6+ mẫu Cảm nhận bài thơ Tràng Giang hay nhất

Cảm nhận về bài thơ Tràng giang để thấy được nỗi nhớ nhà, cái buồn toát ra từ những vật bé mọn, như những kiếp người đơn chiếc, lạc lõng giữa không gian mông mênh. Và từ đó Tràng giang lại vẽ lên một phong cảnh đẹp, giàu màu sắc, nhiều đường nét hùng vĩ. Vậy dưới đây là 6 bài cảm nhận Tràng Giang hay nhất, mời những bạn cùng theo dõi tại đây nhé.

Dàn ý cảm nhận bài thơ Tràng Giang

DÀN ý SỐ 1

I. Mở bài

1, Tác giả:

– Là một trong những trụ cột của phong trào thơ mới

– Tràng Giang trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)

2. Nội dung phân tích: bài thơ là nỗi lòng của một cá thể đơn chiếc trước vũ trụ vô tận, trước dòng đời mênh mang

II, Thân bài:

1, Khái quát:

a, Hoàn cảnh sáng tác: Trích trong tập thơ đầu tay “Lửa thiêng” (1939)

– Cảm hứng sáng tác: Cảm hứng từ một buổi chiều mùa thu, khi tác giả một mình đứng ở bờ Nam bến Chèm, nhìn cảnh sông Hồng mênh mang sóng nước

b, Nhan đề:

  • Phép điệp âm “ang” gợi hình ảnh con sông lớn, rộng mênh mông
  • Là một từ Hán Việt cổ nên gợi hình ảnh con sông cổ kính, lâu đời.

c, Lời đề từ:

  • Thâu tóm nội dung của cả bài thơ
  • những hình ảnh “trời rộng”, “sông dài” gợi những phạm vi, không gian khác nhau
  • xúc cảm của thi sĩ: nỗi buồn nhớ nhẹ nhõm, man mác

=>Vừa có tác dụng định hướng, vừa tạo tính cổ điển, hiện đại

Xem thêm: Top 19+ mẫu Phân tích bài Tràng giang Huy Cận chi tiết nhất

2, Phân tích:

a, Khổ 1: “Tràng giang” mở ra bằng hình ảnh dòng sông mang nỗi sầu nhân thế (Trích 4 câu thơ)

– Câu 1:

  • Gợi sự vận động hết sức nhỏ bé, nhẹ nhõm của sóng
  • Từ láy “điệp điệp” khiến nỗi buồn trở nên cụ thể, chồng chất lên nhau
  • Trên dòng tràng giang mênh mông, vượt bậc hình ảnh một con thuyền lẻ loi, trôi vô định
  • Cụm từ “thuyền về nước lại” đọc lên nghe như có gì đó chia lìa đôi ngả.
  • Cụm từ “sầu trăm ngả”: nỗi sầu vô hướng, tỏa rộng khắp không gian

– Câu 4:

  • Hình ảnh “củi một cành khô” gợi cái đơn chiếc, nhỏ bé, phù duSố từ “một” gợi sự ít ỏi, “cành khô” gợi sự khô héo, “lạc” mang nỗi sầu vô định, vô hướng

=>Những cảm nhận tinh tế trước thiên nhiên sông nước, từ đó bộc lộ nỗi niềm, tâm trạng của thi sĩ

b, Khổ 2: Huy Cận như vẽ thêm cảnh qua một cái nhìn bao quát hơn (trích 4 câu thơ)

– Câu 1,2:

  • Từ láy “lơ thơ” với giải pháp đảo ngữ: nhấn mạnh cái trống vắng, thưa thớt của cảnh vật trên cồn cát
  • Từ láy “hiu quạnh”: tác giả học được từ câu thơ trong bài “Chinh phụ ngâm” (Đoàn Thị Điểm) -> làm sống lại không khí trống vắng, thê lương của thơ xưa
  • Từ “đâu” có thể hiểu là đâu có hoặc đâu đó. Nhưng hiểu theo cách nào thì âm thanh nhỏ nhoi-biểu tượng cho dấu vết con người cũng quá mỏng manh, mờ nhạt

– Câu 3,4

  • Huy Cận đã thể hiện được sự vận động, mở rộng về mọi hướng của không gian
  • Cụm từ “sâu chót vót” khiến không gian được mở rộng theo 3 chiều: dài, rộng, cao

=>Đó là cảm giác nhớ nhà, đơn độc, lạc lõng giữa thiên nhiên, giữa trời rộng, sông dài

c, Khổ 3: Nỗi buồn của cảnh vật gắn với nỗi sầu nhân thế (trích thơ)

– Câu 1,2

  • Hình ảnh “bèo dạt về đâu hàng nối hàng”: gợi sự cập kênh, trôi nổi của những kiếp người vô định
  • Hình ảnh “bờ xanh tiếp bãi vàng”: thiên nhiên tiếp nối thiên nhiên, không có bóng vía của con người

– Câu 3,4

+ Cấu trúc phủ định “không….. không” phủ nhận hoàn toàn những kết nối của con người

=>Trước mắt thi sĩ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân tình để kéo mình ra khỏi nỗi đơn chiếc bao trùm

d, Khổ 4: Nỗi đơn chiếc được mở lên chiều cao với những hình ảnh đối lập (trích thơ)

– Câu 1,2

  • văn pháp chấm phá: mở ra hình ảnh những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc
  • Câu thơ thứ hai có thể hiểu theo 2 nghĩa: chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều sa xuống tràng giang hay chính bóng chiều đè nặng lên cánh chim làm cánh chim nghiêng lệch

– Câu 3,4:

  • Từ láy “dợn dợn”: thể hiện nỗi niềm đơn chiếc, bâng khuâng
  • 2 chữ “nhớ nhà”: gợi hình ảnh một người lữ thứ xa nhà lẻ loi, ngừng bước bên bờ tràng giang
  • Huy Cận không cần nhìn khói hoàng hôn cũng nhớ nhà bởi nỗi nhớ ấy không phụ thuộc vào ngoại cảnh mà xuất phát từ tâm sự

=>Nét tâm trạng chung của những thi sĩ mới lúc bấy giờ

3, Đánh giá:

a, Nghệ thuật:

  • Sử dụng những chất liệu, thi liệu sắp gũi với đời sống
  • văn pháp chấm phá, lấy cảnh để nói tâm trạng được sử dụng linh hoạt
  • Tiếp thu và làm mới thơ cổ điển

b, Nội dung:

  • Nỗi buồn, nỗi đơn chiếc của tác giả khi đứng trước quê hương nhưng quê hương đã không còn
  • Mong muốn kiếm tìm khá ấm của con người nhưng cái nhận lại chỉ là thất vọng cùng đơn chiếc
  • Bộc lộ kín đáo lòng yêu nước sâu đậm

III, Kết bài:

  • Tổng kết lại vấn đề
  • Nêu cảm nhận của bản thân

Xem thêm: Phân tích bài thơ thương vợ lớp 11 chi tiết nhất

DÀN Ý SỐ 2

1. Mở bài

Giới thiệu về nhà văn Huy Cận và tác phẩm “Tràng giang”

2. Thân bài

– Hoàn cảnh sáng tác của “Tràng giang”: Tháng 9/1938, trong một buổi chiều khi tác giả đạp xe ra bến Chèm nhìn dòng sông Hồng đang cuộn chảy.

– Ý nghĩa nhan đề bài thơ và lời đề từ: Mang âm hưởng Hán – Việt trọng thể, cổ kính. Gợi ra cảnh sông nước mênh mang, con người hữu tình.

– Khổ 1:

  • Từ láy “điệp điệp” phối hợp cùng trạng thái buồn: Nỗi buồn mênh mang lan tỏa như những đợt sóng trên sông nước.
  • Con thuyền “xuôi mái nước song song” và “Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả”: Nhuốm màu chia ly buồn bã, sự vật nhường như muốn đứng yên lặng theo tâm trạng của thi sĩ.
  • Hình ảnh “Củi một cành khô lạc mấy dòng”: Cành củi lạc dòng vô định. Thân phận củi khô héo, lênh đênh trên sông.

– Khổ 2:

  • thi sĩ muốn nghe lắm “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” nhưng hoàn toàn không nổi tiếng đáp trả.
  • Từ “vãn” càng tạo ra cảm giác xa xôi, tẻ nhạt, quạnh vắng
  • trình bày “trời lên sâu chót vót” thay vì “trời lên cao chót vót”: “Sâu” ở đây gợi lên một nỗi buồn không đáy, nỗi buồn trải dài tới vô tận cùng của lòng người.

– Khổ 3:

  • Hình ảnh “bèo”: Sự vật nhỏ bé, tầm thường thay cho lời diễn tả tới những kiếp người cập kênh, trôi nổi, vô định.
  • Cấu trúc phủ định “không một chuyến đò ngang” – “không cầu gợi chút niềm thân tình”: Xóa sạch sự kết nối của con người

– Khổ 4:

  • Những câu thơ mang đầy màu sắc cổ điển
  • Sử dụng văn pháp chấm phá để vẽ lên bức tranh thủy mặc có núi, có mây, có cánh chim nghiêng, bóng chiều, khói hoàng hôn.
  • Liên tưởng tới câu thơ của Thôi Hiệu và so sánh.

3. Kết bài

Khẳng định lại trị giá nội dung và nghệ thuật của những phẩm.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang – Mẫu 1

Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc nhất trong phong trào thơ mới. Thơ ông rất giàu chất suy tưởng, triết lí, tiện thể hiện sự giao cảm giữa con người và vũ trụ. Tràng giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tác giả, thể hiện đầy đủ tư tưởng và phong cách thơ của thi sĩ.

Ngay ở câu đề từ của bài thơ, thi sĩ đã cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn của cảnh vật cũng như của tâm trạng người thi sĩ, lời đề từ đã thâu tóm ngắn gọn và chuẩn xác cả cảnh lẫn tình của bài thơ.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng

Đứng trước cảnh mênh mông sông nước, nỗi buồn của tác giả thử được nhân lên. Ngay ở khổ thơ đầu tác giả đã sử dụng tiếng nói giàu hình ảnh để khái quát về cảnh vật, qua những cảnh vật ấy tác giả muốn thể hiện tâm trạng của mình. Hình ảnh “sóng gợn” gợi cho ta liên tưởng tới những làn sóng đang lan ra, loang ra tới vô tận cũng giống như nỗi buồn của thi sĩ thầm lặng mà da diết khôn nguôi. Con sóng ở giữa một dòng sông dài và rộng càng làm cho nỗi buồn của thi sĩ được nhân lên. Cảnh con thuyền và mọi cảnh vật đều đơn chiếc càng làm cho người thi sĩ mang đầy tâm sự trong lòng không biết thổ lộ tâm trạng cùng ai. Tác giả đã sử dụng những hình ảnh hết sức đời thường để đưa vào thơ ông và đó là sự sáng tạo độc đáo trong phong cách thơ của ông.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu

Lại một lần nữa tác giả đã sử dụng những hình ảnh “cồn, gió, làng, chợ, bến” để giãi bày tâm sự của mình. Bằng cảm nhận của tác giả cảnh vật trở nên thưa và vắng mang đậm nét buồn, làm cho cảnh vật vắng lặng, buồn tẻ, im ắng và cũng chính vì im ắng nên thi sĩ cảm nhận được.

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Tác giả nhận được những âm thanh sinh hoạt của đời sống hằng ngày, nhưng âm thanh đó không rõ ở chỗ nào. thi sĩ đã nỗ lực tĩnh tâm để nghe ngóng cái âm thanh mơ hồ kia, nhưng không thể cảm nhận được và thi sĩ đã chuyển nhãn quan của mình tới một điểm mới.

Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng bến cô liêu

thi sĩ sử dụng nghệ thật đối ý nắng xuống và trời lên để gợi sự đi lại hai chiều của đất trời và cũng là nỗi buồn trong tâm trạng của thi sĩ. Đứng giữa một vùng mênh mông sông nước, đất trời tun hút, con người càng nhỏ bé hơn và nỗi buồn thì dài vô tận.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân tình
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng

Hình ảnh mặt nước cánh bèo gợi cho ta liên tưởng tới một kiếp người trôi nổi, lênh đênh. Bèo trôi không biết dạt về đâu, không có một cái cầu, không chuyến đò để đưa khách, cảnh tưởng tương tự thì làm sao con người thoát được nỗi buồn. trình bày cảnh vật đó, tác giả đã thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời, mong muốn thoát khỏi nỗi buồn u uất của thế cuộc để có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Sau khi ngắm hết những cảnh vật xung quanh mình, thi sĩ đã hướng nhãn quan của ông đã hướng lên vũ trụ và ông thấy hình ảnh trước hết là những đám mây, với từ “đùn” cho thấy chúng chồng xếp mạnh mẽ lên nhau thành núi sau đó được ánh hoàng hôn chiếu vào tạo ra màu sắc nhóng nhánh mà thi sĩ gọi nó là “núi bạc”. Hình ảnh này tuy rực rỡ nhưng lại ẩn chứa nỗi buồn của ông, giống như nỗi buồn của ông tích tụ như núi cùng với đám mây còn có hình ảnh cánh chim.

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Tác giả đã sử dụng từ láy “dợn dợn” để diễn tả những con sóng vời theo con nước lan tỏa ra tích tắc cho thấy nỗi nhớ nhà luôn túc trực trong ông và sẵn sàng lan tỏa ra khắp nơi.

Bài Tràng giang đã thể hiện nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương tới da diết của thi sĩ. Đứng trước cảnh thiên nhiên rộng lớn, thi sĩ đã tức cảnh mà sinh tình, đó là tình cảm thực tâm với quê hương quốc gia của thi sĩ. Với cách tiếp cận với những vấn đề sắp gũi trong cuộc sống, Tràng giang đã trở thành một sáng tác tiêu biểu của văn học Việt Nam.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang – Mẫu 2

Huy Cận là một thi sĩ gắn liền với phong trào thi ca cách mệnh Việt Nam. Trước cách mệnh tháng tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và truyền tụng cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với những tác phẩm tiêu biểu như: “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca… Nhưng sau cách mệnh tháng Tám, thơ ông lại mang một màu sắc mới, thơ ông chủ yếu hướng tới cuộc sống và con người, thiên nhiên, tiêu biểu với những tác phẩm như: “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”… Và một trong những tác phẩm không thể không kể tới đó là tác phẩm “Tràng Giang” được trích từ tập “ Lửa Thiêng”, bài thơ gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên nhưng lại chất chứa một nỗi buồn ước chừng, ẩn dụ cho một kiếp người nhỏ bé, trôi nổi giữa dòng đời vô định.

Với nhan đề “ Tràng Giang” tức là “ sông dài” đã gợi cho người đọc một không gian mênh mông, không bờ bến. “Tràng Giang” hai câu từ vừa mang sắc thái cổ điển trang nhã, lại vừa gợi liên tưởng cho người đọc về dòng “Trường giang” trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, nhưng ẩn chứa sau cái mênh mông đó lại là nỗi ưu tư, nỗi buồn của một kiếp người nhỏ bé giữa cái vũ trụ mông mênh, mênh mông.

Tiếp tới là câu đề từ chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được xúc cảm chủ đạo của cả bài: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài”. Đứng trước cảnh “trời rộng”, “sông dài” lại khiến cho lòng người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, đơn chiếc, lạc lõng. Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Với bốn câu thơ trước hết mở đầu cho bài thơ đã hiện lên rõ mồn một được không gian thiên nhiên mênh mông và sự buồn ước chừng. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ tạo thêm cho người đọc có được không gian mênh mông, bát ngát và mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Sóng thường rất dữ dội, nhưng trong thơ của Huy Cận thì “ sóng gợn” tạo cảm giác cho người đọc cảm nhận được nỗi buồn phối hợp với “ điệp điệp” càng làm cho người đọc thấy được nỗi buồn đó vô cùng lớn, cứ tiếp nối nhau mãi không hết. Hình ảnh con thuyền ở đây cũng chính là một hình ảnh ẩn dụ cho con người, sự dịch chuyển lặng lẽ, “ song song” giống như thân phận của mỗi người luôn luôn trôi nổi giữa dòng không biết đi đâu về đâu. Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, vậy mà tác giả lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa vắng “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì vậy mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo sử dụng phép đảo ngữ phối hợp với những từ ngữ lựa chọn lọc, thể hiện nỗi đơn chiếc, lạc lõng trước vũ trụ mông mênh. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt sức sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, dập dềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, bằng những ngôn từ những hình tượng hết sức sắp gũi với cuộc sống của mọi người, làm cho người đọc thấu hiểu và cảm nhận được không gian mênh mông mông mênh, và nỗi buồn vô định trong lòng người ẩn chứa trong bức tranh thiên nhiên hùng vĩ.

Và nỗi lòng đó dần dần được mở ra, đưa người đọc dần dần khám phá phân tích

“Lơ thơ cồn nhỏ gió hiu quạnh
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.”

Hai từ láy “lơ thơ” và “hiu quạnh” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. Giữa quang cảnh “lơ thơ”, “cồn nhỏ”, gió thì “hiu quạnh”, một quang cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, cùng với sự ít ỏi cô độc khiến cho con người trở nên đơn côi, rợn ngợp tới độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Khi nhắc tới quang cảnh chợ, mọi người thường gợi nhớ tới sự sôi động tấp nập người buôn người bán, nhưng ở đây Huy Cận lại lựa lựa chọn quang cảnh là chợ chiều, khiến cho mọi người thấy được sự yên lặng, vắng vẻ.

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.”

“Nắng xuống, trời lên” gợi sự đi lại, mở rộng về không gian, nhưng vẫn gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại bị tách bạch khỏi nhau. Hình ảnh “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đồng thời, điều đó cho thấy nỗi buồn của nhà văn không chỉ ngừng lại ở thiên nhiên xung quanh mà còn gửi lên tới tận trời cao. Hình ảnh “ sông dài”, “ trời rộng”, “ bến cô liêu” cho thấy được không gian mông mênh của mênh mông, và sự đơn chiếc lẻ loi của sự vật trước cái cảnh tượng mênh mông đó. Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã khiến cho người đọc không chỉ thấy nỗi buồn của cảnh vật xung quanh mà nó còn là cảnh vật của lòng người. thi sĩ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì thân thuộc mang lại khá ấm cho tâm hồn đang chìm vào lạnh giá, về đơn chiếc. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khát khao ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, hiu quạnh.

“Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân tình,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Hình ảnh mặt nước cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường sử dụng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì cập kênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai mặt nước cánh bèo, mà là “hàng nối hàng” chứng tỏ rằng không có một số từ nào có thể trình bày hết được những số phận đơn chiếc lạc lõng trong cuộc sống

“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân tình.”

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “…không…không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt thi sĩ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân tình để kéo mình ra khỏi nỗi đơn chiếc đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao ước của con người, nhường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Tiếp tới tác giả lại khéo léo sử dụng những hình tượng mẫu trong thi ca cổ điển để diễn tả nỗi lòng

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.”

Hình ảnh thơ là những nét chấm phá của thiên nhiên vừa mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường. Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như đi lại, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn đùn ra mãi. Hình ảnh chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

tương tự, bằng những nét chấm phá tả cảnh thiên nhiên bằng những giải pháp so sánh, tu từ độc đáo đã làm lên không gian mông mênh bát ngát của thiên nhiên cùng với nỗi buồn sâu thẳm cho những kiếp người. Nhưng giữa thiên nhiên và còn người trong thơ Huy Cận lại rất hòa hợp và đan quyện vào nhau làm tan chảy trái tim của người đọc. Điều này, cho thấy được rằng sự tài tình qua cách sử dụng từ, sự cảm nhận của thiên nhiên bằng đôi mắt rất tinh tế, sự thổ lộ lòng mình một cách trung thực đã đem tới cho người đọc một tâm trạng hết sức đồng cảm. từ đó, thi sĩ Huy Cận còn thổ lộ tình yêu quê hương quốc gia con người của chính bản thân ông.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang – Mẫu 3

Có những tác phẩm văn học vừa đọc xong, gấp lại là ta sẽ quên ngay, nhưng cũng có không ít những bài văn bài thơ, thật diệu kì, đã đi sâu vào trong lòng ta bằng một sức hút vô cùng mãnh liệt. Tràng giang của Huy Cận là một tác phẩm tương tự! Đọc Tràng giang, ta cảm thấy từng lời thơ, từng âm điệu… như những dòng chảy của một con sông, cứ len lỏi nhẹ nhõm nhưng chảy sâu vào trong tận đáy tâm hồn, khắc chạm vào đó những ấn tượng trầm lặng mà sâu sắc!…

“Thơ Huy Cận thường buồn”, Xuân Diệu, người bạn tri kỉ và cũng chính là người bạn trăm năm thân thiết của Huy Cận cũng đã phải thốt lên tương tự! Là hai người bạn thân thiết của nhau, là hai người thi sĩ đa tình cùng yêu mến và tìm tới với toàn cầu thiên nhiên vô tận, nhưng ở Xuân Diệu, thiên nhiên say đắm ngọt ngào hương vị tiếng nói tình yêu, còn nơi Huy Cận, thì cây cỏ núi sông lại mặc nhiên lặng lẽ như thấm thía nỗi buồn của “cái tôi” lẻ loi cô độc. Tràng giang là một trong những tuyệt bút kết tụ từ nỗi sầu “mang mang thiên cổ” đó! Đọc bài thơ, có nhẽ ta sẽ bắt gặp được một nỗi buồn, nỗi buồn của chàng thanh niên mà “trọn kiếp mắt chàng thường đẫm lệ”, nỗi buồn có nhẽ rất… Huy Cận mà đã hơn một lần Xuân Diệu nói về nó như sau:

“Trong thơ Việt Nam, nghe bay dậy một tiếng địch buồn, không phai sáo thiên thai, không phải điệu tình ái, không phải lời li tao kể chuyện một cái tôi, mà ấy là một bản ngậm ngùi dài” có phải tiếng hiu quạnh của khóm trúc bông lau, có phải niềm than vãn của bờ sông bãi cát, có phai mặt trăng một mình đang thông cảm cùng những vì sao? Tiếng rền rĩ dịu em sẽ vấn lấy ta như một dải lụa ôm ấp một vế đau, tiếng len thấm thía vào hồn ta như khí hậu của núi đèo, tiếng làm thành sương đọng lệ trên mắt ta…”.

Một lời nhận xét thật hay! Mà có nhẽ chỉ cần bấy nhiêu đó thôi, ta đã hiểu được tương đối nhiều về thơ Huy Cận!

Và đặc biệt là đối với Tràng giang …

Bài thơ chính là một bức tranh thiên nhiên mà vong hồn của nó là một nỗi buồn xa xăm, hoang vắng, có một cái gì đó như tàn lụi đơn chiếc”.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song

Nhìn những cơn sóng nhỏ đang lặng lẽ gối đấu nhau mà đi xa tới tận cuối chân trời, tâm hồn thi sĩ bỗng dâng lên một nỗi buồn “điệp điệp”. Từ “điệp điệp” đã tạo nên hình ảnh một nỗi buồn nghìn trùng, một nỗi buồn triền miên, lớp lớp… Thường người ta nói trùng trùng điệp điệp để chỉ núi non, nhưng ở đây tác giả lại đem nó để trình bày một nỗi buồn, đúng là một sáng tạo thật độc đáo trong cách sử dụng từ để hình ảnh hóa một nỗi buồn thật là lãng mạn! Âm điệu thơ như ngân xa da diết, như thân thuộc quen quen! có nhẽ Huy Cận đã liên tưởng tới một câu ca dao:

Sóng bao nhiêu gợn, dạ em sầu bấy nhiêu

Ở đây, có bao nhiêu gợn sóng trên dòng Tràng giang từ là có bấy nhiêu nỗi buồn thi sĩ. Câu thơ không chỉ nghiêng về số liệu mà còn nặng về sắc thái, nỗi buồn chỉ nhẹ nhõm lặng lẽ thôi nhưng da diết và dằng dai, nó như vô tình nghìn xa và tạo thành một tiếng buồn vô tình, vang vọng mãi giữa đất trời vũ trụ…

Và… vượt bậc giữa những lớp sóng ngút nghìn đó là hình ảnh của một con thuyền, một con thuyền nhỏ vượt bậc giữa những lớp sóng nhưng cũng đang khuất chìm trong chúng! Hình ảnh độc đáo vô cùng! Chiếc thuyền con như đang lênh đênh, dập dềnh không định hướng, cứ xuôi mãi, xuôi mãi … theo dòng nước vô tận nghìn trùng…

Cụm từ “nước song song” cũng là một cấu tứ lạ mà ta chưa từng đọc bao giờ, nó đối với “buồn điệp điệp” ở câu trên như để gợi ra một nỗi buồn mênh mông trùng điệp!

Sang câu thơ thứ ba, nước và thuyền đã đi lại ngược chiều nhau, con thuyền đã không còn trôi xuôi theo dòng nước nữa:

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng…

Thế thăng bằng song song của câu thơ đã bị phá vỡ. Thuyền về, mà về đâu? … Không rõ! Chỉ để lại một mặt sông vắng bóng thuyền, nỗi đơn chiếc như trải rộng ra nhường như vô tận. Hình ảnh con thuyền cứ khuất dần, khuất dần rồi xa mờ hẳn, nước đành chia “sầu trăm ngả”. Huy Cận đã khéo léo trong việc trình bày sự vận động của sự vật để nói tới bước đi của không gian. Thời gian vận chuyển theo tầm nhìn con thuyền và không gian cũng mở rộng cùng với nó. nếu như như lúc trước, không gian chỉ xác định theo dòng nước đang đi lại song song cùng với con thuyền thì hình bóng con thuyền đã trở nên mất dạng, không gian chợt mở rộng ra tới “trăm ngả”, vô tận mênh mông không có lấy một lợi thế nào! Chính vì vậy, câu thơ thứ ba đã trở thành một đòn bẩy để nâng câu thơ cuối tạo thành một chi tiết độc đáo vô cùng:

Củi một cành khô lạc mấy dòng

Độc đáo về hình ảnh thơ và cả ý thơ! “Củi một cành khô” có nhẽ là một hình ảnh mà ta chưa từng bắt gặp bao giờ, chính nó đã đưa đoạn thơ thoát khỏi bầu không khí cổ kính để trở về với thời hiện đại” một cành củi khô đang nổi trội dập dềnh giữa muôn vàn cơn sóng, lúc bị đẩy bên này, lúc lại dạt sang bên kia… Đó có phải chăng là hóa thân của một kiếp người lữ thứ, luôn lạc lõng đơn độc, bị cuốn trôi theo chiều xoáy thế cuộc?

Tràng giang đó, vẫn mặc nhiên suy tư qua lớp sóng “buồn điệp điệp”, qua dòng khơi “nước song song” và qua vẻ hững hờ mặc cho “thuyền về nước lại” mặc cho nhánh củi lạc loài trôi!… Tràng giang!… Sóng gợn Tràng giang!…

Sang khổ thơ sau, tác giả đã đi sâu vào trong việc mô tả chi tiết nỗi buồn. Cái buồn bằng bạc cả không gian giờ đã không còn đi lang thang vô địch trên sông mà đã tấp vào một cồn đất nhỏ:

Lơ thơ cồn nhỏ gió hiu quạnh
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Cảnh trong bài thơ chứa đầy tâm trạng. có nhẽ Huy Cận đã tập trung tất cả những hình ảnh và nhạc điệu để làm vượt bậc lên cái buồn của con người trước cảnh trời rộng sông dài. Cảm giác buồn gửi trong vần điệu, trong những từ gợi hình mỏng mảnh và cô quạnh! “Lơ thơ” gợi hình ảnh, “hiu quạnh” gợi cảm giác, cả hai từ láy như đã được thi sĩ phát huy hết hiệu quả để mô tả nỗi buồn, một nỗi buồn nhẹ nhõm nhưng sâu lắng, buồn tới lạnh lẽo đơn chiếc, tới rợn ngợp tâm hồn.

Câu thơ “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, có thể hiểu là “đâu đây nổi tiếng làng xa vãn chợ”, nhưng đó cũng có thể là thắc mắc mà tác giả đặt ra cho chính bản thân mình” “đâu rồi”, “có đâu” tiếng “làng xa vãn chợ?”…

Ở đây, Huy Cận đã vận dụng khá tự nhiên một thủ pháp quan trọng trong thủ pháp cổ điển” mượn cái “động” để nói tới cái “tĩnh”, cố kiếm tìm và lắng tai một âm thanh động để lặng đi trong bầu không khí tĩnh lặng tới rợn người!

Nỗi buồn ấy như càng trải rộng hơn trước cái nền không gian mà tác giả dựng nên bằng những từ ngữ vô cùng độc đáo:

Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu

Cùng một lúc, Huy Cận đã sử dụng thủ pháp của một nhà nhiếp ảnh và nghệ thuật của một nhà hội họa để dựng nên một bức tranh độc đáo. Thông thường từ “chót vót” chỉ được sử dụng để diễn tả chiều cao, vào thơ sâu thăm thẳm” không gian như vụt lớn hơn ra. Trên bức tranh sông dài hiện thêm một nét trời cao “sâu chót vót”, vài cồn đất nhỏ, “bến cô liêu”. Thiên nhiên phóng khoáng hơn và tưởng chừng sẽ sống động hơn, nhưng không! Khi lòng người còn “hiu quạnh”, “cô liêu” thì “cảnh có vui đâu bao giờ”… Vài dải đất giữa sông dài, vài ngọn gió “hiu quạnh”, chưa đủ để làm tươi cảnh vật và âm thanh của “tiếng làng xa vãn chợ chiều” thì mơ hồ và mỏng mảnh lắm! Quanh tác giả giờ đây chỉ còn có thiên nhiên, một thiên nhiên với cái buồn ảo não và da diết tới bằng bạc cả không gian và thời gian” những lớp tiếng sóng gợn Tràng giang, tiếng hiu quạnh heo hắt của bờ lau khóm trúc, nỗi sầu vạn cổ tự nghìn xưa chợt theo gió thổi về! Giờ đây, giữa thiên nhiên vũ trụ rộng mênh mông mông mênh ấy, chỉ còn lại có một mình tác giả, một mình đứng lặng chôn chân trong quạnh quẽ, cô liêu, cũng như Trần Tử Ngang, nghìn năm trước cũng đã có cuộc viễn du tương tự như thế:

Ao người trước đã qua!
Ai người sau chưa tới?
Giữa trời đất vô cùng
Mình ta luôn giọt lệ!

Người đơn chiếc lại gặp cảnh hoang vắng tịch liêu thì nỗi đơn chiếc ngày càng thêm đậm. Khổ thơ thứ ba như mở ra cái quang cảnh nhường như không có chút dấu vết nào của sự sống, một quang cảnh như đã bị chìm đắm trong toàn cầu của sự ngột ngạt tới vô cùng.

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân tình
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Nỗi buồn được mở rộng ra hơn, dù lời thơ có thêm được vài gam màu sắc nhạt nhòa! Cảnh có mở ra thêm bờ bờ bãi bãi, thêm ít màu sắc vàng tô điểm giữa bức tranh và thay thế “củi một cành khô” đơn độc lênh đênh đã là những đám bèo “hàng nối hàng” theo nhau đi mãi. Nhưng “hàng nối hàng” kia chợt xuất hiện trong dòng sông của thi sĩ như câu trả lời, đành để mặc cho tâm hồn mình trở thành một chiếc đảo đơn chiếc giữa mây trời sông nước” “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề”.

Một loạt những tình từ mênh mông lặng lẽ đã gợi lên không khí vắng vẻ u buồn, lại còn thêm những chi tiết phủ định” “Không một chuyến đò ngang”, không một chiếc cầu nối càng làng tăng nỗi cô liêu quạnh quẽ. tới đây tình trạng đơn chiếc có nhẽ đã lên tới đỉnh điểm, ước mong tìm thấy một “chút niềm thân tình” ở một “chuyến đò ngang”, một sự liên lạc nào đó với con người qua chiếc cầu nhỏ bé, nhưng tất cả đều không có được:

Thuyền không giao nối dây từ đó
Vạn thuở đợi mong một cánh buồm!

Đôi bờ sông như hai toàn cầu tách biệt nhau, bờ này tự thu mình không liên lạc với bờ kia! Dòng nước vẫn cứ vô tình hững hờ chảy. Tràng giang mỗi lúc một mông mênh, mỗi lúc mỗi ai hài dưới tâm tư trĩu nặng của người thi sĩ trẻ, đã sớm vương nỗi sầu thiên cổ mênh mang và những mặt nước cánh bèo đang tản giật trên lớp sóng nước kia có phải chăng chính là hình ảnh tượng trưng cho thân phận thi sĩ, của lớp người trẻ ở những năm ba mươi, cũng hoang mang vô địch, cũng mỏng manh nhỏ bé, cũng long đong nổi trôi theo dòng chảy vô tận của thế cuộc? Giống như tâm trạng mà Xuân Diệu một lần đã viết” “Chúng tôi cũng đơn độc, mỗi hồn người là một cõi đơn độc trong đất trời là một khung đơn độc”. tương tự, cái buồn của Huy Cận, của một chàng thi sĩ đã “hơn một lần gửi áo cho trăng” và lòng vẫn hay “sầu mưa”, “tủi nắng” ấy không phải là cái buồn vô cớ, mà nó cũng chính là cái buồn của thời đại, mà nếu như nói cho chuẩn xác hơn thì đó là nỗi buồn của thanh niên tiểu tư sản trí thức lúc bấy giờ, những con người bị “giấc mơ con đè nát thế cuộc con” với những mảnh vong hồn nhưng lại bị “thiên hạ bỏ hiu quạnh” với những đôi chân “muốn giấu lỗ, thủng gai đời”! Và có nhẽ chính vì vậy hơn một lần họ đã từng than vãn:

nếu như như chưa biết bao nhiêu lần hốt hoảng
Trong sầu đen đã gãy cánh như dơi
nếu như chưa biết bao nhiêu dòng lệ đắng
Chảy như sông không rửa sạch sầu đời!

Mượn dòng sông để soi vong hồn bé nhỏ đơn chiếc, nỗi buồn kia như lại càng thêm oằn sâu và trĩu nặng! thi sĩ đã đem lại cái tâm trạng đầy đơn chiếc buồn bã ấy mà phủ lên cảnh vật thiên nhiên.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Trên giữa bầu trời xanh mênh mông, mây đùn lên trông giống như những ngọn núi bạc trắng xóa, chợt xuất hiện một cánh chim bé nhỏ mà “Bóng chiều sa nặng tới nỗi nó phải nghiêng cánh” (Xuân Diệu).

sử dụng một vật hữu hình để diễn tả một cái vô hình. Thật khó để hình dung được ranh giới giữa cái nhỏ bé hữu hạn và cái lớn lao vô hạn mà Huy Cận đã đưa ra! Cảnh vật hiện lên trong thơ ông dù cho rất buồn nhưng vẫn chưa đựng được một cái gì đó hùng tráng và mạnh mẽ. Điều độc đáo ở đây chính là cách nhìn của thi sĩ! “Trong cánh chim nghiêng, tác giả đã thấy được bóng chiều sa!”. Trong lúc Nguyễn Du thấy “bóng chiều” qua những nhánh “tơ liễu thướt tha” Hàn Mặc Tử thấy “bóng xuân sang” trên những giàn thiên lí, thì ở đây Huy Cận cũng tỏ ra tinh tế không kém khi nhận thấy “bóng chiều” về trên một cánh chim nghiêng! Một cánh chim lẻ loi, chợp chờn trong ánh chiều đang xuống, khiến cho trời đất như rộng trải ra thêm! Không gian vừa mới trải mênh mông trong dáng dấp nghìn mây “lớp lớp” chất chồng, chợt ầm xuống hoàng hôn rất nhanh, đó cũng là khi tâm hồn người lữ khách chợt bâng khuâng nhớ tới quê nhà.

Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Âm hưởng của thơ Đường triền miên trong câu cuối, mượn niềm luyến nhớ quê hương của Thôi Hiệu trong bài Hoàng Hạc Lâu.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu

Nhưng Huy Cận đã bộc lộ tình yêu mặn mà tha thiết hơn! Tình yêu khắc khoải nên thủy triều rộn rực xôn xao. Điệp từ “dợn dợn” cũng rập rờn như sóng Tràng giang “điệp điệp”, cái rập rờn trùng điệp chứa chan biết bao tình. Ngày xưa, thi sĩ Đường phải có “khói sóng trên sông”, Hồ Dzếnh phải có “khói buồn bay lên mây” mới có thể gợi nhớ quê hương, mới có thể “nhớ nhà trong điếu thuốc”, nhưng còn ở đây thì lại khác. Nhân vật trữ tình trong thơ Huy Cận đứng trước cảnh không sương, không khói hoàng hôn mà cũng rung rung nỗi nhớ về một miền quê xa khuất phía chân trời. Huy Cận chẳng cần ngoại cảnh! Lúc này cái buồn đã thành hình, không chỉ còn là cái cảm giác sầu mênh mông vời vợi do xúc cảm sinh tình khi ngắm nước Tràng giang. Hai câu kết được gói gọn trong những dòng xúc cảm thiết tha và đẹp đẽ! Và nó làm ta gợi nhớ tới những câu thơ ngày trước:

Đạm đạm trường giang thủy
Du du viễn khách tình

Bao phủ toàn bài thơ là một nỗi buồn rộng khắp và thấm thía, một nỗi buồn mà Hoài Thanh đã từng nhận xét” “Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ ngừng ngựa trên non, buồn đêm mưa, buồn nhớ bạn… Người đã gợi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi gợi cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này!”.

Buồn nhưng không bi quan, không chán nản! Bài thơ hiện diện với tư cách là một bài thơ buồn nhưng vẫn mặn mà và lắng sâu một tình yêu quê hương tha thiết nồng nàn! Có phải chăng vì vậy mà Xuân Diệu đã từng truyền tụng” “Tràng giang là một bài thơ ca hát non sông quốc gia, do vậy dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc”.

Cảm nhận bài thơ Tràng Giang – Mẫu 4

thi sĩ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930 – 1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước cách mệnh tháng tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và truyền tụng cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với những tác phẩm tiêu biểu như” “Lửa thiêng”, “Vũ trụ ca”, Kinh cầu tự”. Nhưng sau cách mệnh tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chống chọi và xây dựng quốc gia của nhân dân lao động” “Trời mỗi ngày lại sáng”, “Đất nở hoa”, “Bài thơ thế cuộc”… Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ “Tràng giang “. Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước cách mệnh tháng tám.

Bài thơ được trích từ tập “Lửa thiêng”, được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem tới sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi Tràng giang buồn điệp điệp
….
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Ngay từ thi đề, thi sĩ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. “Tràng giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “anh” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ “Tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.

Tứ thơ “Tràng giang” mang nét cổ điển như thơ xưa” thi sĩ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như những thi sĩ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu như những thi nhân xưa tìm tới thiên nhiên để mong hòa nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người đơn chiếc, nhỏ bé trước vũ trụ mông mênh. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một ý thức hiện đại.

Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được xúc cảm chủ đạo của cả bài” “Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài”. Trước cảnh “trời rộng”, “sông dài” sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm “bâng khuâng” và nhớ. Từ láy “bâng khuâng” được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, đơn chiếc, lạc lõng. Và con “sông dài”, nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp những khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng thi sĩ làm rung động trái tim người đọc.

Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế.

Sóng gợn Tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu trước hết này. Hai từ láy nguyên “điệp điệp”, “song song” ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợn sóng “điệp điệp”, nước “song song” ấy là một “con thuyền xuôi mái”, lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự đi lại là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng “Tràng giang ” dài và rộng mông mênh không biết tới nhường nào.

Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng.

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. vậy mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa vắng “thuyền về nước lại”, nghe sao đầy xót xa.

Chính lẽ vì vậy mà gợi nên trong lòng người nỗi “sầu trăm ngả”. Từ chỉ số nhiều “trăm” hô ứng cùng từ chỉ số “mấy” đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.

Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc” “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Huy Cận đã khéo sử dụng phép đảo ngữ phối hợp với những từ ngữ lựa chọn lọc, thể hiện nỗi đơn chiếc, lạc lõng trước vũ trụ mông mênh. “Một” gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, “cành khô” gợi sự khô héo, cạn kiệt sức sống, “lạc” mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, dập dềnh trên “mấy dòng” nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.

Nét đẹp cổ điển “tả cảnh ngụ tình” thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở những khổ thơ còn lại để người đọc có thể thông cảm, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở những thi sĩ mới. Nhưng không những thế ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói “Củi một cành khô” thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm xúc cảm của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.

Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo.

Lơ thơ cồn nhỏ gió hiu quạnh
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Hai từ láy “lơ thơ” và “hiu quạnh” được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. “Lơ thơ” gợi sự ít ỏi, bé nhỏ “hiu quạnh” lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa quang cảnh “cồn nhỏ”, gió thì “hiu quạnh”, một quang cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngợp tới độ thốt lên “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”. Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi “đâu đó”, âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là thắc mắc “đâu” như một nỗi niềm khát khao, mong mỏi của thi sĩ về một tí sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là “đâu có”, một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây không hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên. Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

“Nắng xuống, trời lên” gợi sự đi lại, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa” bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. “sâu chót vót” là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt thi sĩ không chỉ ngừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian mông mênh, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với “sông dài, trời rộng”, còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, đơn chiếc biết bao” “bến cô liêu”.

Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua những thi liệu thân thuộc trong Đường thi như” sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán ngán với “vãn chợ chiều”, mọi thứ đã tan rã, chia lìa.

thi sĩ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì thân thuộc mang lại khá ấm cho tâm hồn đang chìm vào lạnh giá, về đơn chiếc. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khát khao ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, hiu quạnh.

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân tình,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.

Hình ảnh mặt nước cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường sử dụng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì cập kênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai mặt nước cánh bèo, mà là “hàng nối hàng”. Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngợp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đớn đau, đơn chiếc. kế bên hàng nối hàng mặt nước cánh bèo là “bờ xanh tiếp bãi vàng” như mở ra một không gian mông mênh vô cùng, vô tận, thiên nhiên tiếp nối thiên nhiên, đường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân tình.

Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. “…không… không” để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt thi sĩ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân tình để kéo mình ra khỏi nỗi đơn chiếc đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao ước của con người, nhường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.

Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao”

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.

văn pháp chấm phá với “mây cao đùn núi bạc” thành “lớp lớp” đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ “đùn”, khiến mây như đi lại, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển thân thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều” Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt Tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng “cánh chim” và “bóng chiều”, vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.

Cảm nhận về bài thơ Tràng giang – Mẫu 5

Tràng Giang là một trong những bài thơ tiêu biểu của tài năng Huy Cận và thể hiện rõ chất tâm hồn ông. Huy Cận cũng đã nhiều lần kể lại quá trình viết nó. Cảm hứng thơ được gợi từ phong cảnh sông nước vùng Chèm Vẽ ngoại thành Hà Nội. Bây giờ nơi này đã là nội thành đông đúc với nhiều nhà cao tầng, biệt thự nhưng vào thời Huy Cận viết Tràng giang cho tới mấy chục năm sau, nó hiu quạnh sông nước, vắng lặng, đẹp và buồn đúng như trong bài thơ đã tả.

Huy Cận kể lại, ông đã thử vào bài bằng nhiều thể thơ, nhưng cuối cùng lựa chọn thơ bảy chữ, đậm chất Đường thi. Ông còn cho biết Lớp lớp mây cao đùn núi bạc là do ông học ở bản dịch thơ Đỗ Phủ “Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Ý kết là ông tựa vào thơ Thôi Hiệu, qua bản dịch của Tản Đà “Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” để tả nỗi buồn của lòng mình: Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. Chính không gian Đường thi trong khá thơ bảy chữ tạo nên sự cộng hưởng xúc cảm đồng chiều ấy. nếu như viết ở thể thơ khác, chưa chắc đã có sự cộng hưởng ấy. Huy Cận buồn hơn Thôi Hiệu. Huy Cận thừa biết mình đứng nhờ trên vai người ta, có cao nhưng không chắc mình có chiều cao hơn người ta. Đọc Tràng giang có thể thấy buồn Hoàng Hạc lâu nhưng là ở nhiều chỗ khác chứ không phải ở câu kết ấy.

Bài thơ Tràng giang có vẻ đẹp cổ điển, trọng thể mở vào cao rộng trời đất mà nỗi buồn lại thấm thía sâu thẳm xuống một cõi lòng. Nỗi buồn bàng bạc mơ hồ nhưng đụng vào đầu cũng thấy. Mơ hồ vì buồn không rõ lí do cụ thể. Bàng bạc vì không rõ sắc thái, không rát bỏng nhưng ngân nga như một nỗi bâng khuâng, một tâm trạng nhớ không đối tượng: trời rộng nhớ sông dài. Câu đề từ quả đã ôm đủ chủ đề bài thơ. Nỗi bâng khuâng buồn nhớ đựng đầy không gian. Cảnh nào cũng gợi buồn, cảnh bị nhiễm vào từ trường tình cảm. Huy Cận nói: Đây là bài thơ của tâm hồn. Tâm hồn ông khi ấy túc trực một nỗi buồn thế hệ, cái thế hệ vừa biết suy nghĩ thì chạm ngay vào nỗi buồn mất nước, vào thân phận nhược tiểu, một vong hồn nho nhỏ/ mang mang thiên cổ sầu. Chất tâm hồn thất thường bắt rất nhạy xúc cảm không gian rộng xa, vắng lặng hắt hiu. Riêng với Huy Cận, người đã từng “nghiêng tai kì diệu” nửa nghe vũ trụ nửa nghe lòng mình. Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn thì không gian trời nước quãng sông Hồng nơi Chèm Vẽ cộng hưởng với lòng ông mà thành thơ là điều không khó hiểu.

Chữ tràng trong Tràng giang đề bài và trong câu trước hết vốn ít sử dụng trong tiếng nói giao tiếp hơn trường nhưng Huy Cận lại lựa chọn sử dụng… Có người giảng là để khỏi nhầm với sông Trường Giang bên Trung Quốc. Chả hiểu có đúng thế không. Nhưng chỉ căn cứ vào âm thanh (chứ không phải chỉ nghĩa chữ) thì giang hai âm vang đồng dạng đứng liền nhau gợi được khoảng rộng, dần theo chiều ngang, bát ngát mông mênh hơn là trường. Trường chỉ cho thấy chiều dài, đa nghĩa chữ và hình âm trường thuôn lại trong khi tràng mở ra. Mặt sông dài rộng, nên đầu sóng của sông, vốn thấp như càng thấp thêm, chỉ như gợn nhẹ mặt sông phẳng. Đã rộng lại tĩnh nên gợi buồn, buồn điệp điệp. Chứ sóng mà dào dạt hay réo sôi chắc dẫn tới cảm giác khác. Điệp điệp là trạng thái của gợn sóng trên tràng giang và cũng là của gợn buồn trong lòng người. Câu vào này buồn thật. Nhưng câu thứ hai: “Con thuyền xuôi mái nước song song” có người cũng cho là câu thơ buồn, buồn lắm, lấy lí rằng: song song là chẳng bao giờ gặp nhau, là không gắn bó gì với nhau. đó là vận dụng định lý đường song song trong hình học sơ cấp vào hình tượng văn học. E khó thuyết phục. Thuyền nước trong câu thơ này là đang gắn bó, thậm chí hài hoà xuôi chèo mát mái. Câu thơ này không buồn. Hơn nữa, vui. Đang vui. (Chữ nước song song chỉ là một dụng ý để đối với buồn điệp điệp). Có đang vui mới dẫn tới cái buồn ở câu sau. Mới tạo nên mối tương quan: vui chỉ khoảnh khắc mà buồn thì thế tất, ấy là lúc thuyền về tới bến, nước vẫn tiếp tục đi, đi một mình, phiêu bạt hai ngả rẽ vô thường nên mới kinh hãi với cái sầu trăm ngả. Hình ảnh sông nước tới đây đã nhập vào thân phận con người. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả. Một chữ lại (trạng từ), lại sầu… cho thấy cách nhìn đời hồi ấy của Huy Cận khá giống Xuân Diệu (hoa nở để mà tàn – Trăng trong để mà khuyết – Bèo hợp để chia tan – Người sắp để li biệt). Thuyền và nước song song xuôi mái chỉ khoảnh khắc rồi lẻ loi với bao nhiêu ngã ba sông nước, sầu trăm ngả. Từ hình ảnh trăm ngả dẫn tới câu cuối đoạn như tổng kết:

Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Trên sông Hồng, nhất là mùa lũ có thể thấy cả cây trôi, thân gỗ trôi, vật vã nổi chìm trong sóng đục phù sa. Cảnh gợi tang thương. Nhưng không phải mà xúc cảm Huy Cận ở bài này. Ông nói ông phải lựa lựa chọn hình ảnh sao cho ra cai thân phận nổi nênh của kiếp người. lựa chọn củi hơn là gỗ, lựa chọn một cành không hơn là những cây tươi. Củi một cành mà lạc mấy dòng thì đắt quá, chưa kể nó còn ứng với sầu trăm ngả ở trên.

Đoạn một là nhìn vào mặt sông mà tả. Chi tiết tung hứng, tiếng nói đăng đổi và ngay trung tâm của chủ đề. Đoạn hai nhìn ra xa xung quanh: cồn nhỏ, làng xa, trời sâu, bến rộng… không gian mở ra rộng – cao để hồn ngấm vào thưa vắng. Thưa vắng và yên tĩnh. Chỉ một âm thanh xa, vọng tự đâu không rõ, mơ hồ như nghe trong hoài niệm một phiên chợ quê lúc vãn người. Âm thanh mơ hồ là cách đặc tả cái tĩnh lặng. Đoạn thơ này mở không gian. Chiều thẳng đứng thì như đang dãn dần ra theo nắng, theo trời:

“Nắng xuống, trời lên sâu chót vót”.

Sâu chứ không cao là một sáng tạo, gây ấn tượng. Chiều nằm ngang thì “ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”… Không màu sắc, không âm thanh, không hoạt động. Tất cả bất động, lặng đi, ngấm vào nỗi cô liêu.

Cõi rộng không giới hạn, tả dễ miên man. Huy Cận tỉnh táo chuyển lại ánh về mặt sông, về chỗ khởi đầu bài thơ “Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng”. Đẩy mức vắng lặng tới chỗ bặt dấu người. Hai đoạn trên còn có thuyền, có chợ. Giờ đây, trên sông chỉ còn có bèo, duy nhất bèo, hàng nối hàng. Không đò ngang, không cầu bắc, không thấy một dự án nào mang dấu người, chỉ lặng lẽ thiên nhiên với thiên nhiên. Buồn lan theo cảnh. Buồn trải ra xa “Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”. Rồi lại dựng lên cao “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”. Trút qua đôi cánh chim nhỏ và rơi xuống một lòng người, ở chỗ cảnh bặt dấu người, nên lòng mới trên lên nỗi nhớ quê, lòng quê. Tình thế trôi dạt nổi nênh của ngoại cảnh làm con người ngậm ngùi thân phận, thèm tình cảm rét mướt gia đình quần tụ.

Bài thơ khép lại trong nỗi nhớ nhà. Tính logic trong những bước chuyển của tâm hồn rất được coi trọng trong bài thơ này. có nhẽ vì vậy Huy Cận tự giới thiệu: “Tràng giang là bài thơ tình, và tình gặp cảnh, một bài thơ về tâm hồn.

Cảm nhận Tràng giang – Mẫu 6

Đời người không khỏi có những lúc bước chân lang thang tới những nơi yên tĩnh để lắng đọng tâm hồn. Những lúc ấy người ta cảm thấy mình bé nhỏ trước không gian mênh mông, vũ trụ rộng lớn. Rồi chợt họ trông thấy kiếp người sao quá ngắn ngủi, đời người thật phù du và con người nhỏ bé trước vạn vật. Đọc “Tràng giang” của Huy Cận xúc cảm trong tôi dâng lên nỗi buồn cô quạnh khi nghĩ về những kiếp người trôi nổi, lênh đênh.

Bài thơ “Tràng giang” ra đời vào năm 1939 khi hồn thơ của Huy Cận mang nét u sầu, chất chứa nhiều phiền muộn, tâm tư. Chính vì vậy mà những từ ngữ trong bài phản ánh trực tiếp cái sầu của thi sĩ trước thời cuộc và những suy nghĩ của tác giả trên hành trình đi tìm “Thơ mới”.

Tên tác phẩm “Tràng giang” đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ về con sông dài, mênh mông. Tựa đề cũng tạo cảm giác hoài cổ khi thi sĩ sử dụng một loạt từ Hán Việt. Đã có rất nhiều người thử thay thế tên tác phẩm “Tràng giang” thành “Trường giang” nhưng riêng tôi nghĩ rằng cái tên vốn có của nó vẫn chuẩn xác nhất vì khi sử dụng “Trường giang” chỉ mới diễn tả được độ dài của con sông mà thôi. Thế nhưng khi thay bằng “Tràng giang” con sông không chỉ dài mà còn rộng. Sông trở nên mênh mông, bát ngát hơn từ đó nói lên được ý đồ của tác giả trong sự đối lập giữa thiên nhiên rộng lớn và con người bé nhỏ. Câu đề từ tiếp tục khẳng định về một con sông rộng lớn “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Nhưng cảm giác mang lại là sự lưu luyến, thương nhớ về một con sông trong quá khứ.

Khổ thơ trước hết không chỉ mang lại bức tranh buồn, đơn chiếc mà thiên nhiên còn gợi cảnh chia li, tách rời

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”

Với những câu thơ trước hết, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh như sóng, con thuyền, củi. Sóng đi liền với động từ “gợn” – dịch chuyển nhẹ nhõm, lăn tăn lan xa. Chỉ với một nét gợn nhẹ ấy cũng đủ làm cho nhân vật trữ tình trở nên buồn bã. Từ láy “điệp điệp” diễn tả nỗi buồn chồng chất, tiếp nối nhau. Nỗi buồn không chỉ dâng lên một lúc mà nó còn kéo dài mãi, miên man không dứt. Trên những gợn sóng ấy xuất hiện “con thuyền xuôi mái” – đơn chiếc, lạc lõng, đơn độc. Không nghe thấy tiếng mái chèo tạo nên tiếng sóng vỗ vào mạn thuyền chỉ thấy một con thuyền buông xuôi, lênh đênh mặc cho nước xuôi dòng. Câu thơ còn độc đáo trong việc khắc họa sự tách rời giữa thuyền và nước. Thiên nhiên không chỉ gợi buồn mà quang cảnh chia lìa cũng thấy rõ.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả” là câu thơ có thể hiểu nhiều cách. Thứ nhất có thể hiểu là khi thuyền về nỗi sầu của nước lại nhân lên gấp bội. Cách thứ hai chỉ rõ hơn về sự chia cắt khi thuyền và nước đi ngược chiều nhau. Lúc thuyền về lại chốn cũ cũng là lúc nước ở lại với dòng sông cùng nỗi sầu, nhưng nỗi sầu này không chỉ đi theo nước một nơi mà là nhiều chốn khác nhau. Phép đối đã được sử dụng thành công để nói về sự chia cách này. Khép lại khổ một Huy Cận mang lại một hình ảnh đậm nét đơn chiếc – “củi”. Tính chất của hình ảnh này là “khô” – héo úa, không còn sự sống cùng với phép đối giữa “một cành khô” – “mấy dòng” càng nhấn mạnh hơn sự chiếc bóng, lẻ loi của củi trên hành trình của mình. Động từ “lạc” đã nói lên được sự cập kênh, lênh đênh của sự vật nhưng tác giả sử dụng “lạc mấy dòng” thì càng làm rõ hơn sự gian truân, “bảy nổi ba chìm” của củi. Chỉ với khổ một nhưng tâm trạng mang lại đã buồn bã, u sầu tới vậy.

Tác giả khởi đầu với khổ thơ trước hết trong phạm vi hẹp. tới với khổ thơ tiếp theo, không gian bây giờ đã được mở rộng hơn.

“Lơ thơ cồn nhỏ gió hiu quạnh
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu.”

Hình ảnh “cồn nhỏ” gợi lên không gian vắng lặng, trơ trọi. Tính từ “nhỏ” làm cho hình ảnh này càng bé nhỏ, chơ vơ phối hợp với từ láy “Lơ thơ” gợi cảm giác ít ỏi diễn tả bức tranh thiếu sức sống trên cồn cát. Không gian trên cồn không chỉ buồn mà còn hiu hắt. tới gió cũng mang cái “hiu quạnh” buồn bã, thê lương như nhấn quang cảnh vào nỗi u sầu. những câu thơ mà tác giả sử dụng trong bài thỉnh thoảng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” có thể hiểu là một thắc mắc tu từ về vị trí của “tiếng làng xa”, trông ngóng về tiếng họp buổi chiều tà. Tuy nhiên “đâu” cũng là một từ mang nghĩa phủ định, tức là tới cả tiếng nói cũng những người họp chợ thi sĩ cũng không hề nghe thấy. Tất cả chỉ còn lại một không gian tĩnh lặng tới lạnh lùng.

Không gian trong khổ thơ thứ hai vừa mở rộng về chiều cao và dài nhưng đồng thời cũng mở rộng cả chiều sâu vũ trụ. Thủ pháp nghệ thuật tương phản “Nắng xuống trời lên” đã giúp không gian mở rộng theo chiều cao. Nắng chiếu xuống tới đâu thì bầu trời càng được đẩy cao tới đó. Chốt lại câu thơ tác giả sử dụng “sâu chót vót” không những gợi được cái thăm thẳm, tun hút mà còn tạo điều kiện cho vũ trụ được kéo dài ra nhấn mạnh hơn sự nhỏ bé của con người trước thiên hà. Câu thơ cuối cùng của khổ chính là bức tranh thiên nhiên rộng lớn, bát ngát với “sông dài trời rộng”. Trên nền không gian ấy xuất hiện “bến cô liêu”. Hình ảnh này không chỉ lột tả được cái nhỏ nhoi, đơn độc mà “cô liêu” còn là sự quạnh quẽ, lạnh lẽo, chơ vơ. Nghệ thuật tương phản giữa hình ảnh bé nhỏ với không gian rộng lớn càng tô đậm hơn sự u sầu, buồn bã của tác giả khi nghĩ về kiếp người trôi nổi, long đong.

“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân tình
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

“Bèo” – sinh vật phù du mang trong mình kiếp sống trôi nổi, cập kênh, đã vậy còn phối hợp với động từ “dạt” làm rõ hơn sự chìm nổi của sinh vật này. “Đâu” từ hỏi về nơi chốn của “bèo”. Hình ảnh bèo lạc lõng, đơn độc, không lợi thế không nơi bám vía. “Hàng nối hàng” như khắc họa rõ hơn về số phận của loài sinh vật này. Đọc câu thơ ta có thể liên tưởng về những kiếp người nổi trôi, không có nơi nương tựa. Và trong không gian “mênh mông” đó, tác giả ngóng chờ có thể nhìn thấy chuyến đò để cảm nhận được sự sống nhưng nhường như không có tín hiệu đáp lại sự mong chờ ấy. “Không một chuyến đò” cũng đồng nghĩa không có hoạt động của con người, điều này càng làm cho nỗi đơn chiếc dâng lên. Trong khổ thơ này, thi sĩ sử dụng nhiều từ phủ định nhằm khắc họa sự đơn chiếc trống vắng của lòng người. Tiếp sau “không đò” là “không cầu”. Chiếc cầu vốn là hình ảnh đặc trưng của miền quê, mang nét giản dị, thân tình. Nhưng vì hình ảnh này không có nên có thể thấy thiếu vắng cảm giác quê hương. Câu thơ cuối tác giả sử dụng màu xanh và vàng nhằm vẽ nên bức tranh tươi sáng hơn nhưng từ láy “lặng lẽ” đã dìm màu sắc này xuống. Hai hình ảnh “bờ xanh”, “bãi vàng” không còn được tươi tỉnh như màu sắc ban đầu của nó. Từ láy này được đưa lên đầu như sự tiếp nối của nỗi đơn chiếc từ vật này sang vật khác.

Trong ba khổ thơ đầu, tác giả chỉ trình bày về thiên nhiên thì khổ thơ cuối cùng thi sĩ đã bộc lộ nỗi niềm nhớ nước của mình

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh mỏi bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Chỉ với 4 câu thơ nhưng thi sĩ đã cho thấy sự phối hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Từ láy hoàn toàn “lớp lớp” diễn tả sự chồng chất, tiếp nối nhau. Câu thơ trước hết khắc họa những đám mây từng lớp đùn lên thành những dãy núi bạc. tới đây, ta chợt nhớ tới chữ “đùn” trong bài “Thu hứng” của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

nếu như như với Đỗ Phủ câu thơ trên là hình ảnh mây trắng sà xuống thấp tới mức tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa. Thì trong câu thơ “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” lại mang tới hình ảnh nhiều lớp mây chồng chất lên nhau giống như nỗi sầu của thi nhân đã thấm sâu vào trong cảnh vật, nó chất chứa trong tâm hồn ông giống như tầng tầng lớp lớp mây kia chất chồng thành núi bạc vậy. Câu thơ tiếp theo tác giả sử dụng thủ pháp cổ điển để nói về tình cảnh lẻ loi đơn độc của cánh chim trước “bóng chiều sa”. Hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ” không chỉ gợi sự đơn độc mà “nghiêng” còn nói tới trạng thái mất thăng bằng, không rõ nơi trú của mình là đâu, hình ảnh này càng làm vượt bậc hơn sự long đong của kiếp người trước thiên nhiên. Trong không gian buồn ấy, thi sĩ bỗng nhớ về quê hương

“Lòng quê dợn dợn vời con nước”

“Dợn dợn” là gợi lên, dấy lên, có những xúc cảm khó nói. Chỉ cần nhìn thấy “con nước” là lòng thi sĩ là nhớ về quê hương – nỗi nhớ túc trực. nếu như như ở những câu thơ trên phải có một hình ảnh, chi tiết nào về cố quốc thì thi sĩ mới bộ lộ xúc cảm của mình còn trong câu thơ cuối “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” thì không cần bất cứ sự vật nào nỗi nhớ ấy vẫn cứ ùa về. Trong thơ Đường hơn nghìn năm trước cũng từng có tác phẩm nói về nỗi nhớ quê hương

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

(Quê hương khuất núi hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)

Nhưng Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng liền nhớ về quê nhà của mình còn Huy Cận không cần thấy gì nỗi nhớ ấy vẫn dấy lên. nếu như như Thôi Hiệu đứng trên xứ người lòng khắc khoải hướng về cố quốc thì Huy Cận lại đặc biệt hơn khi chính ông đang đứng trên mảnh đất của mình nhưng lòng buồn bã, bâng khuâng khôn nguôi.

tương tự, bằng cách phối hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Đường thi và yếu tố Thơ mới, cùng với việc sử dụng những giải pháp nghệ thuật như từ láy, giải pháp tương phản,… thi sĩ Huy Cận đã giúp người đọc cảm nhận về một bức tranh thiên nhiên mênh mông. Ở đó con người có thể cảm thấy sự bé nhỏ của mình trước không gian, kiếp người ngắn ngủi trước vũ trụ. “Tràng giang” còn là tiếng lòng của một người con yêu quê hương, quốc gia sâu nặng.