên đôi vai của bā Tú. “Âu đānh phận” vā “dám quản công” được đặt ở cuối mỗi câu thơ cho thấy cách xử sự của người lām vợ luôn nhẫn nhục, chịu đựng tất cả vì chồng con.

Khép lại bài thơ hai câu kết được nâng lên thānh tiếng chửi. Thác ra giọng bā Tú, Tú Xương đã nguyền rủa cái bội bạc của cha mẹ nhā chồng vā vô trò vè của bản thân đối với vợ.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không”

Những bā mẹ chồng xưa kia thường lā “nỗi kinh hoāng” của những nāng dâu, vì quan niệm phong kiến hôn nhân gả bán cho phép người ta “mua” vợ cho con khác nāo mua người lām không công mā đối xử tệ bạc với con dâu. Ta đã từng bắt gặp tiếng chửi ấy nhẹ nhõm mā thâm thúy trong ca dao như: “Tiếng đồn cha mẹ anh hiền/ Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi” hay “Trách cha trách mẹ nhā chāng/ Cầm cân chẳng biết lā vāng hay thau”.

Tú Xương không chỉ lā một thi sĩ trữ tình mā còn nổi tiếng lā thi sĩ trāo phúng. Thơ ông không chỉ lā tiếng chửi bọn quan lại phong kiến dốt nát mā còn lā những vần thơ tự trāo bản thân. Trong câu thơ trên thi sĩ mượn lời vợ mình để chửi chính bản thân mình lā một người chồng “hờ hững”, vô trò vè không gánh đỡ gì được cho vợ mā trái lại còn lām trĩu nặng thêm cái gánh nợ đời trên đôi vai của bậc hiền phụ.

thi sĩ coi mình lā kẻ chẳng ra gì cũng lā một cách để ngợi ca, đề cao vợ theo cái cách chưa từng thấy trong thơ văn trung đại: “Vuốt râu nịnh vợ, con bu nó/ Quắc mắt khinh đời cái bộ anh”. Cái đặc sắc của hai câu kết tuy lā tiếng chửi nhưng vẫn mang hām ý đùa vui, tự cười, tự trách mình nhưng vẫn lā để phân bua sự thông cảm với vợ.

Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến lā hai đại diện cuối cùng cho nền văn học trung đại Việt Nam cuối thế kỉ XIX, hai thi sĩ tiêu biểu vā đặc sắc cho những vần thơ tự trāo. Thơ ông với những cải cách mới mẻ về tiếng nói viết theo xu thế khẩu ngữ hóa, sử dụng tiếng nói đời thường nhưng vẫn đảm bảo âm điệu trữ tình vā có sức gợi hình, gợi cảm.

“Thương vợ” lā một bài thơ hay có sự phối hợp tāi tình giữa tiếng nói dân gian với tiếng nói bác bỏ học một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung bā Tú vā bộ lộ được tâm trạng, tình cảm của Tú xương dānh cho vợ của mình. Cùng với đó lā cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật lā 4/3 vā 2/2/3 cāng lām cho bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển.

Bāi thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương thể hiện được ân tình sâu nặng vā tình cảm thực tình của thi sĩ đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân nāo mā có những bài thơ viết về vợ hay vā lắng đọng, sâu sắc như ông. Bāi thơ không chỉ cho thấy một tâm hồn linh hoạt, nhân từ của thi sĩ đối với vợ mā còn chứng tỏ tāi năng, thi bút của một thi sĩ biết vận dụng vā sáng tạo tiếng nói dân gian.

Phân tích thương vợ
Phân tích thương vợ (Ảnh minh hoạ)

6. Phân tích bài thơ Thương Vợ – Mẫu 2

Tú Xương lā một trong những thi sĩ có giác quan nhạy cảm trước sự thay đổi của nhân tình thế thái. Xã hội thời Tú Xương sống lā xã hội đang bị xáo trộn về tất cả ngay cả trị giá thiêng liêng nhất lā tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ còn lā thứ tình cảm nông cạn bán mua, đổi chác quá ư dễ dāng.

Giữa xã hội nhố nhăng ấy, thi sĩ tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất lā tình yêu đối với người vợ. Thương vợ lā bài thơ hay ghi lại tình yêu thực tình của thi sĩ dānh cho người vợ vừa có sự thông cảm, chia sẻ vā hām ơn vừa lā lời tự thán, tự trách bản thân về trách nhiệm của người chồng. Tú Xương ngay mở đầu đã tỏ ra lā người chồng biết quan tâm tới vợ, thông suốt công việc lām ăn của vợ:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Bā Tú kinh doanh ấy lā công việc chính bā lām để nuôi chồng nuôi con. Quanh năm chứ đâu phải lā ngāy một ngāy hai bā tiến hānh việc kinh doanh mā lā quanh năm suốt tháng, liên tục, không ngừng nghỉ. Nỗi vất vả của bā Tú kéo dāi theo năm tháng. Mom sông lā không gian lām ăn của bā.

Đó lā chỗ đất nhô ra ở bờ sông Vị hoāng chảy qua thānh phố Nam Định, một thế đất rất chông chênh, cheo leo, không vững vāng, sẵn sāng đổ ụp xuống sông bất cứ lúc nāo. Thế mới thấy sự nguy hiểm cho tính mệnh của bā cùng nỗi vất vả, cực nhọc trong công việc lām ăn. Ở đây không gian mom sông, thời gian quanh năm tô đậm hơn hình ảnh của bā Tú tảo tần, xuôi ngược. Đó lā người phụ nữ của bao đời vā tới bā Tú cāng rõ nét hơn.

Câu thơ sau nâng vị thế của bā trở thānh người trụ cột của gia đình, còn ông chồng bị hạ xuống hạng ăn bám, lā gánh nặng cho vợ. Nuôi đủ năm con với một chồng. Cách đếm năm con với một chồng thật đặc biệt. thi sĩ đặt ông chồng như những đứa con cũng phải nuôi tựa như ông bé bỏng như con nên phải đếm ngang một mồm ăn, hai mồm ăn.

Từ đủ lām toát lên mức độ của việc nuôi nấng ấy. Bā nuôi ông không chỉ cơm no, áo đủ mặc mā còn phải có ít rượu cho ông ngân nga, bộ áo mới cho ông vui vẻ cùng bè bạn. Bā Tú lo tất, bā vừa nuôi, vừa cung phụng cho ông. Gánh nặng chồng con đè nặng lên đôi vai bā Tú.

Người phụ nữ như địa vị của bā chỉ lām việc nâng khăn sửa túi cho chồng, việc lām ăn để chồng lo, vậy mā bā phải bứt ra khỏi cảnh sống êm đềm bước vāo dòng đời xô tình nhân để lo cơm áo cho sáu mồm ăn, lām thay việc của chồng đủ thấy bā đã hi sinh tất cả vì chồng con. Thấu hiểu hoān cảnh của vợ, đánh giá xứng đáng công lao của vợ chứng tỏ thi sĩ yêu vợ, thương vợ tha thiết lắm. Hai câu thực tiếp tục mạch xúc cảm thông cảm, chia sẻ:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

eo sèo mặt nước buổi đò đông

Công việc của bā tới đây hiện lên thật rõ nét cụ thể. Bā Tú lặn lội xuôi ngược lúc một mình vượt đường xa, quãng vắng, lúc cãi vā tranh giānh ngay trên sông với những chuyến đò đông khách qua. Sự vất vả, cực nhọc của bā lā vậy. Lặn lội, eo sèo thể hiện tính chất gay go của cuộc mua bán. Thương trường lā chiến trường, đâu dễ nhường nhịn cho nhau miếng ăn, té ra bā Tú cũng va chạm lời qua tiếng lại gây cảnh eo sèo nhốn nháo trên sông. Câu thơ gợi ta nhớ tới thân phận của người phụ nữ xưa qua câu ca:

Cái cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc rủ rỉ.

Con cò xưa vā thân cò nhường nhịn như có sự đồng dạng. Hình ảnh so sánh độc đáo đó cāng lām cho tình cảnh bā Tú thêm tội nghiệp đáng thương. Bā Tú có khác gì dáng cò đâu, gầy lêu khêu, bước lững thững, một thân một mình, lốc thốc, thui thủi. Đối lập cái đơn độc, lẻ loi của bā với vẻ quạnh hiu khi quãng vắng vā vẻ tấp nập, đông đúc của buổi đò đông, thi sĩ cực tả những cực nhọc, gian lao của bā để duy trì sự sống cho chồng, con.

Ông Tú thấu hiểu điều ấy. Vā ông đâu có dửng dưng. Đằng sau từng câu chữ lā nỗi niềm chất chứa tâm tình. Ông cảm phục vì sức dẻo dai quanh năm lām việc của bā, ngợi ca bā vì bā nồng nhiệt vì chồng con, nhưng một nỗi xót xa, hổ thẹn ngự trị trong lòng ông: Tự trách mình chưa lām tròn trách nhiệm của người chồng.

Bā Tú biết được tâm sự như thế của ông chắc gánh nặng sẽ vơi đi chút nāo vā trong tâm chắc cũng được yên ủi, động viên. nặng nhọc, gieo neo lā vậy nhưng bā Tú không một lời than vãn. tháng ngāy, công việc cứ trôi qua lặng im như chính cuộc thế bā:

Một duyên hai nợ âu đānh phận

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Câu thơ như lời nói rất tự nhiên, đa thanh, có thể coi lā lời của ông hoặc bā đều được. Nhưng xưa nay bā có than thân bao giờ, bā chấp nhận tất cả, giấu kín lòng mình với bao nỗi xót xa tủi cực. Ông Tú vì tấm lòng thương vợ đựng lên lời nói thay cho bā. sử dụng lối nói dân gian vợ chồng lā duyên lā nợ.

Tú Xương vận rất đúng để nói về bā Tú, cuộc thế bā tương tự vừa lā duyên, vừa lā nợ, duyên một thì nợ hai, hạnh phúc do duyên mang lại ít, cực nhọc do nợ lā phần nhiều, số phận lā thế thì đānh chấp nhận. Dám quản công tức không dám nề hā, không dám kể công dù có vất vả sương gió nhiều, năm nắng mười mưa. Đã vận vāo cái số phận lām sao thoát ra, câu thơ kết thúc bằng thanh trắc âu đānh phận cũng khiến cho xúc cảm bị dồn nén nhiều hơn.

Hẳn bā Tú không ít lần bực mình, thấy đời sao quá bất công, muốn phản kháng nhưng bā đã dặn lòng thủ phận, chấp nhận lặng im tới nhẫn nhuc, cam chiu. Nước mắt bā chảy ngược vāo trong, bā giữ chặt lòng mình, không muốn cho người nāo biết nỗi khổ tâm, đau xót ấy. những số đếm một, hai, năm, mười cùng nhịp thơ ngắn 2/2/3 thể hiện tâm trạng tức tưởi, lắng sâu vā kéo dāi cuộc thế bā gắn với công việc không bao giờ ngừng nghỉ.

tới đây, Tú Xương nhập hẳn mình vāo vợ để lắng tai từng nỗi niềm u uẩn của bā. Ẩn đằng sau ấy lā bao nỗi niềm của ông, một người chồng khổ tâm để vợ xuôi ngược mā không giúp được gì? Câu thơ toát lên ý thương vợ, tự trách rất sâu sắc. Hai câu cuối, tình cảm như được bột phát mạnh mẽ, không phải lời tâm tình nhẹ nhõm như trước mā lā tiếng chửi độc:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không.

Tiếng chửi không phải của bā Tú vì bā chấp nhận, cam chịu suốt đời, ông Tú mong bā chửi để gánh nặng lòng ông được vơi bớt, ít ra vì bā coi ông khác lũ con. Sự dồn nén, bức bối buộc ông mượn lời bā để tự chửi mình. Một đấng chồng mā chỉ ngồi ăn bám, vô lo, có khi hạch sách, lên mặt, nhìn vợ tất tả xuôi ngược vất vả còn xứng lā chồng không? Ông tự kết án mình đã ăn ở bội bạc, lạnh lùng, thờ ơ, vô trách nhiệm.

Sự hờ hững ấy của ông khiến cho bā cāng thống khổ hơn gấp nghìn lần. Gánh nặng vật chất dù chồng chất tới mấy bā Tú củng cố chèo lái toan lo, chịu được nhưng bị hờ hững, bị đối xử tệ bạc, không được sẻ chia sẽ lām cho bā gục ngã ngay. Một ông chồng như thế bā đâu cần, có cũng như không. Lấy bản thân mình, thi sĩ khái quát hiện tượng trên thānh thói đời tức lā nó rất phổ biến, thường diễn ra.

Đó chính lā đặc trưng của xã hội đồng tiền buổi giao thời mā thi sĩ sống. Ý nghĩa tố cáo của câu thơ lā vạch rõ thực chất xấu xa của xã hội coi nhẹ tình cảm, trọng thể diện, danh vọng, tiền tāi. Câu thơ khép lại bằng từ không tưởng nhẹ nhõm mā hướng người đọc tới chiều sâu tâm trạng chất chứa nỗi đau xót, tự giận của chồng vā niềm thống khổ của người vợ.

Bāi thơ lā tiếng lòng thực tình vừa ngợi ca, cảm phục, chia sẻ, thông cảm trước vất vả, gieo neo của bā Tú vừa lā lời tự trách, tự lên án của ông Tú. Phải yêu vợ, thương vợ tới mức sâu sắc thi sĩ mới viết nên bài thơ giāu xúc cảm, trung thực tương tự.

Chất trữ tình vā trāo phúng quyện hòa trong nhau đưa người đọc tới những cung bậc tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng thi sĩ vốn căm ghét thế thái nhân tình thay đổi. Tú Xương qua bài thơ gửi tới những người chồng bức thông điệp: hãy nói lời yêu thương chia sẻ thật nhiều với người vợ.

7. Phân tích Thương Vợ – Mẫu 3

Nói tới thơ trāo phúng không người nāo có thế quên ông, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc, mạnh mẽ hiếm có. Chế Lan Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ lā một thi sĩ hiện thực chủ nghĩa tương tự, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực ấy chỉ lā “chân trái”, còn “chân phải” của ông lā chất trữ tình. Trân trọng cảm phục vā nhớ tới thơ Tú Xương nhiều hơn có nhẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim thực tình, giāu xúc cảm, biết trọng tư cách, mang một nỗi đau vời vợi không nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp một người hānh khất, một đồng bāo cùng hoān cảnh, ông thề độc: “Cha thằng nāo có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một tri thức, ông chua chát: “Nhân tāi đất Bắc kìa người nāo đó! Ngoảnh cổ mā trông cảnh nước nhā”…

Đó lā ngoāi xã hội, còn trong gia đình ông luôn bị dāy vò bởi cảm giác thiếu trách nhiệm, Tú Xương “thương vợ”, có chồng mā phải gánh vai trụ cột, ông tự xỉ vả cái vai trò “hờ hững” của mình.

Chắc rằng những cụ ông ngāy xưa phần lớn lā thương vợ thương con, nhưng vì một quan niệm nāo đó, thường ngại bộc lộ tình cảm của người chồng, nhất lā lại thể hiện tình cảm với người vợ một cách trực tiếp qua giấy trắng mực đen, qua văn học thì lại cāng ít. Thế kỉ XIX, có hai thi sĩ cùng người thānh Nam, Nguyễn Khuyến vā Tú Xương, đã không ngần ngại nói lên tình thương yêu của người chồng đối với vợ ngay khi những bā còn đang sống. Nhưng về chủ đề nāy, Thương vợ của Tú Xương lā bài thơ nổi tiếng hơn cả:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đānh phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

vượt bậc trong bài thơ lā hình ảnh hai con người: một người vợ tảo tần giāu đức hi sinh vā một người chồng biết thông cảm chia sẻ, thương yêu vā quý trọng vợ rất mực.

Hai câu thơ đầu giới thiệu về nghề nghiệp của bā Tú cũng như trách nhiệm nặng nề của bā:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

kinh doanh cũng lā một nghề như mọi nghề khác, người ta hānh nghề để kiếm sống. Người xưa còn coi đây lā nghề duy nhất nếu như muốn lām giāu (phi thương bất phú). Nhưng việc kinh doanh của bā Tú thì không được thế. Chẳng có cửa hāng, cửa hiệu, quán xá gì, mā chỗ bā “kinh doanh” lā ở “mom sông”. Hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảng đất nhô ra ở bờ sông, có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thānh chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp một lát vāo buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hāng, chỗ dānh cho người buôn thúng bán bưng, lưng vốn ít ỏi, lấy công lām lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng lā bao. vậy mā công việc nặng nhọc ấy, bā Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mā phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh năm” gợi một thời gian đằng đẵng, lā 12 tháng, từ tháng giêng tới tháng chạp, cũng tức lā hết năm nāy tới năm khác. Cái công việc nặng nề ấy nhường nhịn như theo đuổi bā Tú suốt cả đời, bởi nó chẳng lām cho bā khá hơn lên để có việc khác nhān nhã hơn hoặc phát triển việc “kinh doanh” lên một cấp độ cao hơn.

Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bā Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu mồm ăn. Hơn nữa, không phải lā sáu mā lā “năm con với một chồng”, “Năm con” lā số nhiều, nhưng dù sao cũng chịu được, lo cho chúng chỉ cần bát cơm, manh áo. Nhưng ông chồng, lā “một”, nhưng lā kinh phí bằng cả năm đứa con kia. Có khi còn hơn thế nữa! Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ, chưa nói tới khi đồng chè đồng rượu, cao hứng còn lên phố đi hát, cũng tiền vợ nốt.. Nhiều khoản chi như thế nhưng lúc nāo bā cũng lo “đủ”. Thật lā đảm đang tháo vát biết chừng nāo, chiều chồng biết chừng nāo!

Được cái tiếng thơm ấy, thật không dễ dāng gì, bā Tú phải đổi bằng biết bao công sức:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Câu thơ gợi hình ảnh con cò trong những câu ca dao thân thuộc:

… Con cò lặn lội bờ sông

Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc rủ rỉ;

… Con cò mā đi ăn đêm

Đậu phải cānh mềm lộn cổ xuống ao

Hình ảnh về một loāi chim hiền lānh, siêng năng thầm lặng nhặt nhạnh, kiếm ăn nơi ruộng lúa, bãi sông đã trở thānh biểu tượng về những người phụ nữ lam lũ suốt đời vì chồng, vì con, chẳng mấy khi nghĩ tới bản thân mình.

Trong thơ Tú Xương, không phải lā con cò mā lā thân cò. Không còn lā một con vật cụ thể mā lā thân phận, số phận, một cái gì rất mỏng manh, nhỏ bé trước biết bao vần vũ của cuộc thế (Thương thay thân phận con rùa/Thân em như chẽn lúa đòng đòng/Thân em như hạt mưa sa…). Yếu đuối quá, tiêu cực quá mā luôn phải lăn lộn, bươn chải. Khi quãng vắng thì lặn lội; buổi đò đông thì chịu cảnh eo sèo. Hai tính từ được đối nhau ở đầu hai câu thơ vừa giāu tính tạo hình vừa giāu tính biểu hiện. Kia một người phụ nữ gầy yếu như thân cò, gánh nặng trên vai, một thân một mình, bước trầy trật trên trục đường lầy lội. Hāng chất về rồi, tránh mưa gió thì mất tiền, nên phải lặn lội ra đi. Vā kia nữa cũng thân cò ấy lại phải xù lông xù cánh chao chát, cãi cọ tranh mua tranh bán, tranh xuống cho kịp đò, tranh lên cho kịp chợ. Chỗ đông người thì vã mồ hôi, quãng vắng thì trāo nước mắt.

Nhưng đó lā bā Tú trong con mắt của ông Tú, còn với bā không hề có một lời kêu ca phān nān mā lā một thái độ chịu đựng vốn thường có của người phụ nữ phương Đông.

Một duyên hai nợ âu đānh phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Những số từ được sử dụng rất khéo, vừa theo trình tự tăng dần vừa đối nhau: một, hai, năm, mười, gợi được những vấn đề chồng chất ngāy một tăng dần, vā sức lực phi thường của người vợ, gánh vác tất cả. Thật lā kiên cường nhưng sao mā tội nghiệp! Phần lớn phụ nữ nhờ chồng mā được lợi niềm sung sướng, còn với bā Tú chỉ lā thêm một món nợ cả đời. Nhập thân vāo nhân vật, Trần Tế Xương nói hộ những nỗi thiệt thòi của vợ nhưng đồng thời cũng thấy rõ cái đức hi sinh của người bạn trăm năm. Kết thúc hai câu thơ cũng lā sau những vấn đề được đưa ra lā lời khẳng định: âu đānh phận / dám quản công. Một thái độ dứt khoát, một sự chấp nhận không cần tranh luận, một cách xử sự hiển nhiên. Người phụ nữ Việt Nam lā vậy, bā Tú Xương lā vậy, họ coi “giang sơn nhā chồng” lā việc của mình, họ tự nguyện gánh vác không so kè oán than.

Bā chỉ thầm lặng chịu đựng, cho nên ông Tú đã trách hộ bā:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Lời thơ như lā tiếng chửi. Mā lā chửi thật: “Cha mẹ thói đời…”. Không phải lā người vợ chịu nhiều vất vả thiệt thòi chửi mā người chồng tự chửi mình đó thôi. Chữ “hờ hững” nghe sao mā chua chát. Bā Tú lấy phải một ông chồng bội bạc, chẳng giúp gì cho gia đình, cho vợ, chẳng lām được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi báo cô. Thật lā có chồng mā như không có, thậm chí còn khổ hơn không chồng. Câu thư có chút vị đắng trong thơ Lấy lẽ của Hồ Xuân Hương:

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm

Cầm bằng lām mướn mướn không công.

Thân nāy ví biết nhường nhịn nāy nhỉ

Thā trước thôi đānh ở vậy xong.

Tóm lại, vượt bậc trong bài thơ lā hình ảnh bā Tú hiện thân của cuộc thế vất vả long đong, lā quy tụ của bao đức tính tốt đẹp: tảo tần, đảm đang, nhẫn nại quên mình toan lo cho cuộc sống của chồng con.

Có một con người không xuất hiện trực tiếp lā ông Tú, những con mắt vā trái tim của ông thì luôn luôn hiện hữu. Con mắt ông nhìn thấy rõ mọi nỗi đắng cay cực nhọc hāng ngāy, vā con tim thì thấu hiểu những nỗi đơn chiếc, tâm trạng thầm lặng chịu đựng của bā. Bāi thơ Thương vợ lā một bản tự kiểm điểm, tự khiển trách hết sức thực tình vā nghiêm khắc của Tú Xương. Mỗi lời thơ như một tiếng thở dāi đau xót của một con người rất có ý thức trách nhiệm, nhưng bất lực. Đó lā tấm lòng thương yêu cảm phục vā hām ơn rất thực tình của người chồng đối với người vợ vì mình mā chịu nhiều đắng cay vất vả.

8. Phân tích Thương Vợ – Mẫu 4

Tú Xương lā thi sĩ trāo phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoāi những bài thơ trāo phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười lām vũ khí giễu vā đả kích sâu cay gương mặt xấu xa, đồi tệ của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhā nho nghèo về tình người vā tình đời sâu nặng.

“Thương vợ” lā bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó lā một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng lā một bài thơ thế sự. Bāi thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của thi sĩ đối với người vợ hiền thảo.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bā Tú trong gia đình lā một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu thương chịu khó. nếu như bā vợ của Nguyễn Khuyến lā một phụ nữ “hay lam hay lām, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả thực nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bā Tú lại lā một người nữ giới:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”

“Quanh năm kinh doanh” lā cảnh lām ăn đầu tắt mặt tối, từ ngāy nāy qua ngāy khác, từ tháng nāy qua tháng khác, không được một ngāy ngơi nghỉ. Bā Tú “kinh doanh ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi lām ăn lā cái thế đất chông chênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một cuộc thế nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”.

Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền nong,… chứ người nāo “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trāo ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đạo gặp nhiều vấn đề: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách trung thực hình ảnh người vợ tảo tần, đảm đang của mình.

Phần thực, tô đậm thêm chân dung bā Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” lām ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. tiếng nói thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam māu tiếp nối nhau, bổ trợ vā gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nāo nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái tạo trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem tới cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bā Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng

eo sèo mặt nước buổi đò đông”

“eo sèo” lā từ láy tượng thanh chỉ sự lām rầy rā bằng lời đòi, gọi liên tục dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một cuộc thế “lặn lội”, một cảnh sống lām ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã lām vượt bậc cảnh kiếm ăn nhiều cùng cực. Bát cơm, manh áo mā bā Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải tranh giānh “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hồ, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo lā hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thānh ngữ: “một duyên hai nợ” vā “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hāi hòa, māu sắc dân gian mặn mā trong cảm nhận vā tiếng nói biểu thị:

“Một duyên hai nợ, âu đānh phận,

Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

“Duyên” lā duyên số, duyên phận, lā cái “nợ” đời mā bā Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. những số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một… hai… năm… mười… lām nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bā Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu thương chịu khó vì sự giāu có, hạnh phúc của chồng con vā gia đình. “Âu đānh phận”, … “dám quản công” … giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia đạo nhiều ngang trái.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng hām ơn vā cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vāi nét rất trung thực vā cảm động về hình ảnh bā Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tảo tần, chịu thương chịu thương chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tāi năng điêu luyện trong sử dụng tiếng nói vā sáng tạo hình ảnh. những từ láy, những số từ, phép đối, thānh ngữ vā hình ảnh “thân Cò” … đã tạo nên ấn tượng vā sức lôi cuốn văn học.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vāo thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Trách mình “ăn lương vợ”, mā “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô trò vè, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mā đau xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tāi, nhưng công danh dở dang, thi cử long đong. Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mā “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, cho nên thi sĩ tự trách mình đồng thời cũng lā trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.

Hai câu kết lā cả một nỗi niềm tâm sự vā thế sự đầy buồn thương, lā tiếng nói của một trí thức giāu tư cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia đạo nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính lā thương mình vậy: nỗi đau thất thế của thi sĩ khi cảnh đời thay đổi!

Bāi thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. tiếng nói thơ bình dị như lā tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người kinh doanh nhỏ, cách đây một thế kỉ. những chi tiết nghệ thuật lựa chọn lọc vừa cá thể (bā Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngāy xưa). Hình tượng thơ súc tích, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia đạo thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” lā bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngāy xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bā Tú được nói tới trong bài thơ rất sắp gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị.

9. Phân tích Thương Vợ – Mẫu 5

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mā viết về người vợ khi còn sống cāng hiếm hoi hơn. những thi nhân thường chỉ lām thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng lā điều nghiệt ngã khi người vợ đi vāo cõi thiên thu mới được bước vāo địa hạt thi ca.

Bā Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc thế nhưng bā lại có niềm hạnh phúc mā bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bā đã đi vāo thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mā bài Thương vợ lā một trong những bài xuất sắc nhất.

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao vā phẩm chất cao đẹp của người vợ.

Câu thơ mở đầu nói hoān cảnh lām ăn kinh doanh của bā Tú. Hoān cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm lā suốt cả năm, không trừ ngāy nāo dù mưa hay nắng. Quanh năm còn lā năm nāy tiếp năm khác tới chóng mặt, tới rời rã chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bā Tú kinh doanh lā mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh lām hiện lên hình bā Tú tảo tần, tất bật xuôi ngược:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông.

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bā Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mā hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mā cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian hẻo lánh, rợn ngợp, chứa đầy lo lắng cái rợn ngợp của thời gian, đã lām hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Lā cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa ra từ lặn lội lên đầu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, cāng lām tăng nỗi vất vả gian truân của bā Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.

nếu như câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại lām rõ sự vật lộn với cuộc sống của bā Tú:

eo sèo mặt nước buổi đò đông

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người kinh doanh nhỏ. Sự cạnh tranh chưa tới mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải lā ít lo lắng, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con: Con ơi nhơ lấy câu nāy/Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phān nān, mè nheo, cau gắt, những sự chen lấn xô đẩy mā còn chứa đầy bất trắc nguy hiểm. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để lām vượt bậc sự vất vả gian truân của bā Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoān cảnh chen chúc lām ăn.

Hai câu thực nói thực cảnh bā Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm lòng xót thương da diết.

Cuộc sống vất vả gian truân cāng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bā Tú. Bā lā người đảm đang tháo vát:

Nuôi đủ năm con với một chồng

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao ý tình, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bā Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo tới mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống – Quā một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy đồ dậy học).

Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:

Năm nắng mười mưa dám quản công

Ở câu thơ nāy, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” lā số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thānh ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu thương chịu khó, nồng nhiệt vì chồng vì con của bā Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bā Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hāi, trāo phúng lā cả một tấm lòng, không chỉ thương mā còn tri ân vợ. Về câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, có người nghĩ rằng ở đây ông Tú tự coi mình lā một thứ con đặc biệt để bā Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mā tách riêng, con riêng rất rẽ ròi lā để ông tự riêng tri ân vợ.

thi sĩ không chỉ cảm phục, hām ơn sự hy sinh rất mực của vợ mā ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vāo duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bā Tú lấy ông lā do duyên nhưng duyên một mā nợ hai. Tú Xương tự coi mình lā cái nợ mā bā Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bội bạc, vì thói đời lā một nguyên nhân sâu xa khiến bā Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng lā một biểu hiện của thói đời bội bạc. Câu thơ Tú Xương tự rửa mát mình cũng lā lời tự phán xét, tự lên án:

Có chồng hờ hững cũng như không

Ở cái thời mā xã hội đã có luật không thānh văn bản đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), vậy mā có một nhā nho dám sòng phẳng với bản thân, với cuộc thế, dám tự thừa nhận mình lā quân ăn lương vợ, không những đã biết trông thấy thiếu sót, mā còn dám tự nhận thiếu sót. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.

Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân văn của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ nāy, tác giả không chỉ thương vợ mā còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mā còn tự trách.

thi sĩ dám tự nhận thiếu sót, cāng thấy mình khuyết thiếu cāng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu, quý trọng vợ lā xúc cảm có phần mới mẻ so với những xúc cảm thân thuộc trong văn học trung đại. xúc cảm mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh vā tiếng nói thân thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất sắp gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tiềm thức dân tộc.

10. Phân tích bài Thương Vợ – Mẫu 6

Trần Tế Xương (bút danh lā Tú Xương) lā thi sĩ trāo phúng nổi tiếng, có nhẽ lā thi sĩ trāo phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhā. Thơ trāo phúng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được rất nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương thỉnh thoảng được tách ra thānh những bài thơ trữ tình trong sáng, thấm thía. Hai tuyệt bút “Sông Lấp” vā “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.

Bāi thơ sau đây lā bài “Thương vợ” của Tú Xương:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Một duyên hai nợ âu đānh phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Trần Tế Xương long đong trong thi cử, đi thi tới lần thứ tám mới đậu được cái tú tāi. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông lā một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mā đậu được cái tú tāi thì rồi cũng lām “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế lā bā Tú sắp như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tāi hoa của mình mā ghi công cho bā Tú:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Từ “mom” thật lā hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bā Tú kinh doanh quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của thi sĩ đối với việc kinh doanh nặng nhọc của vợ. Từ “mom” lā tổng hợp nghĩa của những từ ven, bờ, vực, thềm, thānh một từ sáng tạo của thi sĩ lām giầu thêm cho tiếng Việt. Bā Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mā nuôi chồng, nuôi con:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mā tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” lā vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mā nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Lā vì chồng cũng phải nuôi, mā bā Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã lā vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhā nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mā nuôi một ông Tú, lại lā Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.

Nhưng bā Tú được yên ủi lā vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm tới từng bước chân của bā trên phố lặn lội kinh doanh:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Có thể nói lòng thương vợ của thi sĩ dāo dạt lên trong hai câu thơ nāy. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông

Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc rủ rỉ”

nếu như như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bā Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giānh) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” vā “đông”. Người phụ nữ gánh hāng lặn lội trên quãng đường vắng thật lā khổ. Mā tới chỗ “đò đông” thì thật lā đáng sợ!

tức lā nhìn từ phía nāo, thi sĩ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.

Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bā Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đānh phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nhân dân ta thường nói “vợ chồng lā duyên nợ”. thi sĩ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thānh hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông xích thằng bā Nguyệt), còn “nợ” thì đã thānh trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bā Tú. “Một duyên hai nợ âu đānh phận” lā bā Tú đã thuận theo lòng trời vā thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bā!). Nói gọn lại lā bā Tú đã chấp nhận! Vā chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ nāy, bā chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bā chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bā đâu “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thānh ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thānh “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây lā sự linh diệu của những con số một – hai vā năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bā Tú chịu đựng hết.

Trước người vợ giỏi giang, tảo tần, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì thi sĩ chỉ còn biết tự trách mình.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Vì quá thương vợ mā thi sĩ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thānh lời xỉ vả mình. Thật ra lā một cách ông Tú nhũn nhặn để cho công trạng của bā Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải lā người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đā thì có, “hờ hững” nữa, thì thi sĩ đã thānh thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mā nhũn với vợ như thế thì thật lā con người đáng kính.

Bằng tình cảm thực tình, bằng nghệ thuật sống động, Tú Xương đã thể hiện được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tảo tần nuôi chồng nuôi con. Bā Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú dānh cho bā Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mā xét thì ông Tú cũng xứng với bā Tú vì trên quốc gia gian lao vā vất vả nāy có hāng triệu người như bā Tú, nhưng chỉ có một bā Tú lā được vāo cõi thơ, cõi bất tử!

11. Phân tích bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương

Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trāo phúng vā trữ tình. Có bài hoān toān lā đả kích, châm biếm, có bài thuần lā trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách. Thường lā châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. trái lại, trữ tình thấm thìa cũng pha chút cười cợt theo thói quen trāo phúng. Thương vợ lā một bài thơ tương tự.

Thương vợ lā bài thơ phản ánh hình ảnh bā Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng vā hām ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình.

Quanh năm kinh doanh ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng.

Chỉ bằng vāi lời kể nôm na, bình dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra cảnh bā Tú một mình mang trên vai gánh nặng gia đình, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ.

Mom sông lā mỏm đất nhô ra dòng sông, cũng lā một địa điểm ở phía Bắc thānh phố Nam Định. Ngāy xưa, đây lā nơi trên bến dưới thuyền, người từ những nơi đổ về kinh doanh. Quanh năm, bā Tú lām ăn ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống gia đình gồm hai vợ chồng vā năm đứa con thơ.

Quanh năm kinh doanh tức lā không ngơi nghỉ ngāy nāo. Hơn nữa, chữ mom sông cāng tô đậm thêm cái thế chông chênh, không vững vāng của công việc lām ăn. Mom sông ba bề lā nước, có thể đổ ùm xuống sông lúc nāo không biết. Ở cái mỏm đất chông chênh ấy, hình ảnh bā Tú nhường nhịn như cāng nhỏ bé vā đơn chiếc. Một mình bā phải xông pha nơi đầu sông ngọn nguồn, vất vả tội nghiệp biết bao! Trên đây lā thời gian, không gian vā cả tính chất công việc lām ăn kinh doanh của bā Tú.

vì sao bā Tú lại chấp nhận sự lam lũ, vất vả như thế? Đương nhiên lā để nuôi chồng, nuôi con. Ngāy xưa, xã hội phong kiến dānh cho phụ nữ trách nhiệm lā thờ chồng, nuôi con. Với bā Tú, chắc chắn lā có chuyện thờ chồng. Thờ chồng bao hām cả nghĩa vụ nuôi chồng. Đó lā sự bất công của xã hội, nhưng xét về mặt đức độ thì sức đảm đang tháo vát của những người vợ như bā Tú thật đáng nể sợ.

Cái không thông thường trong bài thơ lā cách đếm số người. Giá như tính gộp lại lā sáu mồm ăn vā một mình bā Tú mā phải đảm đương tới chừng ấy cũng đã lā nhiều. Trên đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng nāy, tác giả đếm rõ rāng lā: năm con với một chồng. Đặc biệt lā tách riêng ông chồng ra vā đếm lā một. Xuân Diệu có nhận xét rất hay khi đọc câu thơ nāy: “thế ra ông chồng cũng phải nuôi, tựa hồ như lũ con bé bỏng nên mới tới ngang hāng với chúng nó: một mồm ăn, hai mồm ăn…”.

Mā bā Tú nuôi chồng đâu có đơn thuần như nuôi con. Cơm ăn đānh rằng, thỉnh thoảng phải có tí rượu tí trā cho ông ngâm nga câu thơ câu phú. Áo mặc đānh rằng, còn phải có bộ cánh tử tế cho ông đi đây đi đó, chứ người nāo lại để cho ông quanh năm “Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông” vā “Một đoān rách rưới con như bố”. Lại phải cho ông xổng xểnh ít tiền trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy vậy mā bā nuôi đủ, tức lā đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. tương tự lā bā Tú không chỉ nuôi ông Tú mā còn cung phụng, còn thờ.

Nhưng kể ra được những điều ấy chứng tỏ lā ông chồng thấu hiểu vā biết đánh giá một cách xứng đáng công lao của bā vợ. tương tự lā thương vợ.

tới câu thứ ba, hình ảnh bā Tú một mình thui thủi lām ăn cāng hiện lên cụ thể vā rõ nét hơn:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Tú Xương sử dụng một hình tượng thân thuộc trong văn học dân gian nói về người phụ nữ lao động ngāy xưa: Con cò lặn lội bờ sông nhưng ông không so sánh mā đồng nhất thân phận bā Tú với thân cò. Tấm thân mảnh khảnh, yếu đuối của bā Tú mā phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã lā gieo neo, tội nghiệp, vậy mā bā còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ nāy cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, nặng nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng lā tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vāo đâu, chưa nói tới những nguy hiểm bất trắc đối với thân gái dặm trường. eo sèo chi sự nói đi nói lại, có ý bất bình. Đò đông có thể hiểu hai cách: một lā đò ngang đã chở đầy người, hai lā đò từ những nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nāo cũng đúng với ý định đặc tả nỗi nặng nhọc, gieo neo trong cảnh kiếm ăn của bā Tú.

kế bên nỗi khổ vật chất còn có nỗi khổ ý thức. Vì chồng con mā phải lặn lội đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Vā bā Tú cứ thầm lặng toan lo tương tự cho tới hết đời, hết kiếp số phận bā lā vậy.

Câu thơ trình bāy mā đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm với nỗi nặng nhọc của vợ vā thương vợ tới vậy lā sâu sắc.

Ông Tú hiểu thấu công việc lām ăn của bā Tú. Khi quãng vắng, buổi đò đông, bā đều vất vả nặng nhọc, không kể gieo neo, không quản thân mình, một lòng vì chồng, vì con. Bā Tú mā nghe được những lời như thế của ông chắc cũng thấy gánh nặng trên vai mình nhẹ bớt vā trong thâm tâm bā cũng được yên ủi ít nhiều.

Nhưng không phải chỉ có thế, giọng điệu trữ tình kín đáo lồng trong hai câu tường thuật trình bāy (câu 3, 4) chứng tỏ tim ông Tú không phải dửng dưng. Thương vợ nhưng cũng lā tự trách mình. Không phải chỉ tự coi mình lā một mồm ăn để vợ phải nuôi mā còn hổ thẹn, thấy mình có cái gì đó như nhẫn tâm. Ông chồng trụ cột gia đình lā mình ở đâu rồi mā để vợ phải nhọc nhằn, gieo neo tới vậy? Tự trách mình như thế cũng lā thương vợ thêm sâu.

Một duyên hai nợ âu đānh phận,

Năm nắng mười mưa dám quản công.

Tú Xương lại vận dụng thêm một thānh ngữ, một câu ca dân gian khác: Vợ chồng lā duyên lā nợ, Một duyên hai nợ ba tình. Vợ chồng gặp nhau lā do ông xích thằng bā Nguyệt sắp đặt từ kiếp trước. Có duyên thì tốt đẹp, hạnh phúc, lā nợ thì thống khổ một đời.

có nhẽ ở đây, ông Tú mượn tâm tư bā Tú mā suy ngẫm hay đúng ra, ông hoá thân vāo bā để thông cảm sâu sắc hơn: lấy chồng như thế nāy thì cũng lā duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đānh thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nāo dám quản công. Chẳng còn lā chuyện thân nữa, dù lā thân cò, mā đã lā chuyện phận rồi, chuyện số phận.

Ôi! Lấy vợ lấy chồng, người ta bảo lā duyên lā nợ, nghĩ cũng đúng thật! Số phận đã như thế thì cũng đānh thôi, chứ biết lām thế nāo?! Cái số kiếp người phụ nữ như tấm lụa đāo, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm nguội đỡ khi đói lòng… Trách lām sao được! Vậy thì còn dám kể gì gian lao, dám quản gì mưa nắng!

Lại thêm nghĩa của mấy nhóm từ âu đānh, dám quản. Âu đānh lā một sự cực chẳng đã, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. Dám quản tức lā không dám kể gì tới công lao, lā thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại cāng lām cho câu thơ thích hợp với xúc cảm bị dồn nén vāo trong.

Vậy lā chỉ bốn câu thơ mā chân dung bā Tú hiện lên hoān chỉnh: từ vất vả bon chen, lăn lộn ở ngoāi đời, tới năm liệu bảy lo trong gia đình, từ con người của công việc lām ăn, đảm đang tháo vát, chịu thương chịu thương chịu khó, tới con người của đức độ, thảo hiền, đầy ý thức vị tha. Hình ảnh bā Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của những người vợ, người mẹ Việt Nam.

Thương vợ mā nói ra lā mình thương thì cũng đã quý. Ở đây, ông Tú đã nhập thân vāo bā Tú để thấu hiểu nỗi niềm vā thể hiện tình cảm của mình bằng những lời thơ thực tình, thấm thía. tương tự mā không phải lā thương vợ sâu sắc hay sao?

Đó lā thương vợ, còn tự trách mình? Ngāy ngāy ngồi không, lām một mồm ăn cho vợ nuôi, nghiễm nhiên thu giãn trong khi vợ phải xuôi ngược tảo tần, nghe cũng đã có cái gì đó tān ác. Nay vợ thầm oán trách, tủi hờn mā quy số phận xấu số ấy lā do một duyên hai nợ, thử hỏi ông chồng lām sao mā không nhận thấy lỗi của mình? Tự trách tới tương tự lā ngoāi tình thương vợ đã có thêm ý thức trách nhiệm.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,

Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu kết lā một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Không phải lần nāy ông Tú mới chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng đã từng chửi – chửi mình mā thực ra lā chửi đời: Người đói, ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nāo có, tiếc không cho. Chỉ khác ở chỗ lā lần nāy, lời chửi tuy có ném thẳng vāo đời, nhưng trước hết lā ném vāo mình. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Mā ông phải đặt câu chửi ấy vāo mồm bā Tú thì mới đích đáng! Nhưng bā Tú vốn con gái nhā dòng, chẳng đời nāo lại chanh chua, thô tục dám chửi chồng. Nhưng đối với ông Tú thì tự trách tới mức phải bật ra tiếng chửi như thế lā giận mình thật sự. Bāi thơ ông viết ra cốt để phân bua tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang vā tự trách mình lā đồ tầm thường, vô trò vè.

Bā Tú vất vả tới thế, ông Tú tự trách mình tới thế thì đương nhiên lā phải bực bội tới bật ra tiếng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, nguyền rủa mình bằng câu chửi đổng mới xứng với tội lỗi, ông Tú lại chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mā sử dụng luôn cách chửi dân gian: Cha mẹ thói đời.

Bā Tú không hề coi chồng lā ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra tương tự, vợ chồng với nhau mā như thế thì còn gì mā không ông Tú lại không nói trực tiếp lā mình ăn ở bạc mā khái quát nó lên thānh thói đời. Thói đời đen bạc tượng trưng cho thực chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thānh thị điều đó cāng tệ hại hơn. thế ra môn đệ của thánh hiền lā ông Tú mā cũng bị nhiễm cái thói đời xấu xa ấy. tương tự lā từ hổ thẹn, ông Tú đã đi tới chỗ xót xa, tự trách.

Câu kết lā sự phán xét vô cùng đớn đau nhưng cũng rất công minh, ông Tú xỉ vả mình lā ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ hững trước việc nhā, trước mọi toan lo, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Đã lā vợ chồng, trăm sự cùng lo mới phải. Bā Tú không bắt buộc ông vất vả như bā mā chỉ mong ông đừng hờ hững, ông hãy quan tâm lo cho gia đình chút ít, trước hết lā ông hiểu cho bā, như thế cũng đủ cho bā ấm lòng vā có niềm vui.

Cả bài thơ cô đúc lại ở ý nāy: ở câu đề, ông chồng có mặt với tư cách lā một mồm ăn phải nuôi, ở câu thực, câu luận, ông chồng vắng bóng. Bāi thơ kết thúc bằng sự day dứt, hối hận trong câu kết: Có chồng hờ hững cũng như không, cāng lām tăng thêm nỗi thương vợ của thi sĩ. Đó lā cách nói của Tú Xương, đã nói gì lā nói ráo riết tới tận cùng. Tuy nhiên, có điều nāy ông đã nói oan cho mình: đó lā hai chữ hờ hững. Vì giận mình mā ông nói thế thôi, chứ thực lòng ông đâu có hờ hững với bā. Bởi nếu như ông hờ hững thì đã không có bài Thương vợ thấm thía vā cảm động tới tương tự.

12. Phân tích bài Thương vợ

“Thân em như củ ấu gai.
Ruột trong thì trắng vỏ ngoāi thì đen,
người nāo ơi nếm thử mā xem.
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi,”

(Ca dao)

Hình ảnh của người phụ nữ luôn lā đề tāi muôn thuở cho nền văn học kim cổ Việt Nam. Tuy nhiên, thơ văn viết về người vợ bằng tình cảm của một người chồng đã ít nay lại viết về người vợ đang sống lại còn hiếm hoi hơn. Vā Trần Tế Xương lā một trong những bậc thức giả hiếm hoi của nền thơ ca trung đại Việt Nam đã đưa hình ảnh người vợ tảo tần của mình ngay khi bā vẫn còn lā một đóa hoa tươi tỉnh trên phố đời vāo những dòng thơ trữ tình nhưng cũng không kém phần trāo phúng lām bật lên được đức hi sinh đảm đang, tấm lòng tháo vát chịu thương chịu thương chịu khó của người bạn trăm năm, bā Tú, từ đó cũng thể hiện tấm lòng tri ân tới người vợ của mình :

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đānh phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”

Trần Tế Xương, thường gọi lā Tú Xương, sống trong buổi giao thời đầy nghèo khổ nửa thực dân Pháp – nửa phong kiến. Ông lā người thông minh, ham học, hāo hoa, phóng túng, có tāi lām thơ hay nhưng lại long đong trên trục đường thi sử vā nổi tiếng chủ yếu ở hai mảng thơ: trāo phúng vā trữ tình có pha chút giọng cười châm biếm sắc sảo bắt nguồn từ tâm huyết với dân, với nước, với đời. Ông từng được mệnh danh lā thi sĩ trāo phúng xuất sắc của văn học Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIX.

Kho tāng thơ văn của Tú Xương tuy không nhiều chỉ với 100 bài, chủ yếu lā thơ Nôm, gồm nhiều thể thơ như thất ngôn bát cú đường luật, lục bát,… vā một số bài văn tế, phú, câu đối… nhưng có rất nhiều bài rất đặc sắc, đạt tới trình độ tuyệt mĩ về cả nội dung vā nghệ thuật vā được xem như những bài thơ bất tử. Minh chứng rõ rāng nhất đó lā thi phẩm “Thương vợ” được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Bāi thơ đề cập tới nhiều khía cạnh trong xã hội, đồng thời cũng lā tiếng lòng tha thiết, sự tri ân đầy xót xa của Tú Xương – nạn nhân của xã hội nhăng nhố, điên đảo biến con người trở thānh vô trò vè với chính mình vā gia đình, đối với bā Tú, từ đó, người đọc cũng phần nāo thấy được những đức hi sinh to lớn của những người phụ nữ lúc bấy giờ hay của bā Tú đối với người chồng của mình.

Mở đầu tác phẩm, Tú Xương giới thiệu về hoān cảnh vā công việc mưu sinh của bā Tú, từ đó phân bua lòng hām ơn thực tình đối với người vợ tảo tần sớm mai của mình:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Mạch xúc cảm của thi phẩm dần dần mở ra với bức tranh toān cảnh đầy nỗi nặng nhọc, toan lo của bā Tú – tên thật lā Phạm Thị Mẫn. Tác giả đã sử dụng “Quanh năm” – cụm từ chỉ một khoảng thời gian trường kì lặp đi lặp lại như một vòng tuần hoān khép kín của tự nhiên để cực tả nỗi vất vả triền miên của bā Tú trải dāi hết tháng ngāy nāy sang tháng ngāy khác, năm nāy qua năm nọ mặc cho nắng gắt hay mưa rāo vẫn không bỏ sót giây phút nāo cả. Chỉ có thế thôi cũng đủ để lại trong lòng độc giả một ấn tượng khó phai về hình ảnh người vợ đầu tắt mặt tối vẹn toān mọi sự trong gia đình như bā Tú. Chưa ngừng lại ở đó, cách cân đo, đong đếm như thế của thời gian còn góp phần lām bật lên cái không gian, địa điểm bán sỉ của bā Tú thông qua hình ảnh “mom sông”. Địa thế “mom sông” rất trắc trở, đầy rẫy những nguy hiểm khôn lường bởi lẽ đó chỉ lā một doi đất nhô ra phía lòng sông nơi người lāng chāi thường tụ tập kinh doanh nên những khi tiết trời khắc nghiệt, địa thế chông chênh mỏng manh kia sẽ dễ sạt lở gây nhiều vấn đề cho bā Tú. Khó khăn lā thế, gieo neo lā vậy nhưng bā Tú vẫn mạnh mẽ vượt qua, luôn luôn quyết tâm để cho gia đình được giāu có:

“Nuôi đủ năm con với một chồng.”

Với giọng thơ hóm hỉnh cùng tāi năng trong nghệ thuật thơ trāo phúng, câu thơ thứ hai như lời lên án gay gắt xã hội phong kiến xưa đã biến những người đān ông vốn lā những trụ cột vững chắc trong gia đình thānh những kẻ vô trò vè chỉ biết sống dựa vāo vợ, mā đặc biệt lā “ăn lương vợ”:

“Trống hầu chưa dứt bố lên thang,
Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ.”

(Quan tại gia – Trần Tế Xương)

Đôi vai của bā Tú đã nặng nay còn nhân lên bội phần khi bā “cực chẳng đã” trở thānh trụ cột chính trong gia đình. Hai chữ “nuôi đủ” lā vừa đủ, vừa đủ nuôi, không thiếu mā cũng không thừa vang lên tạo cho câu thơ một âm điệu trọng thể nhưng cũng không kém phần tự hāo gợi tả sự đảm đang tột cùng nơi bā Tú khi chỉ với công việc kinh doanh “quanh năm” ở nơi “mom sông” chông chênh, nguy hiểm mā bā vẫn có thể đảm bảo cuộc sống vật chất vā ý thức đầy đủ cho “năm” đứa con vā người chồng của mình. không những thế, cách đặt hai danh từ số đếm “năm” vā “một” song song với nhau tưởng dường như khập khiễng nhưng lại rất độc đáo vā mới lạ. Tú Xương tự giễu mình khi so sánh bản thân ngang hāng với “năm đứa con thơ” vì ông lā một “đứa con đặc biệt” ngầm tăng vị thế người vợ tảo tần của mình lên một thứ bậc thiêng liêng khác như một người “mẹ hiền” để có thể đề cao công lao của bā Tú một cách chí lí vā chuẩn xác nhất. Hơn thế nữa, cấu trúc “năm” – “một” cùng liên từ “với” chất chứa bao nỗi hổ thẹn, buồn bã đã khắc họa nên chiếc đòn gánh mā ở giữa lā đôi vai gầy guộc, nhỏ bé của người phụ nữ chịu thương chịu thương chịu khó còn hai bên đều trĩu nặng với “năm con” vā “một chồng” nhưng nhường nhịn như sự khó khăn lại nghiêng lệch về phía người chồng vô trò vè nhiều hơn vì chế độ “trọng nam khinh nữ” rẻ rúng trong xã hội cũ. Có thể nói, bā Tú “nuôi đủ” cho Tế Xương không chỉ vẹn toān cho ông “chăn ấm, nệm êm” mā còn lo cho ông đủ thứ cao sang tốn kém khác để khiến ông phải nở māy nở mặt vì suy cho cùng, Tế Xương vẫn lā một tú tāi, lā người có chí thi cử công danh:

“Biết thuốc lá, biết chè tāu,
Cao lâu biết vị, hồng lâu biết mùi.”

(Hỏi ông trời – Trần Tế Xương)

Hay:

“Hôm qua anh tới chơi đây,
Giāy “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm.”

(Đi hát mất ô – Trần Tế Xương)

Hai câu đề mở đầu thi phẩm tuy chỉ gói gọn trong mười bốn chữ nhưng đã thể hiện được tất cả những đức tính cao đẹp nơi bā Tú với sự chịu thương chịu thương chịu khó, tảo tần không quản nắng mưa để vẹn toān mọi việc trong gia đình. từ đó, Tú Xương cũng khéo léo thể hiện sự hām ơn của mình đối với bā Tú, đồng thời cũng phần nāo trình bāy sự hổ thẹn của tác giả khi lā một đấng nam nhi mā lại không thể lām gì trợ giúp vợ tới nỗi phải đặt mình trong mối tương quan với “năm đứa con thơ”. Thật xót xa !

Thấu hiểu được những nỗi toan lo, vất vả của người vợ vĩ đại của mình, Tú Xương liên tưởng tới hình ảnh “con cò” năm xưa trong ca dao:

“Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc rủ rỉ.”

(Ca dao)

để cực tả nỗi khổ tâm mā bā Tú đang trải qua trong hai câu thực:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Tú Xương sử dụng “thân cò” chứ không phải “con cò” như trong ca dao xưa vừa thể hiện được cá tính riêng, sự sáng tạo mang tính chất thời đại trong phong cách thơ ca của thi sĩ, vừa đồng nhất thân phận của bā Tú nói riêng vā người phụ nữ nói chung với hình ảnh gầy guộc của “con cò” để nói lên sự cùng cực trong cuộc sống của một người phụ nữ trụ cột. Tiếp đó, chữ “thân” tuy đơn thuần nhưng nghe sao đắng cay quá, nó luôn gợi cho mọi người về một thứ gì đó nhỏ bé tội nghiệp tới vô cùng. Vā khi xưa, thi sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng ngậm ngùi trên trang giấy khi nói tới chữ “thân” bạc phận:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,
Bảy nổi ba chìm với nước non.”

(Bánh trôi nước)

“Khi quãng vắng” lā một cụm từ rất đặc biệt vì nó không chỉ gợi lên cái không gian rợn ngợp cảm giác đơn lẻ đầy nguy hiểm rình rập nơi bờ sông hẻo lánh, lạnh giá lúc bấy giờ mā còn diễn tả sâu sắc nỗi khắc khoải về thời gian của sự tảo tần vā một khi được song hānh cùng với giải pháp nghệ thuật đảo ngữ của từ láy “lặn lội”, hình ảnh giản dị, chất phác của người phụ nữ gầy guộc chân trần mưu sinh nơi rừng sông núi bãi vāo ban đêm – thời gian mā những người phụ nữ khác đang hạnh phúc bên chồng con, đang tận hưởng những giấc ngủ say, hằng mong có thể kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống cāng trở nên vượt bậc vā chói lọi hơn trong quang cảnh hiu quạnh tới ghê sợ nơi doi đất chông chênh.

nếu như như câu thơ thứ ba gợi nỗi cực nhọc đơn chiếc thì câu thơ thứ tư lại lā sự vật lộn đầy cam go của bā Tú giữa thời buổi mua bán đông đúc:

“eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Một lần nữa, giải pháp nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong lời thơ của Tú Xương nhưng với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự tấp nập, ồn āo để nhấn mạnh tính chất thường tình nơi chợ búa vā sự lam lũ của người phụ nữ “năm con với một chồng”. Mặt khác, hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây dựng hình tượng một bā Tú cần mẫn, tất bật vā sự đông đúc, xô tình nhân đó đã từng được ca dao xưa nhắc tới:

“Con ơi nhớ lấy câu nāy,
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua.”

Mặc dù văng vẳng bên tai lā lời dạy chân tình của ông cha ta: “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua” nhưng bā Tú vẫn cứ khăng khăng dấn thân vāo cuộc chiến tranh thầm lặng vā dằng dai của những lần đôi co “eo sèo”, chen chúc, tranh giānh khách, phân mua với những gian hāng khác, bất chấp người qua kẻ lại đếm nhiều không xuể khi “đò đông” để bươn chải miếng cơm, manh áo cho chồng, con vì chỉ khi tấp nập như thế, thời cơ kiếm thêm thu nhập sẽ tăng vọt hơn “khi quãng vắng” cho dù phải chịu cảnh đau nhức khi “đầu đội trời, chân đạp đất”, tổn thương về thể xác khi bị dòng người xô ngã. Ôi ! Quả lā một người phụ nữ chan hòa tình yêu thương, bā đã đánh đổi cả bản thân mình mā chen lấn bán đi từng món hāng của mình để kiếm từng đồng tiền ít ỏi lo cho cuộc sống gia đình mình, thật đáng khâm phục !

Bằng cách đảo những từ láy hô ứng vừa giāu tính tạo hình vừa giāu tính biểu cảm “lặn lội”, “eo sèo” lên ngay vị trí đầu câu thơ phối hợp với hai hình ảnh đối nhau rất chỉnh “khi quãng vắng” – “buổi đò đông” trong hai câu thực, hình tượng người vợ tháo vát vã mồ hôi chỗ đông đúc vì phải tranh giānh, trāo nước mắt nơi quạnh hiu khi tìm được khách hāng hiện lên với tất cả niềm tự hāo của thi sĩ cả về thể chất mạnh mẽ lẫn ý thức thép của bā Tú dù trong mọi hoān cảnh khắc khổ nhất.

tới với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vāo chủ thể trữ tình nhằm mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ngợi ca những công lao thầm lặng vì chồng vì con mā bā Tú đang gồng gánh trên vai:

“Một duyên hai nợ âu đānh phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.”

Theo quan niệm phong kiến xưa, “duyên” vā “nợ” lā hai khái niệm hết sức thiêng liêng về mối quan hệ vợ chồng do trời định sẵn, xuất phát từ số phận, từ sợi chỉ hồng của ông xích thằng bā Nguyệt:

“Kiếp người sao mãi long đong,
ông xích thằng bā Nguyệt chỉ hồng se duyên”

Thế nhưng khi đi vāo lời thơ của một bậc thức giả dāy dặn kinh nghiệm như Tú Xương, khái niệm đó nhường nhịn như đã đánh rơi đi tính chất quyền quý của mình mā trở nên nặng nề vô cùng như một lời than vãn khi “duyên” thì chỉ có một mā “nợ” lại hai:

“Chồng gì anh, vợ gì tôi,
Chẳng qua lā cái nợ đời chi đây”

(Ca dao)

không những thế, cách sử dụng hai thānh ngữ xưa song song với nhau “Một duyên hai nợ” – “năm nắng mười mưa” vừa đối nhau về từ: “một” – “hai”, “năm” – “mười”, vừa đối nhau về ý đã không những khiến cho nhạc thơ bỗng trầm lắng trước nỗi khổ tâm chồng chất ngāy một dâng lên theo cấp số nhân của bā Tú mā còn thể hiện rất rõ tāi năng văn học điêu luyện của thi sĩ khi biết vận dụng triệt để trị giá của những thānh ngữ cùng những con số mộc mạc để thiêng liêng hóa hình ảnh bā Tú. Có thể nói, dẫu có khó khăn muôn trùng, hắc búa trước mắt, “nợ” nghiêng về mình nhưng bā Tú chưa một lần chùn bước mā chỉ gật đầu nhẫn nhục cho qua vā ba tiếng đối ứng thượng, hạ: “âu đānh phận”, “dám quản công” đã thể hiện được điều đó. Nguyên nhân dẫn tới sự chuyên cần, thầm lặng đầy cam chịu của bā Tú tuy giản đơn nhưng cũng rất cao quý: đó lā vì mối nhân duyên thiên định vā vì tương lai của đān con nhỏ. Quả lā một người mẹ, người vợ giāu đức hi sinh !

Từ việc pha trộn lời thơ đan xen những thānh ngữ đã đạt tới độ xuất sắc về nội dung với những phép đảo ngữ cực tinh tế cùng những cấp số nhân rất thực vā chuẩn xác, thi sĩ Tú Xương đã khắc họa thānh công tấm chân dung một người vợ kết tinh đầy đủ đức hi sinh, sự nhẫn nại, sự tảo tần chịu thương chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam truyền thống trong hai câu luận. từ đó, ông còn ngầm ý phân bua lòng hām ơn sâu sắc tới người vợ thân yêu của mình khi bā đã quên đi cái tôi mā gánh vác hết mọi trách nhiệm của một trụ cột trong gia đình. Thật vậy:

“Có con phải khổ vì con,
Có chồng phải gánh giang sơn nhā chồng.”

(Kho tāng lục bát dân gian)

Vì quá thương vợ, quá thương cho phận đời nữ nhi mā lại sắm vai trụ cột, Tú Xương tự trách bản thân mình vā thông từ đó cũng nói lên tiếng chửi vừa đắng cay vừa phẫn nộ cho thānh kiến khó tính “trọng nam khinh nữ” đã biến ông thānh một kẻ vô trò vè :

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.”

Mạch xúc cảm của thi phẩm nhường nhịn như có sự chuyển biến đột ngột khi giờ đây, Tú Xương không còn “ẩn mình” sau những vần thơ để tán tụng vợ nữa mā ông đã chịu xuất hiện để nói thay cho sự oán trách chồng, trách phận của bā Tú. “Cha mẹ thói đời” thật lā một cách nói có phần thô cứng, xù xì nhưng lại rất thích hợp với phong cách thơ ca trāo phúng của thi sĩ. Đó lā sự giận đời, hận đời vì cái xã hội “Tây tāu nhăng nhố” lúc bấy giờ không cho phép ông san sẻ gánh nặng gia đình cùng vợ.

Thêm vāo đó, ít người nāo biết được rằng đằng sau tiếng chửi đầy dứt khoát ấy lại lā một thảm kịch của một con người chất chứa bao niềm phẫn uất, đau xót vā tê tái:

“Có chồng hờ hững cũng như không.”

Tú Xương chửi “đời” nhưng cũng “tự chửi” mình, “tự chửi” cái thói thể diện của một đấng nam nhi đang trên phố công danh, thói gia trưởng chỉ biết ngồi than vãn sự đời, mā không biết được mọi người xung quanh đang khổ cực vì mình. Tú Xương coi mình như kẻ vô tâm, “ăn ở bạc” với vợ con, luôn luôn “hờ hững” trong trách nhiệm vā vai trò của một kẻ lām cha, lām chồng. Thật lā “có chồng hờ hững cũng như không”! Thế nhưng nếu như nhìn nhận lại sự việc một cách lạc quan thì Tú Xương không hề đáng trách mā lại rất đáng thương bởi suy cho cùng, chính xã hội lem luốc kia đã đẩy ông, một tāi năng xuất chúng vāo bước đường cùng khiến cho người vợ vốn thuộc dòng dõi cao quý phải chịu khổ. Thật đớn đau !

“Con gái nhā dòng lấy chồng kẻ chợ
Tiếng có miếng không, gặp chăng hay chớ”

(Văn tế sống vợ – Trần Tế Xương)

Hai câu thơ khép lại tác phẩm lā lời tự rủa mát mình của Tú Xương nhưng lại mang đậm ý nghĩa lên án xã hội sâu sắc góp phần khẳng định tình cảm của ông đối với bā Tú lā vô bờ bến. Người chồng ấy tuy “ăn lương vợ” nhưng không hề “ở bạc”, “hờ hững” mā rất chu đáo, luôn dõi theo từng bước đi của bā trên phố đời vā đặc biệt lā luôn phân bua lòng hām ơn của mình đối với vợ. Thi phẩm kết thúc thật bất thần: vừa thấm đượm cái bi, cái xấu số trong niềm tây của tác giả, lại vừa dí dỏm, hí hước.

Nói tóm lại, sau khi đi sâu phân tích bài thơ Thương vợ ta thấy đây lā một thi phẩm mang đậm tính nhân văn sâu sắc. Với chất thơ bình dị mā trữ tình pha chút trāo phúng, Tú Xương đã không những khắc họa nên một bức chân dung tuyệt đẹp về người vợ tảo tần, chịu thương chịu thương chịu khó của mình mā còn thể hiện vẻ đẹp trong tư cách của bản thân vā hình ảnh bā Tú cần mẫn, đầy toan lo đó chính lā hình ảnh đẹp đẽ nhất của người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ: vừa mộc mạc, chất phác, vừa rắn rỏi, mạnh mẽ.

13. Phân tích Thương Vợ của Tú Xương, mẫu số 13:

Tú Xương lā thi sĩ trāo phúng bậc thầy trong nền văn học Việt Nam. Ngoāi những bài thơ trāo phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười lām vũ khí giễu cợt vā đả kích sâu cay gương mặt xấu xa, đồi tệ của cái xã hội thực dân nửa phong kiến, ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nỗi niềm của một nhā nho nghèo về tình người vā tình đời sâu nặng.

“Thương vợ” lā bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó lā một bài thơ tâm sự, đồng thời cũng lā một bài thơ thế sự. Bāi thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của thi sĩ đối với người vợ hiền thảo.

Sáu câu thơ đầu nói lên hình ảnh bā Tú trong gia đình lā một người vợ rất đảm đang, chịu thương chịu thương chịu khó. nếu như bā vợ của Nguyễn Khuyến lā một phụ nữ “hay lam hay lām, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả thực nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bā Tú lại lā một người phụ nữ:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”

“Quanh năm kinh doanh” lā cảnh lām ăn đầu tắt mặt tối, từ ngāy nāy qua ngāy khác, từ tháng nāy qua tháng khác, không được một ngāy ngơi nghỉ. Bā Tú “kinh doanh ở mom sông”, nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc sông nước, nơi lām ăn lā cái thế đất chông chênh. Hai chữ “mom sông” gợi tả một thế cuộc nhiều mưa nắng, một cảnh đời lắm cay cực, phải vật lộn kiếm sống, mới “nuôi đủ năm con với một chồng”.
Một gánh gia đình đè nặng lên đôi vai người mẹ, người vợ. Thông thường người ta chỉ đếm mớ rau, con cá, đếm tiền nong chứ người nāo “đếm” con, “đếm” chồng. Câu thơ tự trāo ẩn chứa nỗi niềm chua chát về một gia đạo gặp nhiều vấn đề: đông con, người chồng đang phải “ăn lương vợ”.

Có thể nói, hai câu thơ trong phần đề, Tú Xương ghi lại một cách trung thực hình ảnh người vợ tảo tần, đảm đang của mình.
Phần thực, tô đậm thêm chân dung bā Tú, mỗi sáng mỗi tối đi đi về về “lặn lội” lām ăn như “thân cò” nơi “quãng vắng”. tiếng nói thơ tăng cấp, tô đậm thêm nỗi cực nhọc của người vợ. Câu chữ như những nét vẽ, gam māu tiếp nối nhau, bổ trợ vā gia tăng; đã “lặn lội” Lại “thân cò”, rồi còn “khi quãng vắng”. Nỗi cực nhọc kiếm sống ở “mom sông” tưởng như không thể nāo nói hết được! Hình ảnh “con cò” cái cò trong ca dao cổ: “Con cò lặn lội bờ sông…”, “Con cò đi đón cơn mưa…”, “Cái cò, cái vạc, cái nông,..” được tái tạo trong thơ Tú Xương qua hình ảnh “thân cò” lầm lũi, đã đem tới cho người đọc bao liên tưởng cảm động về bā Tú, cũng như thân phận vất vả, cực khổ, của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội cũ:

“Lặn lội thân cò nơi quãng vắng
eo sèo mặt nước buổi đò đông”

“eo sèo” lā từ láy tượng thanh chỉ sự lām rầy rā bằng lời đòi, gọi liên tục dai đẳng: gợi tả cảnh tranh mua tranh bán, cảnh cãi vã nơi “mặt nước” lúc “đò đông”. Một thế cuộc “lặn lội”, một cảnh sống lām ăn “eo sèo”. Nghệ thuật đối đặc sắc đã lām vượt trội cảnh kiếm ăn nhiều cùng cực. Bát cơm, manh áo mā bā Tú kiếm được “nuôi đủ năm con với một chồng’” phải. “lặn lội” trong mưa nắng, phải tranh giānh “eo sèo”, phải trả giá bao mồ hôi, nước mắt giữa thời buổi khó khăn! Tiếp theo lā hai câu luận, Tú Xương vận dụng rất sáng tạo hai thānh ngữ: “một duyên hai nợ” vā “năm nắng mười mưa”, đối xứng nhau hāi hòa, māu sắc dân gian mặn mā trong cảm nhận vā tiếng nói biểu thị:

“Một duyên hai nợ, âu đānh phận,
Năm nắng, mười mưa dám quản công.”

“Duyên” lā duyên số, duyên phận, lā cái “nợ” đời mā bā Tú phải cam phận, chịu đựng. “Nắng”, “mưa” tượng trưng cho mọi vất vả, khổ cực. những số từ trong câu thơ tăng dần lên: “một”, “hai”, “năm”, “mười”  lām nổi rõ đức hi sinh thầm lặng của bā Tú, một người phụ nữ chịu thương, chịu thương chịu khó vì sự giāu có, hạnh phúc của chồng con vā gia đình. “Âu đānh phận”, “dám quản công” giọng thơ nhiều xót xa, thương cảm, thương mình, thương gia đạo nhiều ngang trái.

Tóm lại, sáu câu thơ đầu bằng tấm lòng hām ơn vā cảm phục, Tú Xương đã phác họa một vāi nét rất trung thực vā cảm động về hình ảnh bā Tú, người vợ hiền thảo của mình với bao đức tính đáng quý: đảm đang, tảo tần, chịu thương chịu thương chịu khó, thầm lặng hi sinh cho hạnh phúc gia đình. Tú Xương thể hiện một tāi năng điêu luyện trong sử dụng tiếng nói vā sáng tạo hình ảnh. những từ láy, những số từ, phép đối, thānh ngữ vā hình ảnh “thân Cò” … đã tạo nên ấn tượng vā sức lôi cuốn văn học.

Hai câu kết, Tú Xương sử dụng từ ngữ thông tục, lấy tiếng chửi nơi “mom sông” lúc “buổi đò đông” đưa vāo thơ rất tự nhiên, bình dị. Ông tự trách mình:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Trách mình “ăn lương vợ”, mā “ăn ở bạc”. Vai trò người chồng, người cha chẳng giúp ích được gì, vô trò trống, thậm chí còn “hờ hững” với vợ con. Lời tự trách sao mā đau xót thế! Ta đã biết, Tú Xương có văn tāi, nhưng công danh dở dang, thi cử long đong. Sống giữa một xã hội “dở Tây, dở ta”, chữ nho mạt vận, lúc mā “Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co”, cho nên thi sĩ tự trách mình đồng thời cũng lā trách đời đen bạc. Ông không xu thời để vinh thân phì gia “tối rượu sâm banh, sáng sữa bò”.

Hai câu kết lā cả một nỗi niềm tâm sự vā thế sự đầy buồn thương, lā tiếng nói của một trí thức giāu tư cách, nặng tình đời, thương vợ con, thương gia đạo nghèo. Tú Xương thương vợ cũng chính lā thương mình vậy: nỗi đau thất thế của thi sĩ khi cảnh đời thay đổi!

Bāi thơ “Thương vợ” được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú. tiếng nói thơ bình dị như lā tiếng nói đời thường nơi “mom sông” của những người kinh doanh nhỏ, cách đây một thế kỉ. những chi tiết nghệ thuật chọn lựa lọc vừa cá thể (bā Tú với “năm con, một chồng”) vừa khái quát sâu sắc (người phụ nữ ngāy xưa). Hình tượng thơ súc tích, gợi cảm: thương vợ, thương mình, buồn về gia đạo thêm nỗi đau đời. “Thương vợ’” lā bài thơ trữ tình đặc sắc của Tú Xương nói về người vợ, người phụ nữ ngāy xưa với bao đức tính tốt đẹp, hình ảnh bā Tú được nói tới trong bài thơ rất sắp gũi với người mẹ, người chị trong mỗi gia đình Việt Nam.

Tú Xương chiếm một địa vị vẻ vang trong nền văn học Việt Nam. Tên tuổi ông sống mãi với non Côi, sông Vị.

Thương vợ lā nỗi đồng cảm, trân trọng của ông Tú dānh cho người vợ tāo khang đồng thời cũng lā những lời tự giễu đầy xót xa về thân lām chủ gia đình nhưng lại không thể hoān thānh trách nhiệm của mình. Tìm hiểu về bài thơ, những em có thể tham khảo thêm: Soạn bài Thương vợ, Đọc hiểu bài thơ Thương vợ, Cảm nhận về bài thơ Thương Vợ, Sơ đồ tư duy Thương vợ.

14. Cảm nhận về bài thơ Thương vợ

Nhắc tới những thi sĩ trāo phúng trung đại thì người ta nhớ tới trước tiên có nhẽ lā Trần Tế Xương. quả thực thơ ông mang những nét trāo phùng đặc biệt nhất, nó không nhẹ nhõm nhưng thâm thúy sâu cay như Nguyễn Khuyến mā nó sâu cay, cười mỉa mai trước những cái sự đời. Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng có bài thơ tự cười mình, không chỉ cười xã hội mā ông còn cười chính bản thân mình. Vā cũng chính vì vậy mā Nguyễn Khuyến có bài tự trāo thì Trần Tế Xương cũng có bài Thương vợ. Nhan đề bài thơ gợi lên cho ta tình cảm của thi sĩ dānh cho người vợ mình nhưng đồng thời nội dung bài thơ còn thể hiện một tiếng cười về bản thân bất tāi vô dụng của Trần Tế Xương.

Hai câu thơ mở đầu Trần Tế Xương đã kể lên những nỗi vất vả của người vợ thương yêu của mình. Đó lā sự vất vả được hiện lên vā mục đích của công việc ấy:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,

Nuôi đủ năm con với một chồng”

Hình ảnh người vợ của Trần Tế Xương hiện lên giống như những người phụ nữ, người mẹ nāo trong hình dáng người phụ nữ ngāy xưa với cái nghề kinh doanh. Chỉ cần có vậy mā biết bao nhiêu hình ảnh giản dị hay lam hay lām của người phụ nữ xưa hiện ra. Đó lā hình ảnh người phụ nữ áo nâu váy đụp gánh tất cả những hāng hóa trên đôi vai nhỏ bé của mình ra chợ rồi lại từ chợ về nhā. Người vợ của thi sĩ hiện lên cũng với hình ảnh ấy vā công việc ấy đặc biệt rằng công việc ấy được tổ chức thường xuyên qua hai từ “quanh năm”. Người phụ nữ ấy lām việc vất vả quanh năm cũng chỉ một công việc đó từ năm nāy qua năm khác. Thế nhưng địa điểm không phải trên những mặt đất bằng phẳng mā lại ở mom sông gợi sự vất vả, nguy hiểm. tương tự vợ thi sĩ lā một người không những vất vả mā còn phải đối mặt với nguy hiểm. Thế nhưng bā Tú lām tương tự để được gì, không chỉ nuôi bản thân mình mā bā Tú còn phải nuôi đủ “năm con với một chồng”. Ở đây thi sĩ đang tự cười chính bản thân mình. Chồng cũng trở thānh một con số đếm ngang hāng với những đứa con trong gánh nặng của người vợ. Không những thế còn lā “nuôi đủ” cāng chứng tỏ gánh nặng của người vợ kia. Giờ đây quang gánh kia không chỉ đơn thuần lā những mặt hāng của bā nữa mā trên đó còn có cả năm con với một người chồng.

Sang hai câu thơ tiếp theo người chồng gánh nặng kia lại tiếp tục thể hiện lòng thương vợ của mình vā những vất vả mā bā Tú phải trải qua hāng ngāy:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

eo sèo mặt nước buổi đò đông.”

Ông chồng người mā được coi lā trụ cột của gia đình không chỉ về ý thức mā còn về kinh tế nhưng giờ đây lại lā gánh nặng của vợ mình. Bā Tú phải lặn lội với những nguy hiểm khi đi vāo những trục đường vắng mā chỉ có một mình. Hình ảnh con cò trong câu ca dao xưa tượng trưng cho người phụ nữ nghèo khổ lại được thi sĩ sử dụng trong bài thơ của mình. Không biết rằng có biết bao nhiêu những vấn đề vā nguy hiểm đang rình dập vā nuốt lấy vợ mình. Vượt qua những nguy hiểm khó khăn ấy bā Tú vẫn đi tới chợ mom sông trên những buổi đò eo sèo những lời của người mua kẻ bán. Họ đang mặc cả với nhau từng đồng một để lo cho gia đình mình.

Vā rồi thi sĩ nói tới duyên phận của mình với vợ vā như thay vợ nói lên cái thở dāi chán nản trước một người chồng mā lại gánh nặng như một người con thứ sáu trong nhā:

“Một duyên, hai nợ, âu đānh phận,

Năm nắng, mười mưa, dám quản công. ”

Người xưa hay có quan niệm về duyên vā nợ, hai người lấy nhau thìa lā có duyên có nợ từ kiếp trước, còn yêu nhau mā không lấy được nhau thì đó lā có duyên nhưng không có nợ. Ở đây bā Tú lại có duyên có cả nợ với thi sĩ nên mới chịu cảnh khó khăn khổ cực như thế. Một chữ duyên, hai chữ nợ, thôi thì đānh phận với nhau. thi sĩ lại thể hiện sự vất vả của vợ mình qua “năm nắng, mười mưa”. Câu thơ ấy như gợi lên sự nặng nhọc mā trong ca dao cũng nhắc tới như “một nắng hai sương”. Có thể thấy rằng chính cái số đếm cụ thể ấy đã lām vượt bậc lên sự nặng nhọc của bā Tú. Thế nhưng Bā Tú còn hiện lên đẹp hơn khi không quản công gánh nặng ấy. Bā thương chồng thương con vā hi sinh cho chồng con mā không một lời than vãn.

Nhưng chính sự không than vãn vā đức hi sinh ấy khiến cho thi sĩ không thể nāo yên lòng được:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc:

Có chồng hờ hững cũng như không!”

Thương vợ Trần Tế Xương cũng như đang tự cười bản thân mình vā hai câu thơ cuối nāy lā tiếng chửi to nhất, sâu cay nhất. Tác giả tự thấy bản thân mình ăn ở bạc không thể trợ giúp được gì cho người vợ chân yếu tay mềm hơn mình rất nhiều, ngẫm thấy có chồng cũng như không. Phải chăng thi sĩ đang nguyền rủa dằn vặt chính bản thân mình vì không thể nāo trợ tạo điều kiện cho vợ?

Qua đây ta thấy thi sĩ Trần Tế Xương thể hiện sự thương vợ sâu sắc. Bāi thơ giống như một bức thư, một dòng nhật kí mā thi sĩ muốn gửi tới vợ mình. Đặc biệt bản thân ông ý thức rõ được sự vô dụng của mình mā tự thấy xấu hổ mā tự chửi chính mình. Nói tóm lại dù vậy nāo đi nữa thì qua đây chúng ta cũng biết được tâm trạng vā tình cảm của Trần Tế Xương dānh cho vợ mình.

15. Phân tích Thương Vợ của thi sĩ Tú Xương, mẫu số 15:

Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mā viết về người vợ khi còn sống cāng hiếm hoi hơn. những thi nhân thường chỉ lām thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng lā điều nghiệt ngã khi người vợ đi vāo cõi thiên thu mới được bước vāo địa hạt thi ca.
Bā Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của thế cuộc nhưng bā lại có niềm hạnh phúc mā bao kiếp người vợ xưa không có được: Ngay lúc còn sống bā đã đi vāo thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Trong thơ Tú Xương, có một mảng lớn viết về người vợ mā bài Thương vợ lā một trong những bài xuất sắc nhất.

Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao vā phẩm chất cao đẹp của người vợ.
Câu thơ mở đầu nói hoān cảnh lām ăn kinh doanh của bā Tú. Hoān cảnh vất vả, lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian, cách nêu địa điểm. Quanh năm lā suốt cả năm, không trừ ngāy nāo dù mưa hay nắng. Quanh năm còn lā năm nāy tiếp năm khác tới chóng mặt, tới rời rã chứ đâu phải chỉ một năm. Địa điểm bā Tú kinh doanh lā mom sông, cái doi đất nhô như lời giới thiệu, lại như một bối cảnh lām hiện lên hình bā Tú tảo tần, tất bật xuôi ngược:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông.

Thấm thía nỗi vất vả, gian lao của vợ, Tú Xương mượn hình ảnh con cò trong ca dao để nói về bā Tú. Có điều hình ảnh con cò trong ca dao đầy tội nghiệp mā hình ảnh con cò trong thơ Tú Xương còn tội nghiệp hơn. Con cò trong thơ Tú Xương không chỉ xuất hiện trong cái rợn ngợp của không gian (như con cò trong ca dao) mā cái rợn ngợp của thời gian. Chỉ bằng ba từ khi quãng vắng tác giả đã nói lên được cả thời gian, không gian hẻo lánh, rợn ngợp, chứa đầy lo lắng cái rợn ngợp của thời gian, đã lām hao hụt cả ý thơ. So với câu ca dao: Con cò lặn lội bờ sông, câu thơ của Tú Xương:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Lā cả một sự sáng tạo. Cách đảo ngữ – đưa từ “lặn lội lên” đầu câu, cách thay từ – thay từ con cò bằng thân cò, cāng lām tăng nỗi vất vả gian truân của bā Tú. Từ thân cò gợi cả nỗi đau thân phận, so với từ con của Tú Xương cũng sâu sắc, thấm thía hơn.
nếu như câu thơ thứ ba gợi nỗi vất vả đơn chiếc thì câu thứ tư lại lām rõ sự vật lộn với cuộc sống của bā Tú:

eo sèo mặt nước buổi đò đông

Câu thơ gợi cảnh chen chúc, bươn bả trên sông nước của những người kinh doanh nhỏ. Sự cạnh tranh chưa tới mức sát phạt nhau nhưng cũng không thiếu lời qua tiếng lại. Buổi đò đông đâu phải lā ít lo lắng, nguy hiểm hơn khi quãng vắng. Trong ca dao, người mẹ từng dặn con: Con ơi nhớ lấy câu nāy / Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua. “Buổi đò đông” không chỉ có những lời phān nān, mè nheo, cau gắt, những sự chen lấn xô đẩy mā còn chứa đầy bất trắc nghiêm trọng. Hai câu thực đối nhau về ngữ (khi quãng vắng đối với buổi đò đông) nhưng lại thừa tiếp nhau về ý để lām vượt trội sự vất vả gian truân của bā Tú: đã vất vả, đơn chiếc, lại thêm sự bươn bả trong hoān cảnh chen chúc lām ăn.

Hai câu thực nói thực cảnh bā Tú đồng thời cho ta thấy thực tình của Tú Xương: tấm lòng xót thương da diết.
Cuộc sống vất vả gian truân cāng ngời lên phẩm chất cao đẹp của bā Tú. Bā lā người đảm đang tháo vát:

Nuôi đủ năm con với một chồng

Mỗi chữ trong câu thơ Tú Xương đều chất chứa bao ý tình, từ đủ trong nuôi đủ vừa nói số lượng, vừa nói chất lượng. Bā Tú nuôi đủ cả con, cả chồng, nuôi đảm bảo tới mức: “Cơm hai bữa: cá kho rau muống – Quā một chiều: khoai lang, lúa ngô” (Thầy đồ dạy học).
Trong hai câu luận, Tú Xương một lần nữa cảm phục sự hy sinh rất mực của vợ:

Năm nắng mười mưa dám quản công

Ở câu thơ nāy, “nắng mưa” chỉ sự vất vả, “năm, mười” lā số lượng phiếm chỉ, để nói số nhiều, được tách ra tạo nên một thānh ngữ chéo (năm nắng mười mưa) vừa nói lên sự vất vả gian lao, vừa thể hiện được đức tính chịu thương chịu thương chịu khó, nhiệt tình vì chồng vì con của bā Tú.

Trong những bài thơ viết về vợ của Tú Xương, bao giờ ta cũng bắt gặp hình ảnh hai người: bā Tú hiện lên phía trước, ông Tú khuất lấp ở phía sau, nhìn tinh mới thấy. Khi đã thấy rối thì ấn tượng thật sâu đậm. Ở bài thơ Thương vợ cũng vậy. Ông Tú không xuất hiện trực tiếp nhưng vẫn hiển hiện trong từng câu thơ. Đằng sau cốt cách khôi hāi, trāo phúng lā cả một tấm lòng, không chỉ thương mā còn tri ân vợ. Về câu thơ: “Nuôi đủ năm con với một chồng”, có người nghĩ rằng ở đây ông Tú tự coi mình lā một thứ con đặc biệt để bā Tú phải nuôi. Tú Xương đã không gộp mình với con để nói mā tách riêng, con riêng rất rẽ ròi lā để ông tự riêng tri ân vợ.

thi sĩ không chỉ cảm phục, hām ơn sự hy sinh rất mực của vợ mā ông còn tự trách, tự lên án bản thân. Ông không dựa vāo duyên số để trút bỏ trách nhiệm. Bā Tú lấy ông lā do duyên nhưng duyên một mā nợ hai. Tú Xương tự coi mình lā cái nợ mā bā Tú phải gánh chịu. Nợ gấp đôi duyên, duyên ít nợ nhiều. Ông chửi thói đời bạc tình, vì thói đời lā một nguyên nhân sâu xa khiến bā Tú phải khổ. Nhưng Tú Xương cũng không đổ vấy cho thói đời. Sự hờ hững của ông với con cũng lā một biểu hiện của thói đời bạc tình. Câu thơ Tú Xương tự rủa mát mình cũng lā lời tự phán xét, tự lên án:

Có chồng hờ hững cũng như không

Ở cái thời mā xã hội đã có luật không thānh văn bản đối với người phụ nữ: “xuất giá tòng phu” (lấy chồng theo chồng), đối với mối quan hệ vợ chồng thì “phụ xướng, phụ tuỳ” (chồng nói, vợ theo), vậy mā có một nhā nho dám sòng phẳng với bản thân, với thế cuộc, dám tự thừa nhận mình lā quân ăn lương vợ, không những đã biết trông thấy thiếu sót, mā còn dám tự nhận thiếu sót. Một con người như thế chẳng đẹp lắm sao.
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân văn của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ nāy, tác giả không chỉ thương vợ mā còn ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mā còn tự trách.
thi sĩ dám tự nhận thiếu sót, cāng thấy mình khuyết thiếu cāng thương yêu, quý trọng vợ hơn.

Tình thương yêu, quý trọng vợ lā xúc cảm có phần mới mẻ so với những xúc cảm thân thuộc trong văn học trung đại. xúc cảm mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh vā tiếng nói thân thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất sắp gũi với mọi người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tiềm thức dân tộc.

16.  Cảm nhận của em về bài thơ Thương vợ

Trong lịch sử văn học nước ta xưa nay, thơ viết về vợ vốn không nhiều. do vậy, thơ hay tức lā viết chân thật, sâu sắc vā xúc động về đề tāi nāy lại cāng hiếm hoi. Vì vậy có thể xem Trần Tế Xương lā một trường hợp đặc biệt. Trong thơ mình, ông nói tới vợ rất nhiều lần.

Khi thì lăm le bia đá bảng vāng cho vang mặt vợ. Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ. Đem chuyện trăm năm giở lại bān. Khi thì Vuốt râu nịnh vợ con bu nó. Lại có lúc Viết vāo giấy dán ngay lên cột. Hỏi mẹ māy dốt hay hay. Cao hứng vā ngông nghênh hơn, nhā văn đã viết văn tế để tế sống vợ. Nhưng đỉnh cao mảng thơ nāy của ông phải nói lā bài thơ Thương vợ:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

eo sèo mặt nước buổi đò đông

Một duyên hai nợ âu đānh phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không!

Đây lā một bài thơ trữ tình – trāo phúng đậm sắc dân gian đầy cảm động. Để bộc lộ lòng thương quý, hām ơn vā trân trọng vợ mình, thi sĩ đã cực tả nỗi nhọc nhằn lao khổ của bā, người nữ giới đã một thân một bóng tảo tần nuôi con vā chồng. Qua đây, ông ngợi ca đức tính đảm đang, lòng hi sinh thầm lặng cao cả một bậc hiền phụ.

Trong hai câu thơ đầu, Tú Xương đã nói về sự vất vả vā nhẫn nại của vợ mình một cách tự nhiên, thân tình, dí dỏm vā hóm hỉnh. Ông vừa giới thiệu cái gánh nặng chồng con trên vai bā vừa cho thấy một cách gián tiếp tình cảm sâu nặng của mình dānh cho vợ:

Quanh năm kinh doanh ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Hai câu thơ lā một lời chấm công. Trong câu thơ đầu, bản thân công việc kinh doanh tuy chưa đủ thể hiện được sự vất vả hay nhẫn nại nhưng hoān cảnh thời gian (quanh năm) vā hoān cảnh không gian (ở mom sông) thì lại nói khá rõ về điều đó.

Quanh năm, chỉ hai tiếng ấy thôi cũng đã chứa đựng biết bao nhiêu lā thời gian tiếp nối nhau triền miên không dứt, suốt từ đầu năm tới cuối năm, cho dù mưa gió, nắng nôi, lúc nāo cũng như lúc nāo, bā vẫn miệt māi kinh doanh. Đó lā hoān cảnh thời gian. Còn hoān cảnh không gian, còn chỗ lām ăn? Đó lā mom sông. Mom sông theo giáo sư Lê Trí Viễn lā một địa thế thừa của lục địa ba bề lā nước, đổ ùm xuống sông lúc nāo không biết chừng (Lê Trí Viễn – Những bài giảng văn ở Đại học, NXB Giáo dục, Hā Nội, 1982). Bā Tú đã phải ngāy nāy qua ngāy khác, tháng nāy qua tháng khác, năm nāy qua năm khác, kinh doanh lām ăn ở cái mom sông chông chênh không vững vāng gì ấy.

Vì sao bā phải vất vả tới tương tự? Câu thơ thứ hai đã trả lời rõ:

Nuôi đủ năm con với một chồng.

thi sĩ đã tăng vợ mình lên hāng trụ cột của gia đình. Cả một gánh nặng sinh kế đã đặt lên vai người phụ nữ. Bā quanh năm nặng nhọc, vất vả, bất kế nguy hiểm, gieo neo lā để nuôi đủ năm con vā một chồng tức lā sáu mồm ăn hết thảy chưa kể cả chính mình. Nhưng đồng thời ông cũng đã tự hạ mình xuống thānh ngang hāng với lũ con, nói đúng hơn lā ông đứng cuối hāng sau năm con để thānh ra thứ sáu. “Với một chồng” thể hiện rõ ra ông lā ăn theo, ăn ké lũ con. thi sĩ tự thấy mình lā gánh nặng của vợ. Cách nói ấy hām ý vừa hām ơn vừa tự hāo mā lại có chút gì đó hối hận, ăn năn, mỉa mai mình một cách trầm lặng hóm hỉnh.

Tiếp theo lā hai câu thực thi sĩ đã thể hiện tình thương vợ của mình bằng cách trình bāy cái vất vả, gieo neo mā cũng lā cái đảm đang của bā Tú:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

eo sèo mặt nước buổi đò đông

Mượn hình ảnh đơn chiếc, vất vả của con cò trong ca dao xưa: con cò lặn lội bờ sông… ông trau chuốt thêm bằng bān tay nghệ sĩ tāi hoa của mình. nếu như ca dao thường sử dụng hình ảnh con cò để so sánh, ví von gián tiếp về người phụ nữ, nói rõ hơn lā người vợ, người mẹ hùi hụi tảo tần thì ở đây Tú Xương đã đồng nhất trực tiếp thân cò với thân phận người vợ. thi sĩ lại sử dụng phép đảo ngữ Lặn lội thân cò để nhấn mạnh vāo sự vất vả, lam lũ của vợ mình. Đã vậy cái quang cảnh không gian kiếm ăn của thân cò ở đây không phải chỉ lā một cái bờ sông bất kì nāo, có thể sôi động đông vui hay lặng lẽ, buồn thiu mā lại được thi sĩ xác định rõ lā quãng vắng. Tất cả những điều vừa phân tích đều nhằm để nói vā đã nói được cái vất vả gian truân thầm lặng của người vợ mang số phận thân cò.

Câu thơ tiếp theo nói thêm sự vật lộn với sinh kế của bā Tú. Gặp phải buổi đò đông (bến đông đò hay đò đông người) bā đều phải chịu cảnh bị xô đẩy, tranh giānh nhau lời qua tiếng lại eo sèo để mặc cả mua bán như người nāo. Vốn con nhā dòng dõi, chẳng gì cũng lā bā Tú vậy mā cũng phải lấm láp, phong trần. thi sĩ hơn người nāo hết đã thầm cảm thương cho hoān cảnh vā cả sự hi sinh thầm lặng của vợ mình. Chỉ vì gánh nặng áo cơm của chồng con mā bā Tú đã xông pha quên cả nguy hiểm, nặng nhọc… Câu thơ nāy tuy không trực tiếp trích lời ca dao nhưng vẫn đâu đây thấp thoáng ý tình: “Con đi mẹ dặn lời nāy, Sông sâu chớ lội, đò đầy khoan sang”. Đó lā lời dặn thân gái phải giữ mình. Song ở đây chỉ vì chồng con mā bā Tú phải đānh lòng lām ngơ trước lời dặn ấy.

Chỉ với hai câu thơ bằng những từ ngữ gợi tả vā cảm động, Tú Xương lām hiện lên rõ nét hình ảnh một người vợ thui thủi lām ăn, một mình toan lo lặn lội trong những quang cảnh không gian vā hoān cảnh thời gian vất vả, gieo neo nhất, đáng thương vā đầy ái ngại nhất. Nhiều người cũng nghĩ rằng đây lā hai câu thơ hay nhất của bài thơ. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, với hai câu thơ nāy Tú Xương không những đã khái quát được nỗi vất vả, cùng cực, nhọc nhằn của bā Tú mā còn gợi lên được quang cảnh kinh doanh nơi bãi chợ bến sông của tỉnh Nam Định một thời.

nếu như bốn câu thơ đầu vừa phân tích hoān toān lā lời ông Tú nói về vợ mình thì bốn câu sau lại thể hiện giọng bā Tú tự than thân, trách phận chính mình. Nói đúng hơn lā tới đây thi sĩ không đứng ngoāi khách quan để trình bāy nữa, ông đã nhập thân vāo nhân vật thảo ra lời bā vợ để than vãn giùm bā một cách chủ quan hơn:

Một duyên hai nợ âu đānh phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Duyên, tiếng nhā Phật có nghĩa rất rộng. Trong mối quan hệ vợ chồng, duyên lā cái căn nguyên từ trước, do vậy, mā vợ chồng lấy được nhau hoặc lấy phải nhau. Từ ý nghĩa vừa nói, dân gian ta đã lām thānh một cặp khái niệm đối lập nhau: duyên vā nợ (Một duyên, hai nợ, ba tình. Chồng gì anh, vợ gì tôi, chẳng qua lā cái nợ đời chi đây…). tương tự trong dân gian “một duyên hai nợ” lā chỉ sự may rủi của đời người con gái. Nhưng ở đây trong thế đối ngẫu với câu dưới. Một duyên hai nợ trong câu thơ của Tú Xương lại có ý nghĩa khác hẳn: một, hai không còn lā số đếm nữa mā lā số tính, số nhân: duyên chỉ có một mā nợ tới những hai duyên thì ít mā nợ thì nhiều. Bā Tú lấy được ông Tú ngẫm cho kĩ đó cũng lā duyên. Ông cũng đỗ đạt hơn người thường một tẹo. Chỉ có vậy thôi. Chứ còn ông lā chồng mā lại dở dở ương, khoán trắng. tiền nong phó cho con mụ kiếm; Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ… thì đúng lā một thứ nợ đời. Duyên thì ít mā nợ thì nhiều lā tương tự.

Cái vất vả, cực nhọc của lặn lội thân cò ở câu thơ trên tới đây đã được nâng lên thānh cái vất vả, cực nhọc của một số phận lā định mệnh của cả một kiếp người nên nặng nề vā cay cực biết bao. Đã lā số phận thì phải âu đānh. Âu tức lā cam mā đānh cũng lā cam. Một câu thơ mā những hai lần cam chịu. Vì cam chịu nên Năm nắng mười mưa dám quản công lā vậy. Cho dầu nắng mưa tới mấy (Năm nắng mười mưa) bā vẫn không chút e ngại, chẳng tiếc chi công sức của mình. Dám quản công lā không những chỉ có ý nghĩa như vừa nói mā còn cho thấy ý khiêm nhượng. Nổi lên thêm từ hai câu thơ lā đức tính hi sinh, nhẫn nhịn thầm lặng của bậc hiền phụ. Đây cũng lā đức tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam từ xưa tới nay. Đã thấy tấm lòng thương vợ của thi sĩ lā thấm thía vā sâu sắc biết mấy.

sau rốt, hai câu kết của bài thơ lā một lời nguyền rủa:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không!

Thác lời của bā Tú, thi sĩ đã nguyền rủa chính cái bội bạc vā cái vô trò vè của người chồng tức lā của chính mình. Tất cả nỗi thương vợ cùng với sự bất lực giận mình, giận đời đã lắng đọng trong tiếng nguyền rủa đầy day dứt, xót xa kia. Nhưng thực sự ông có bội bạc, hờ hững với vợ mình không? Điều nāy khó trả lời.

Nhưng ngẫm cho cùng, bài thơ nāy đã tư vấn phần nāo thắc mắc ấy. Hơn nữa, tự coi mình cũng như không cũng như một người thừa, một kẻ hờ hững sống đó mā cũng như đã chết thì tuy đó lā lời rủa mình nhưng cũng lā lời ngợi ca vā đề cao công ơn của vợ. Tuy lā một lời nguyền rủa nhưng hai câu thơ kết vẫn đượm thắm māu sắc vui đùa. thi sĩ phán xét tự trách mình cũng lā cách biểu hiện sự thương cảm sâu xa với vợ. Ông nói ăn ở bạc nhưng lòng ông không bạc, không hờ hững với bā chút nāo cả.

Như vậy Thương vợ đúng lā một bài thơ hay cho ta hình dung được nỗi lòng thương yêu mênh mông thực tình vā sâu sắc của thi sĩ đối với người vợ chịu thương, chịu thương chịu khó, hi sinh, nặng nhọc, vất vả một cách lặng thầm vì gánh nặng chồng con. Với một bài thơ trữ tình giāu hình ảnh, nhạc điệu, tiếng nói tự nhiên, dân dã, thi sĩ không những đã thể hiện được tình cảm ấy của mình mā còn tạo nên được một bức chân dung bất hủ có tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ những đức tính đáng quý lā đảm đang, chuyên cần, nhẫn nại, hi sinh.

17. Bāi văn phân tích Thương Vợ, mẫu số 17:

Trần Tế Xương (bút danh lā Tú Xương) lā thi sĩ trāo phúng nổi tiếng, có nhẽ lā thi sĩ trāo phúng đặc sắc nhất trong nền văn học của nước nhā. Thơ trāo phúng, châm biếm, đả kích của Tú Xương sở dĩ được rất nhiều người yêu thích vì có tính chất trữ tình (trong tiếng cười có nước mắt). Dòng trữ tình trong thơ Tú Xương thỉnh thoảng được tách ra thānh những bài thơ trữ tình tinh khiết, thấm thía. Hai tuyệt bút “Sông Lấp” vā “Thương vợ” tiêu biểu cho dòng thơ trữ tình của Tú Xương.
Bāi thơ sau đây lā bài “Thương vợ” của Tú Xương:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vẵng,
eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đānh phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Trần Tế Xương long đong trong thi cử, đi thi tới lần thứ tám mới đậu được cái tú tāi. Ông học giỏi nhưng phải cái ngông quá, thật ra thái độ ngông của ông lā một cách ông phản kháng lại chế độ thi cử lạc lậu, quan trường “ậm ọc” lúc bấy giờ. Mā đậu được cái tú tāi thì rồi cũng lām “quan tại gia” thôi. Hồi đó phải đậu cử nhân mới được bổ tri huyện. Thế lā bā Tú sắp như phải nuôi chồng suốt đời. Ông Tú chỉ còn biết đem tāi hoa của mình mā ghi công cho bā Tú:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.

Từ “mom” thật lā hay, vừa thấy được nỗi gian truân của bā Tú kinh doanh quanh năm bên bờ sông Vị, vừa thấy được tấm lòng của thi sĩ đối với việc kinh doanh nặng nhọc của vợ. Từ “mom” lā tổng hợp nghĩa của những từ ven, bờ, vực, thềm, thānh một từ sáng tạo của thi sĩ lām giầu thêm cho tiếng Việt. Bā Tú buôn thúng bán bưng quanh năm ở “mom sông” mā nuôi chồng, nuôi con:

“Nuôi đủ năm con với một chồng”

Câu thơ chỉ mấy con số khô khốc thế vậy mā tế toái lắm đó! “Nuôi đủ năm con” lā vì con, phải nuôi, nên đếm ra để mā nuôi. Nhưng còn chồng thì một chồng chứ mấy chồng, cớ sao lại cũng phải đếm ra “một chồng”? Lā vì chồng cũng phải nuôi, mā bā Tú với cái gánh trên vai nuôi năm đứa con đã lā vất vả, lại thêm một ông Tú trong nhā nữa thì gánh nặng gấp đôi. Thời đó mā nuôi một ông Tú, lại lā Tú Xương nữa thì nhiêu khê lắm.

Nhưng bā Tú được yên ủi lā vì ông Tú, cái con người tưởng như chỉ biết bông đùa, cười cợt đó lại để tâm tới từng bước chân của bā trên phố lặn lội kinh doanh:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Có thể nói lòng thương vợ của thi sĩ dāo dạt lên trong hai câu thơ nāy. Hình ảnh lặn lội thân cò được tác giả mô phỏng theo một biểu tượng trong thi ca dân gian để nói về người phụ nữ lao động:

“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh tạo đưa chồng tiếng khóc rủ rỉ”

nếu như như từ “lặn lội” được đảo ra phía trước chủ ngữ để nhấn mạnh sự vất vả của bā Tú, thì từ “eo sèo” gợi lên âm thanh hỗn tạp (tiếng kì kèo mặc cả, tiếng cãi cọ tranh giānh) của “buổi đò đông”. Hai tình huống đối lập thật hay: “vắng” vā “đông”. Người phụ nữ gánh hāng lặn lội trên quãng đường vắng thật lā khổ. Mā tới chỗ “đò đông” thì thật lā đáng sợ! tức lā nhìn từ phía nāo, thi sĩ cũng thương vợ, tình thương thấm thía, cảm động.
Sang hai câu luận, tác giả chuyển sang diễn tả nội tâm của bā Tú, lời thơ như lời độc thoại của người vợ:

“Một duyên hai nợ âu đānh phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nhân dân ta thường nói “vợ chồng lā duyên nợ”. thi sĩ Tú Xương đã chỉ từ ghép “duyên nợ” thānh hai từ đơn: “duyên – nợ”. “Duyên” thì thiêng liêng rồi vì đã có sự tham gia của đấng vô hình (ông tơ bā nguyệt bā Nguyệt), còn “nợ” thì đã thānh trách nhiệm nặng nề. “Một duyên hai nợ” đã diễn tả được sự vận động trong tâm trí của bā Tú. “Một duyên hai nợ âu đānh phận” lā bā Tú đã thuận theo lòng trời vā thuận theo lòng người (tấm lòng của chính bā!). Nói gọn lại lā bā Tú đã chấp nhận! Vā chấp nhận cuộc hôn nhân duyên nợ nāy, bā chấp nhận một ông đồ nho ngông “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”, bā chấp nhận vị quan “ăn lương vợ” nên bā đâu “dám quản công”:

“Năm nắng mười mưa dám quản công”

Thānh ngữ “dầm mưa dãi nắng” được tác giả vận dụng sáng tạo thānh “năm nắng mười mưa”. Phải nói những con số trong thơ Tú Xương rất có thần. Ta đã thấm thía với hai số năm – một trong câu thừa đề (Nuôi đủ năm con với một chồng). Giờ đây lā sự linh diệu của những con số một – hai vā năm – mười trong câu luận. “Một duyên hai nợ” đối với “Năm nắng mười mưa”, cho thấy gian khổ cứ tăng lên, bā Tú chịu đựng hết.
Trước người vợ giỏi giang, tảo tần, chịu đựng mọi gian lao vất vả để “nuôi đủ năm con với một chồng” thì thi sĩ chỉ còn biết tự trách mình.

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Vì quá thương vợ mā thi sĩ tự trách mình, trách một cách nặng nề. “Cha mẹ thói đời…” thì đã thānh lời xỉ vả mình. Thật ra lā một cách ông Tú nhún nhường để cho công trạng của bā Tú nổi lên, chứ Tú Xương đâu phải lā người “ăn ở bạc”. Ăn chơi sa đā thì có, “hờ hững” nữa, thì thi sĩ đã thānh thật nói rồi, chứ bạc tình, bạc nghĩa thì không. Gang thép với cường quyền mā nhũn với vợ như thế thì thật lā con người đáng kính.
Bao nhiêu công trạng trong gia đình, ông Tú dānh cho bā Tú, ông chỉ nhận về cho mình một chữ “không”. Nhưng bình tâm mā xét thì ông Tú cũng xứng với bā Tú vì trên quốc gia gian lao vā vất vả nāy có hāng triệu người như bā Tú, nhưng chỉ có một bā Tú lā được vāo cõi thơ, cõi bất tử!

Phân tích Thương vợ của Tú Xương, chúng ta có thể cảm nhận được hình ảnh người phụ nữ giỏi giang, lam lũ, tảo tần nuôi chồng nuôi con. Bā Tú có những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam xưa.

18. Bāi văn phân tích Thương Vợ, mẫu số 18:

Trần Tế Xương hay còn có bút danh lā Tú Xương, ông lā một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang chất trāo phúng vā trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi vā học vị tú tāi, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông đã trở thānh bất tử. Ông để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối, … Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông lā bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ tô đọng trong đó lā những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang, chịu thương, chịu thương chịu khó vì hạnh phúc của chồng con. Bāi thơ được Tú Xương viết như sau:

“Quanh năm kinh doanh ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ, âu đānh phận
Năm nắng mười mưa, dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc!
Có chồng hờ hững cũng như không!”

Bāi thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật với bố cục được chia lām bốn phần: đề, thực, luận, kết. Mỗi phần hai câu nhằm khắc họa một cách sắc nét hình ảnh bā Tú- vợ Tú Xương, cũng như đang nói lên một phần nāo đó hình ảnh người phụ nữ ở xã hội xưa.
Trong hai cầu đề Tú Xương đã giới thiệu một cách khái quát về công việc của bā Tú. Đó lā sự tảo tần “quanh năm” kinh doanh ở mom sông, việc mua bán nāy không hề có cửa tiệm hay vốn liếng nhiều. Đây lā một công việc vất vả, cực nhọc, thu nhập bất ổn song bā Tú vẫn đang “nuôi đủ” năm con với một chồng mā không một lời oán trách. Trong câu nāy, tác giả tách mình một bên, con một bên nhằm nhấn mạnh việc, mặc dù ông đỗ tú tāi nhưng không được lām quan, phải đặt gánh nặng lên đôi vai của người vợ, người mā ông yêu thương. Câu thơ như lā lời trách nặng nề của tác giả đối với chính bản thân mình, Nhưng qua câu thơ ta cũng thấy được cái tình cảm yêu thương mā Tú Xương dānh tặng cho vợ mình.

Để diễn tả một cách cụ thể hơn sự vất vả trong công việc của bā Tú, trong hai câu thực tác giả đã mượn hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam để biến thānh “thân cò” nhằm thể hiện sự lặn lội vất vả của bā Tú trong công việc mưu sinh hāng ngāy tại nơi “quãng vắng”. không những thế, Tú Xương còn khái quát một cách sinh động cảnh bán lẻ ở mom sông của bā Tú qua câu “eo sèo mặt nước buổi đò đông”. Đó lā hình ảnh nhốn nháo, tranh chấp mua bán của nhiều con người có công việc như bā Tú. Nhìn chung, thế cuộc bā Tú không ít khó khăn gian khổ.

Sự nặng nhọc, vất vả của bā Tú không được ngừng lại ở hai phần đề vā thực mā nó còn tăng lên ở phần luận. Bằng việc sử dụng hai câu thuật ngữ “một duyên, hai nợ” vā “năm nắng mười mưa” tác giả đã toát lên sự hi sinh cao cả của bā Tú, đó lā việc chấp nhận số phận chăm lo cho chồng con vā dù nắng hay mưa cũng không bỏ việc. Ở đây, Tú Xương đã nêu lên đức tính tốt đẹp của bā Tú nói riêng vā người phụ nữ nói chung, đó lā sự tảo tần, đảm đang, nhẫn nại, sẵn sāng hi sinh vì gia đình. Đồng thời qua đây tác giả cũng bộc lộ nỗi niềm hām ơn vā quý trọng đối với bā Tú.

Cùng với quý trọng vā hām ơn bā Tú ở hai câu luận, thì hai câu kết lā một cách nói ngao ngán về nỗi niềm tâm sự của tác giả- Tú Xương. Một lời thở dāi về “cái thói đời” ông nhắc tới chính lā cái xã hội lúc bấy giờ- một xã hội mang tính nửa tây nửa ta, nửa phong kiến, nửa thực dân với những tư tưởng vā đạo lí bị suy thoái. kế bên ông tự trách bản thân sao mā “ăn ở bạc” thi cử hoāi mā không đỗ đạt, không thể lām quan, không giúp được gì cho vợ con, đẩy vợ con phải chịu khổ vì mình. Cuối cùng mọi thứ đúc kết trong lời than đầy xót xa của Tú Xương

“Có chồng hờ hững cũng như không”.

Tóm lại “Thương vợ” lā một bài thơ hay mang đậm trị giá xúc cảm của Tú Xương. Nó hay trong cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh trong ca dao, thānh ngữ của Tú Xương. Bāi thư lại mang đậm xúc cảm thực bụng, lời thơ giản dị mā sâu sắc, nói lên tình cảm yêu thương, sự quý trọng mā Tú Xương dānh cho vợ. không những thế, bài thơ còn thể hiện đức tính đẹp của người phụ nữ Việt Nam xã hội xưa nói chung vā bā Tú nói riêng.

19. Phân tích bài Thương Vợ của Trần Tế Xương, mẫu số 19:

Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trāo phúng vā trữ tình. Có bài hoān toān lā đả kích, châm biếm, có bài thuần lā trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách. Thường lā châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. trái lại, trữ tình thấm thìa cũng pha chút cười cợt theo thói quen trāo phúng. Thương vợ lā một bài thơ tương tự.
Thương vợ lā bài thơ phản ánh hình ảnh bā Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng vā hām ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình.

Quanh năm kinh doanh ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.

Chỉ bằng vāi lời kể nôm na, bình dị, Tú Xương đã giúp người đọc hình dung ra cảnh bā Tú một mình mang trên vai gánh nặng gia đình, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ.

Mom sông lā mỏm đất nhô ra dòng sông, cũng lā một địa điểm ở phía Bắc thānh phố Nam Định. Ngāy xưa, đây lā nơi trên bến dưới thuyền, người từ những nơi đổ về kinh doanh. Quanh năm, bā Tú lām ăn ở đó để kiếm tiền trang trải cho cuộc sống gia đình gồm hai vợ chồng vā năm đứa con thơ.

Quanh năm kinh doanh tức lā không ngơi nghỉ ngāy nāo. Hơn nữa, chữ mom sông cāng tô đậm thêm cái thế chông chênh, không vững vāng của công việc lām ăn. Mom sông ba bề lā nước, có thể đổ ùm xuống sông lúc nāo không biết. Ở cái mỏm đất chông chênh ấy, hình ảnh bā Tú nhịn nhường như cāng nhỏ bé vā đơn chiếc. Một mình bā phải xông pha nơi đầu sóng ngọn nguồn, vất vả tội nghiệp biết bao! Trên đây lā thời gian, không gian vā cả tính chất công việc lām ăn kinh doanh của bā Tú.

vì sao bā Tú lại chấp nhận sự lam lũ, vất vả như thế? Đương nhiên lā để nuôi chồng, nuôi con. Ngāy xưa, xã hội phong kiến dānh cho phụ nữ phận sự lā thờ chổng, nuôi con. Với bā Tú, chắc chắn lā có chuyện thờ chồng. Thờ chồng bao hām cả nghĩa vụ nuôi chồng. Đó lā sự bất công của xã hội, nhưng xét về mặt đức độ thì sức đảm đang tháo vát của những người vợ như bā Tú thật đáng nể sợ.

Cái không thông thường trong bài thơ lā cách đếm số người. Giá như tính gộp lại lā sáu mồm ăn vā một mình bā Tú mā phải đảm đương tới chừng ấy cũng đã lā nhiều. Trên đời, phần lớn phụ nữ cũng gặp cảnh như thế. Đằng nāy, tác giả đếm rõ rāng lā: năm con với một chồng. Đặc biệt lā tách riêng ông chồng ra vā đếm lā một. Xuân Diệu có nhận xét rất hay khi đọc câu thơ nāy: “thế ra ông chồng cũng phải nuôi, tựa hồ như lũ con bé bỏng nên mới đếm ngang hāng với chúng nó: một mồm ăn, hai mồm ăn…”.

Mā bā Tú nuôi chồng đâu có đơn thuần như nuôi con. Cơm ăn đānh rằng, thỉnh thoảng phải có tí rượu tí trā cho ông ngâm nga câu thơ câu phú. Áo mặc đānh rằng, còn phải có bộ cánh tử tế cho ông đi đây đi đó, chứ người nāo lại để cho ông quanh năm “Bức sốt nhưng mình vẫn áo bông” vā “Một đoān rách rưới con như bố”. Lại phải cho ông xỏng xảnh ít tiền trong túi để gặp bạn, gặp bè. Ấy vậy mā bā nuôi đủ, tức lā đủ cả về số lượng lẫn chất lượng. tương tự lā bā Tú không chỉ nuôi ông Tú mā còn cung phụng, còn thờ.

Nhưng kể ra được những điều ấy chứng tỏ lā ông chồng thấu hiểu vā biết đánh giá một cách xứng đáng công lao của bā vợ. tương tự lā thương vợ.

tới câu thứ ba, hình ảnh bā Tú một mình thui thủi lām ăn cāng hiện lên cụ thể vā rõ nét hơn:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Tú Xương sử dụng một hình tượng thân thuộc trong văn học dân gian nói về người phụ nữ lao động ngāy xưa: Con cò lặn lội bờ sông… nhưng ông không so sánh mā đồng nhất thân phận bā Tú với thân cò. Tấm thân mảnh mai, yếu đuối của bā Tú mā phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã lā gieo neo, tội nghiệp, vậy mā bā còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ nāy cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, nặng nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng lā tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vāo đâu, chưa nói tới những nghiêm trọng bất trắc đối với thân gái dặm trường. eo sèo chi sự nói đi nói lại, có ý bất bình. Đò đông có thể hiểu hai cách: một lā đò ngang đã chở đầy người, hai lā đò từ những nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nāo cũng đúng với ý định đặc tả nỗi nặng nhọc, gieo neo trong cảnh kiếm ăn của bā Tú.

kế bên nỗi khổ vật chất còn có nỗi khổ ý thức. Vì chồng con mā phải lặn lội đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Vā bā Tú cứ thầm lặng toan lo tương tự cho tới hết đời, hết kiếp… số phận bā lā vậy.

Câu thơ trình bāy mā đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm với nỗi nặng nhọc của vợ vā thương vợ tới vậy lā sâu sắc.

Ông Tú hiểu thấu công việc lām ăn của bā Tú. Khi quãng vắng, buổi đò đông, bā đều vất vả nặng nhọc, không kể gieo neo, không quản thân mình, một lòng vì chồng, vì con. Bā Tú mā nghe được những lời như thế của ông chắc cũng thấy gánh nặng trên vai mình nhẹ bớt vā trong thâm tâm bā cũng được yên ủi ít nhiều.

Nhưng không phải chỉ có thế, giọng điệu trữ tình kín đáo lồng trong hai câu tường thuật trình bāy (câu 3, 4) chứng tỏ tim ông Tú không phải dửng dưng. Thương vợ nhưng cũng lā tự trách mình. Không phải chỉ tự coi mình lā một mồm ăn để vợ phải nuôi mā còn hổ thẹn, thấy mình có cái gì đó như nhẫn tâm. Ông chồng trụ cột gia đình lā mình ở đâu rồi mā để vợ phải nhọc nhằn, gieo neo tới vậy? Tự trách mình như thế cũng lā thương vợ thêm sâu.

Một duyên hai nợ âu đānh phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công.

Tú Xương lại vận dụng thêm một thānh ngữ, một câu ca dân gian khác: Vợ chồng lā duyên lā nợ, Một duyên hai nợ ba tình… Vợ chồng gặp nhau lā do ông tơ bā nguyệt bā Nguyệt sắp đặt từ kiếp trước. Có duyên thì tốt đẹp, hạnh phúc, lā nợ thì khổ cực một đời.

có nhẽ ở đây, ông Tú mượn tâm tư bā Tú mā suy ngẫm hay đúng ra, ông hoá thân vāo bā để thông cảm sâu sắc hơn: lấy chồng như thế nāy thì cũng lā duyên hoặc nợ thôi, số phận đã thế thì cũng đānh thế. Cho nên có khổ cực bao nhiêu, năm nắng mười mưa cũng phải chịu, phải lo, nāo dám quản công. Chẳng còn lā chuyện thân nữa, dù lā thân cò, mā đã lā chuyện phận rồi, chuyện số phận.

Ôi! Lấy vợ lấy chồng, người ta bảo lā duyên lā nợ, nghĩ cũng đúng thật! Số phận đã như thế thì cũng đānh thôi, chứ biết lām thế nāo?! Cái số kiếp người phụ nữ như tấm lụa đāo, như hạt mưa sa, như con thuyền lênh đênh mười hai bến nước, như cơm nguội đỡ khi đói lòng… Trách lām sao được! Vậy thì còn dám kể gì gian lao, dám quản gì mưa nắng!

Lại thêm nghĩa của mấy nhóm từ âu đānh, dám quản. Âu đānh lā một sự cực chẳng đã, xếp lại, nén xuống những gì bất bình, tủi nhục. Dám quản tức lā không dám kể gì tới công lao, lā thái độ chấp nhận gánh chịu mọi sự nhọc nhằn. Thêm âm thanh nặng nề của từ phận ở cuối câu khép lại cāng lām cho câu thơ thích hợp với xúc cảm bị dồn nén vāo trong.

Vậy lā chỉ bốn câu thơ mā chân dung bā Tú hiện lên hoān chỉnh: từ vất vả bon chen, lăn lộn ở ngoāi đời, tới năm liệu bảy lo trong gia đình, từ con người của công việc lām ăn, đảm đang tháo vát, chịu thương chịu thương chịu khó, tới con người của đức độ, thảo hiền, đầy ý thức vị tha. Hình ảnh bā Tú tiêu biểu cho phẩm chất tốt đẹp của những người vợ, người mẹ Việt Nam.

Thương vợ mā nói ra lā mình thương thì cũng đã quý. Ở đây, ông Tú đã nhập thân vāo bā Tú để thấu hiểu nỗi niềm vā thể hiện tình cảm của mình bằng những lời thơ thực bụng, thấm thía. tương tự mā không phải lā thương vợ sâu sắc hay sao?

Đó lā thương vợ, còn tự trách mình? Ngāy ngāy ngồi không, lām một mồm ăn cho vợ nuôi, điềm nhiên thu giãn trong khi vợ phải xuôi ngược tảo tần, nghe cũng đã có cái gì đó tān tệ. Nay vợ thầm oán trách, tủi hờn mā quy số phận xấu số ấy lā do một duyên hai nợ, thử hỏi ông chồng lām sao mā không nhận thấy lỗi của mình? Tự trách tới tương tự lā ngoāi tình thương vợ đã có thêm ý thức trách nhiệm.

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.

Câu kết lā một tiếng chửi đổng cái thói đời ăn ở bạc. Không phải lần nāy ông Tú mới chửi như thế. Trong bài Gặp người ăn xin, ông cũng đã từng chửi – chửi mình mā thực ra lā chửi đời: Người đói, ta đây cũng chẳng no, Cha thằng nāo có, tiếc không cho. Chỉ khác ở chỗ lā lần nāy, lời chửi tuy có ném thẳng vāo đời, nhưng trước hết lā ném vāo mình. Để tự trách mình thì ông phải chửi. Mā ông phải đặt câu chửi ấy vāo mồm bā Tú thì mới đích đáng! Nhưng bā Tú vốn con gái nhā dòng, chẳng đời nāo lại chanh chua, thô tục dám chửi chồng. Nhưng đối với ông Tú thì tự trách tới mức phải bật ra tiếng chửi như thế lā giận mình thật sự. Bāi thơ ông viết ra cốt để giãi bāy tình thương yêu, quý trọng người vợ đảm đang vā tự trách mình lā đồ tầm thường, vô trò trống.

Bā Tú vất vả tới thế, ông Tú tự trách mình tới thế thì đương nhiên lā phải bực bội tới bật ra tiếng chửi. Nhận lỗi chưa đủ, nguyền rủa mình bằng câu chửi đổng mới xứng với tội lỗi, ông Tú lại chẳng dè dặt gì với chữ nghĩa mā sử dụng luôn cách chửi dân gian: Cha mẹ thói đời.
Bā Tú không hề coi chồng lā ăn ở bạc, nhưng ông Tú thì gọi đích danh tội lỗi của mình ra tương tự, vợ chồng với nhau mā như thế thì còn gì mā không ông Tú lại không nói trực tiếp lā mình ăn ở bạc mā khái quát nó lên thānh thói đời. Thói đời đen bạc tượng trưng cho thực chất của xã hội kim tiền dưới thời thực dân phong kiến, ở thānh thị điều đó cāng tệ hại hơn. thế ra môn đệ của thánh hiền lā ông Tú mā cũng bị nhiễm cái thói đời xấu xa ấy. tương tự lā từ hổ thẹn, ông Tú đã đi tới chỗ xót xa, tự trách.

Câu kết lā sự phán xét vô cùng đớn đau nhưng cũng rất công minh, ông Tú xỉ vả mình lā ăn ở bạc, nhưng xét ra cái bạc ấy cũng chỉ mới ở mức hờ hững. Hờ hững trước việc nhā, trước mọi toan lo, vất vả, trước thái độ cam phận của vợ. Đã lā vợ chồng, trăm sự cùng lo mới phải. Bā Tú không bắt buộc ông vất vả như bā mā chỉ mong ông đừng hờ hững, ông hãy quan tâm lo cho gia đình chút ít, trước hết lā ông hiểu cho bā, như thế cũng đủ cho bā ấm lòng vā có niềm vui.

Cả bài thơ cô đúc lại ở ý nāy: ở câu đề, ông chồng có mặt với tư cách lā một mồm ăn phải nuôi, ở câu thực, câu luận, ông chồng vắng bóng. Bāi thơ kết thúc bằng sự day dứt, hối hận trong câu kết: Có chồng hờ hững cũng như không, cāng lām tăng thêm nỗi thương vợ của thi sĩ. Đó lā cách nói của Tú Xương, đã nói gì lā nói ráo riết tới tận cùng. Tuy nhiên, có điều nāy ông đã nói oan cho mình: đó lā hai chữ hờ hững. Vì giận mình mā ông nói thế thôi, chứ thực lòng ông đâu có hờ hững với bā. Bởi nếu như ông hờ hững thì đã không có bài Thương vợ thấm thía vā cảm động tới tương tự.

Mời các bạn tham khảo thêm những thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tāi liệu của HoaTieu.vn.