TOP 17+ bài Phân tích Từ ấy chọn lọc hay nhất

Phân tích Từ ấy của Tố Hữu gồm dàn ý, sơ đồ tư duy và 17 bài văn mẫu hay nhất. Qua phân tích bài Từ ấy những bạn lớp 11 có thể hình dung được cách thức, những bước đi và hướng khắc phục vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đó nhanh chóng viết cho riêng mình một bài văn hay, đầy đủ những ý để đạt được kết quả cao trong những bài rà soát, bài thi cuối học kì 2 sắp tới.

Từ ấy là một trong những bài thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất trong sự nghiệp của Tố Hữu. Đây cũng là một trong những sáng tác thơ ca cách mệnh vẫn còn giữ nguyên những trị giá dù đã trải qua tuổi đời hơn 80 năm. Từ ấy không chỉ đơn thuần thể hiện niềm hoan hỉ vui sướng của một đội viên trẻ tuổi khi vừa bước chân vào hàng ngũ của Đảng mà hơn hết nó còn nhấn mạnh tầm tác động của Đảng và lý tưởng cách mệnh đối với nhận thức và tình cảm của con người. Vậy dưới đây là 17 bài phân tích Từ ấy hay nhất, mời những bạn cùng đón đọc.

Dàn ý phân tích Từ ấy của Tố Hữu

I. Mở bài

– Tác giả Tố Hữu (1906 – 2002)

  • Tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước tại Thừa Thiên – Huế, mảnh đất thơ mộng trữ tình, gắn bó với nhiều nét văn hóa dân gian của quốc gia.
  • Từ thời thanh niên thì ông đã sớm giác ngộ lý tưởng cách mệnh của Đảng, luôn hoạt động hăng say, luôn kiên quyết đấu tranh dù đang ở trong nhà tù thực dân.
  • Sau cách mệnh tháng 8 năm 1945 ông được giữ nhiều chức vụ trong bộ máy lãnh đạo của Đảng, về mặt trận văn hóa nghệ thuật.
  • Năm 1996 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

– Hoàn cảnh ra đời của bài thư từ ấy: Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu cho trục đường cách mệnh, trục đường thi ca của Tố Hữu, là cái mốc đánh dấu thời khắc (1937) và được kết nạp Đảng năm 1938 – Tố Hữu giác ngộ và gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu.

– Nội dung chính mà Từ ấy muốn truyền đạt: Tâm nguyện cao đẹp của người thanh niên trẻ trung nhiệt tình cách mệnh. Đó là niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.

II. Thân bài

Phân tích tác phẩm Từ ấy theo kết cấu 3 khổ thơ của bài, mỗi khổ thơ đều mang một ý nghĩa diễn tả nhất định, những em cần xác định từ ngữ quan trọng, giải pháp nghệ thuật sử dụng… để lột tả rõ từng vấn đề tác giả mong muốn.

Xem thêm: Phân tích tác phẩm thương vợ chọn lọc hay nhất

1. Khổ 1: Diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng

– Hai câu thơ đầu viết theo văn pháp tự sự: “Từ ấy trong tôi…” Từ ấy, là lúc thi sĩ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời “chân lí” cách mệnh soi sáng đường đời. Hình ảnh ẩn dụ “nắng hạ” cho nguồn nhiệt lượng cách mệnh làm bùng sáng tâm hồn thi sĩ, “mặt trời chân lí” là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca tụng ánh sáng diệu kỳ của cách mệnh. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sản – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.

– Hai câu thơ sau là một bức tranh vô cùng sinh động: chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: “vườn hoa lá”, “đậm hương” “rộn tiếng chim”.

– Đón nhận ánh sáng cách mệnh là Tố Hữu đã đón nhận một trục đường thênh thang tươi sáng cho cuộc thế, cho hồn thơ: một cuộc thế có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mệnh, yêu đồng bào.

2. Khổ 2: Biểu hiện những nhận thức về lẽ sống

– Hai dòng thơ đầu: thi sĩ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi” tư nhân với “cái ta” chung của mọi người.

– Động từ “buộc” là một ngoa dụ để thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua “ranh giới” của “cái tôi” để chan hòa mọi người “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”.

– Từ đó, tâm hồn thi sĩ vươn tới “trăm nơi” (hoán dụ) và “trang trải” sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, thật tâm và tự nguyện tới với những con người cụ thể.

– Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương con người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng. thi sĩ đặc biệt quan tâm tới quần chúng lao khổ “Để hồn tôi với bao hồn khổ” và từ đó như một biện chứng mang cái thế tất là sức mạnh tổng hợp “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm — thi sĩ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: “khi chúng ta cầm tay mọi người – quốc gia vẹn tròn, to lớn”.

Tóm lại, Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

3. Khổ 3: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn thi sĩ

– Trước khi gặp cách mệnh, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Khi ánh sáng cách mệnh như “Mặt trời chân lí chói qua tim”, đã giúp thi sĩ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn tới một tình yêu “vẹn tròn to lớn”.

– thi sĩ tự nhận mình “là con của vạn nhà” trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất; là em của “vạn kiếp phôi pha” sắp gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, xấu số, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương; là anh của “vạn đầu em nhỏ” “cù bất cù bơ”. Từ những cảm nhận ấy đã giúp thi sĩ say mê hoạt động cách mệnh với những thiết tha cao đẹp công hiến đời mình góp phần phóng thích quốc gia, phóng thích những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm lược.

III. Kết bài

  • Thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm hàm ân sâu sắc cách mệnh, hướng người đọc tới chân trời tươi sáng.
  • Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một thi sĩ vô sản chân chính, là người thanh niên trẻ trung hướng theo lý tưởng của Đảng, của cách mệnh.
  • Giọng thơ thật tâm và hình ảnh thơ tươi sáng, tiếng nói giàu tính dân tộc.

…………….

Sơ đồ tư duy Từ ấy

Phân tích Từ ấy học sinh giỏi – Mẫu 1

Tố Hữu (1920 – 2002) là một thi sĩ lớn của dân tộc, là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. cuộc thế thi sĩ và đội viên của Tố Hữu luôn song hành với nhau. Trên hành trình vừa làm đội viên vừa làm thi sĩ, Tố Hữu đã có rất nhiều cột mốc quan trọng nhưng cột mốc đáng chú ý nhất là cột mốc khi giác ngộ lý tưởng Đảng vào 1937.

Ở thời khắc này, Tố Hữu đã có một bài thơ ghi lại ấn tượng của buổi đầu ấy, bài thơ có tên “Từ ấy”. Bài thơ “Từ ấy” được in trong tập thơ cùng tên, là một trong những bài thơ đặc sắc của Tố Hữu. Bài thơ là tiếng reo vui của người thanh niên trẻ trai Tố Hữu khi được giác ngộ lý tưởng Đảng và nhận thức mới của người thanh niên ấy khi đi với cách mệnh. Tiếng reo vui của buổi đầu đi với cách mệnh được Tố Hữu thể hiện một cách rất hình ảnh và sinh động.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
………….
Không áo cơm cù bất cù bơ”.

thi sĩ Tố Hữu sinh năm 1920, thời tuổi xanh sống trong đêm trường nô lệ nhưng may mắn cho Tố Hữu là năm 1937 được giác ngộ cách mệnh, rồi 1939 được kết nạp vào Đảng. Đó là thời kỳ Tố Hữu chuyển mình từ một thanh niên học sinh sang làm một đội viên cộng sản. Tố Hữu đã ghi lại tâm trạng của thời kỳ này đó là thời kỳ thời khắc mà thi sĩ reo vui khi gặp lý tưởng Đảng.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

“Từ ấy” là thời khắc người thanh niên Tố Hữu tới với cách mệnh, được giác ngộ lý tưởng Đảng. thời khắc ấy trong tâm hồn thi sĩ có một sự nồng ấm nồng nhiệt của một nhiệt huyết cách mệnh mà thi sĩ đã cảm giác như một thứ nắng hạ chói chang.

Cảm giác ấy là vì lý tưởng Đảng, ánh sáng cách mệnh như là “mặt trời chân lý” bừng sáng “chói qua tim”. Tim là nơi tụ họp của tâm hồn, tư tưởng, tình cảm, ánh sáng chân lí chói qua tim là một sự sáng bừng sáng tỏ trong tình cảm, trong nhận thức của người thanh niên cách mệnh.

Sau khi được ánh sáng Đảng, lý tưởng cách mệnh như mặt trời chân lý rọi vào sáng tỏ thì thi sĩ cảm thấy tâm hồn mình như được hồi sinh.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Như ta đã biết trong bài thơ “Một nhành xuân” 1980, Tố Hữu đã tự thuật lại quãng đời trước khi gặp lý tưởng Đảng rằng:

Tôi đã khô như cây sậy ven đường
Đâu ước làm chim thơm và trái ngọt
Tôi đã chết lặng im như con chim không bao giờ được hót
Một tiếng ca lánh lót cho đời”.

Một tâm hồn khô héo như thế này bỗng nhiên trỗi dậy hồi sinh. thi sĩ cảm thấy trong tâm hồn mình xanh tươi như “một vườn hoa lá” có hương sắc hương thơm và cả “rộn tiếng chim”. Cũng tức là tâm hồn như được sống lại, rộn rực mê say, có đủ âm thanh màu sắc.

Thật khó có hình ảnh nào ví về sự hồi sinh tâm hồn hình ảnh hơn thế, sinh động hơn thế. Bốn câu thơ mở đầu với những hình ảnh thơ mới lạ sáng tạo, thi sĩ vừa thể hiện được cảm giác reo vui khi lý tưởng Đảng soi rọi vào tâm hồn mình, khi tâm hồn mình được hồi sinh dưới ánh sáng chân lý Đảng.

Sau khi tiếp nhận lý tưởng Đảng và hồi sinh tâm hồn, người thanh niên cộng sản Tố Hữu đã có một sự thay đổi về nhận thức, đó là phải gắn bó yêu thương những người lao khổ để xiết chặt lực lượng chống chọi, tác giả viết:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”.

nếu như như những thi sĩ lãng mạn cùng thời chưa có một nhân sinh quan sống đúng, họ sống chán nản hoặc tách biệt với nhân dân. Chẳng hạn như Xuân Diệu viết:

“Ta là một là riêng là thứ nhất
Không có ai bè bạn nổi cùng ta”.

Hay như Chế Lan Viên thì nói:

“Nhân dân ở quanh ta mà ta chẳng biết
Thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.

Thì Tố Hữu lại có một nhận thức mới mẻ đúng đắn đó là:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi”.

Buộc là một cách nói ngoa dụ nhưng nhằm nhấn mạnh sự gắn bó kết đoàn với mọi người với nhân dân. Và Tố Hữu xác định gắn bó kết đoàn chưa đủ mà phải trang trải tình cảm, chia sẽ yêu thương với trăm nơi với mọi nhà. Hai chữ “buộc” và “trang trải” tình cảm với mọi người với trăm nơi đã thể hiện cái nhận thức khá toàn diện về một quan niệm sống mới, tức là một nhân sinh quan mới.

Sau nhận thức buộc và trang trải tình cảm thi sĩ còn thể hiện một nhận thức mới cụ thể hơn, đó là buộc và trang trải tình cảm với bao hồn khổ là với những con người lao khổ, để không ngoài mục đích là cho “mạnh khối đời” cho mạnh lực lượng chống chọi. tương tự quan niệm về gắn bó và chia sẻ tình cảm của Tố Hữu có địa chỉ cụ thể và có mục đích cụ thể.

Khổ thơ thứ hai thi sĩ đã phản ánh kết quả của lý tưởng Đảng được soi chiếu vào tâm hồn thi sĩ ở khổ thơ thứ nhất. Đó là sự hình thành một nhân sinh quan mới, đó là quan niệm sống vì mọi người vì cách mệnh. Sau khi diễn tả quá trình tiếp nhận ánh sáng Đảng, sự thay đổi nhận thức cuộc sống, thi sĩ đi tới nêu lên trách nhiệm của mình đối với cuộc thế đối với cách mệnh. Trách nhiệm đó được thi sĩ thể hiện rất cụ thể:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.

Với vạn nhà thì làm con, với những kiếp phôi pha là quá khứ tổ tiên thì làm em, còn với những em nhỏ cù bất cù bơ thì làm anh. Con của mọi nhà thì phải trung hiếu với mọi nhà, em của kiếp phôi pha thì phải noi gương tiếp bước tổ tiên trong quá khứ, còn làm anh của đàn em nhỏ thì phải nâng đỡ chở che cứu rỗi cho họ.

thi sĩ nêu lên trách nhiệm của mình nhưng không phải chung chung mà rất cụ thể, rất đúng với vai trò của người thanh niên trong thời khắc thời bấy giờ. Đặc biệt ở khổ thơ này tác giả có đề cập tới hình ảnh làm anh những đàn em nhỏ cù bất cù bơ, đó cũng chính là một trách nhiệm đối với những hồn lao khổ mà tác giả đã nói ở phần thơ trên.

Bài thơ “Từ ấy” đã ghi lại một cột móc trong cuộc thế hoạt động cách mệnh của Tố Hữu. Đọc bài thơ này, người đọc cảm nhận được một Tố Hữu trong buổi đầu tới với cách mệnh đã rất nồng nhiệt tiếp nhận ánh sáng lý tưởng Đảng và có một sự thay đổi khá toàn diện về nhận thức về nhân sinh quan và toàn cầu quan.

Tuy viết về một thời khắc lịch sử, một thời khắc lịch sử hoạt động cách mệnh của mình nhưng Tố Hữu không diễn đạt một cách khô khan mang tính khẩu hiệu, mà trái lại được diễn đạt một cách sinh động qua những hình ảnh rất gợi hình gợi cảm. vì vậy một bài thơ cách mệnh những vẫn xanh tươi trong lòng người đọc.

Từ ấy phân tích – Mẫu 2

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, ông sinh và và lớn lên tại Thừa Thiên Huế, là một trong những thi sĩ tiêu biểu cho phong trào thơ cách mệnh Việt Nam. Nhắc tới thơ Tố Hữu là nhắc tới những vần thơ mang đậm tính trữ tình cách mạnh, thể hiện khát khao, ý chí của những người cách mệnh nặng lòng với quốc gia. Những tâm sự của ông qua từng vần thơ đều mang tầm vóc thời đại, của một cái tôi cộng đồng. Có thể nói, Tố Hữu chính là lá cờ đầu của thơ ca kháng chiến với hàng loạt những tập thơ tiêu biểu như Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận hay Máu và hoa. Bài thư từ ấy được trích trong tập thơ cùng tên là một bông hoa đẹp trong vườn thơ đầy hương sắc của ông.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Mở đầu bài thơ là lời thơ mang đậm chất tự sự, thi sĩ nhắc lại một sự kiện trọng đại trong đời mình. Trạng ngữ “Từ ấy” đặt đầu câu đã nhấn mạnh thời khắc đầy ý nghĩa khi tác giả bước vào hàng ngũ Đảng, được giác ngộ lý tưởng Đảng Cộng sản. Hình ảnh “nắng hạ” phối hợp với động từ mạnh “bừng” cùng nghệ thuật ẩn dụ đã khẳng định lý tưởng cách mệnh tác động vô cùng mạnh mẽ tới tâm hồn thi sĩ. Nguồn sáng ấy không phải là nắng vàng rét mướt của mùa thu hay nắng xuân mơn man nhè nhẹ mà đó là nặng hạ mang vẻ rực rỡ, chói chang làm bừng tỉnh cả nhận thức và tình cảm trong con người chàng trai tuổi 18 tràn trề sức trẻ. Đó là nguồn sáng được phát khởi từ ánh mặt trời khác thường, đặc biệt và duy nhất “mặt trời chân lý”. nếu như mặt trời tạo hóa tặng thưởng ánh sáng làm vạn vật sinh sôi thì mặt trời chân lý mang tới những tư tưởng, trục đường đúng đắn cho cách mệnh, báo hiệu những điều đẹp đẽ, tươi sáng cho sự nghiệp phóng thích dân tộc phía trước.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng”

Mặt trời chân lý rọi sáng trái tim người đội viên khiến tâm hồn như rộn rực, như say mê. Hình ảnh so sánh thật sắp gũi hồn tôi-vườn hoa lá càng tô đậm sức sống mãnh liệt, niềm vui tột cùng của thi sĩ lúc ấy. Vườn hoa lá với một toàn cầu đủ hương sắc, thanh âm như hòa nhập, sôi động và dạt dào sức sống cũng như tâm hồn thi nhân lúc này đây đang vỡ òa với bao xúc cảm tự hào, tin yêu, hy vọng, vui sướng khi được lý tưởng Đảng sáng soi. Đó là một niềm vui quá đỗi lớn lao đối với một kẻ yêu nước, khát khao tận hiến đời mình cho cách mệnh, cho nhân dân.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải tới muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời

Trong văn học giai đoạn 1932-1945, thơ ca chủ yếu đề cao cái tôi tư nhân, họ lựa chọn một cái tôi thoát ly để rời xa thực tiễn bất công, chán ngán. Riêng với Tố Hữu đó là một cái tôi riêng, cái tôi gắn với cộng động, gắn cuộc thế mình, với nhân dân. Câu thơ đầy chủ động “Tôi buộc lòng tôi với mọi người” đã thể hiện được một trái tim giàu tình cảm, vì nhân dân và ý thức tự nguyện gắn bó với nhân dân của tác giả. Động từ “trang trải” phối hợp với danh từ “muôn nơi” cùng lối nói quá đã cho thấy được sự đồng cảm của thi sĩ với những nỗi khổ cực, lầm than của nhân dân mình trên mọi miền quốc gia.

“Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Lời thơ vừa tha thiết lại vừa mạnh mẽ, khẳng định khối đại kết đoàn toàn dân tộc được kết lại từ lòng nhân ái, ý thức vì mọi người. Những hồn khổ được gắn kết, những người cùng lý tưởng phải hợp sức để tạo nên sức mạnh tập thể, tiến bước trên trục đường có lý tưởng cách mệnh sáng soi.

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”

Bốn câu thơ cuối bài một lần nữa khẳng định tình cảm dạt dào của người đội viên với nhân dân mình. Điệp từ “là” phối hợp cùng giải pháp điệp cấu trúc và những từ cùng trường từ vựng gia đình “con”, “anh”, “em” đã nhấn mạnh được tình cảm thân thiết như tình thân ruột thịt. Đó là một tình cảm rét mướt, sẻ chia, quan tâm, lo lắng của thành viên dành cho đại gia đình lớn đang trong cơn khốn cùng, gian khổ. Đó là một tấm lòng đồng cảm, vượt lên những ích kỷ, hẹp hòi của cái tôi tư nhân để sống vì người khác. Thật xúc động khi thi sĩ đã dành những câu thơ cuối bài để viết về những “kiếp phôi pha” xấu số, mưu sinh dãi dầu mưa năng để kiếm sống, viết về những em nhỏ “cù bơ cù bất” đói rét trong cuộc thế. Qua những hình ảnh ấy phải chăng tác giả muốn khẳng định tới cuối cùng, lý tưởng cao đẹp nhất của Đảng cộng sản chính là chiến đầu vì nhân dân, vì hạnh phúc của những kiếp người, đặc biệt là với những phận đời nghèo khổ, thương đau.

Bằng thể thơ bảy chữ, phối hợp với giọng điệu vừa tự hào vừa tha thiết, sục sôi, tác giả đã cho thấy tâm nguyện của một thanh niên yêu nước được giác ngộ và say mê, tin yêu vào lý tưởng cách mệnh. “Từ ấy” đã trở thành một bài thơ bất hủ, nhắc nhở mỗi chúng ta về ý thức và trách nhiệm với cuộc thế mình, với quốc gia, nhân dân.

Phân tích Từ ấy ngắn gọn – Mẫu 3

Tố Hữu là ngọn cờ đầu của phong trào thơ cách mệnh Việt Nam với những tác phẩm tự sự nhưng dạt dào tình cảm. “Từ ấy” là bài thơ rút trong tập thơ cùng tên sáng tác năm 1938, đánh dấu sự trưởng thành của người thanh niên cách mệnh. Bài thơ chính là tiếng reo vui của tác giả khi được đứng trong hàng ngũ đảng cộng sản Việt Nam.

“Từ ấy” là một từ chỉ thời gian đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa lớn trong cuộc thế của người thanh niên cách mệnh, đánh dấu sự trưởng thành, lớn lên về tâm hồn cũng như lý tưởng cách mệnh. Giây phút ấy khiến cho tác giả nghẹn ngào, nhường nhịn như không nói được nên lời, chỉ có thể dồn trong hai từ “từ ấy”.

Từ ấy chính là xúc cảm chủ đạo của bài thơ, là tiếng lòng reo vui, rộn ràng, tràn ngập tin yêu của một người thanh niên khi được đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng. Sau thời gian xác định “từ ấy” chắc chắn người thanh niên đó sẽ có những chuyển biến mạnh mẽ trong cuộc thế cũng như trong trục đường hoạt động cách mệnh của mình.

Tác giả đã mở đầu bằng một lời thơ rộn ràng, tràn ngập tin yêu:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim

Tác giả vui mừng không nói nên lời, chỉ biết ngập ngừng “từ ấy”, và sau thời gian “từ ấy” đó chính là những bước ngoặt cũng như sự giác ngộ lý tưởng lớn. Một loạt hình ảnh ẩn dụ “bừng nắng hạ”, “mặt trời chân lý” đều mang trong mình ý nghĩa biểu tượng cho những gì tươi sáng, tốt đẹp, rạng ngời nhất.

Từ “bừng” ở câu thơ trước tiên như làm sáng lên cả bài thơ, từ bừng mang ý tức là thức tỉnh, một sự thức tỉnh có quá trình. Nắng hạ là thứ nắng chói chang, nắng đẹp, tràn ngập niềm vui và sức sống. Tác ví thử bước ra, thoát khỏi chốn tăm tối, bế tắc, không lối thoát của cuộc thế để tới với ánh sáng của cách mệnh và niềm tin. Giây phút được bước vào hàng ngũ của đảng như là “chân lý”, điều đáng trân trọng một đời. Sự chuyển biến rõ nhất diễn ra trong tâm hồn người đội viên cách mệnh

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Sự thức tỉnh và giác ngộ cách mệnh khiến tâm hồn của người đội viên trẻ như một vườn hoa tràn ngập tiếng chim và rực rỡ sắc hoa. Phép so sánh ấy thực sự rất tài tình và đầy ý nghĩa. Một tâm hồn thực sự sinh động, tràn đầy sức sống, tác giả đã biến cuộc thế mình tràn ngập niềm tin và tự hào. Chỉ với khổ thơ đầu này nhưng nhường nhịn như cả bài thơ đã được vẽ lên bằng một gam màu tươi sáng và đẹp đẽ nhất.

Sự giác ngộ trong lý tưởng cách mệnh đó đã hình thành nên tư tưởng lớn trong tâm hồn:

Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm vạn khối đời

Một khổ thơ vừa bộc lộ rõ nét cái tôi tư nhân vừa bộc lộ cái ta rộng lớn, mông mênh nhất. Từ “buộc” ở câu thơ trước tiên gợi lên cảm giác gắn bó đối với người đội viên cách mệnh với mọi người. Từ “buộc” chính là sợi dây, là trục đường, là lẽ sống mà người đội viên đã lựa lựa chọn và theo đuổi tới cùng. Với một tấm lòng kiên trung, tình yêu thương rộng lớn, người đội viên muốn mang tới sự bình an, no đủ nhất cho nhân dân, để có thể cùng nhân dân gánh bớt nỗi khổ, cực nhọc.

Từ chân lý muốn được bao bọc, chở che, gắn bó với mọi nhà, ở khổ thơ cuối chính là lời khẳng định vị thế của mình:

Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ

Khổ thơ mang ý nghĩa liệt kê nhưng nó vẫn toát lên được tình cảm, sự tin yêu và gắn bó của người chiến sỹ đối với toàn thể nhân dân. Từ “là” được lặp đi lặp lại nhằm nhấn mạnh mối quan hệ hiển nhiên giữa mình với nhân dân, gắn bó với họ, cùng san sẻ, cùng gánh vác khổ đau, đương đầu với sóng gió, quyết không để lùi bước. ý thức ấy của tác giả thực sự đáng ngưỡng mộ và khâm phục. Tác giả coi mình cũng như một người vô danh “cù bất cù bơ” nhưng có ý thức kết đoàn và kiên trung

Quả vậy, “Từ ấy” là bài thơ ý nghĩa đánh dấu sự trưởng thành của một con người và của một chặng đường cách mệnh gieo neo. Tiếng reo vui của tác ví thử hòa chung vào với niềm vui chung của nhân dân.

Phân tích Từ ấy – Mẫu 4

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Ông hoạt động cách mệnh rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản.

Đây là thời khắc có ý nghĩa quyết định cả cuộc thế cách mệnh và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mệnh. Bài thơ là tiếng reo vui của người đội viên say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc thế, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là ý kiến, là nhận thức sâu sắc của thi sĩ về mối quan hệ mật thiết giữa tư nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại lao động dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.

Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mệnh:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim

Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, xoá sổ bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có nhẽ là lúc thi sĩ đã giác ngộ cách mệnh và tự nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp lao động để đấu tranh tự phóng thích. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc thế làm cách mệnh của thi sĩ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc thế.

Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, đau buồn trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của thi sĩ khi bắt gặp lí tưởng cách mệnh cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ.

Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, tức là thi sĩ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của thi sĩ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mệnh đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.

thi sĩ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại cho thi sĩ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một toàn cầu đầy hương sắc, âm thanh:

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. thi sĩ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc thế bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy sức sống của một vườn hoa lá tươi tốt tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca.

Lí tưởng cộng sản – mặt trời chân lí – không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền sức sống vào trái tim người trẻ trai. Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chính lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn.

Tố Hữu còn là một thi sĩ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. cách mệnh không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mệnh đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.

Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả xúc cảm mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim… vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng liêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mệnh, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.

nếu như ở khổ thơ trước với giải pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng tiếng nói giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhõm, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng thật tâm của thi sĩ; là tâm niệm của “cái tôi trữ tình cách mệnh”.

Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của thi sĩ đối với giai cấp lao động. thi sĩ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi tư nhân”. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi tư nhân” và “cái ta tập thể”. Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của “cái tôi tư nhân” để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn thi sĩ trải rộng ra với cuộc thế, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, thi sĩ đặc biệt quan tâm tới quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung hoàn cảnh trong cuộc thế, kết đoàn chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung.

Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi tư nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đó, thi sĩ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.

Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. thi sĩ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.

Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp thi sĩ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, thi sĩ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mệnh. Người đội viên ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.

Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là… lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một đội viên khi đã đứng trong hàng ngũ cách mệnh. Điệp từ là cùng với những từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết.

Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người khổ cực, xấu số, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của thi sĩ biểu hiện thật thật tâm, xúc động.

từ đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của thi sĩ trước những bất công, ngang trái của cuộc thế cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mệnh và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của thi sĩ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão tôi đòi, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm…)

Bài thư từ ấy tiêu biểu cho văn pháp lãng mạn cách mệnh trong giai đoạn sáng tác trước tiên của Tố Hữu. “Cái tôi trữ tình” lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, thật tâm những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng.

Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên khởi đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào trục đường cách mệnh đầy gai góc, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mệnh. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.

Phân tích Từ ấy – Mẫu 5

Bài thơ “Từ Ấy” nằm trong tập thơ cùng tên, được Tố Hữu sáng tác vào năm 1938, đã đánh dấu sự trưởng thành trong lí tưởng của người thanh niên cách mệnh. Bài thơ là tiếng reo vui sướng, hạnh phúc của một người trẻ vẫn đang trên trục đường kiếm tìm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của lí tưởng, của Đảng, của cách mệnh.

“Từ ấy” là một từ để chỉ thời gian, là mốc son đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc thế và trong cả tâm hồn của thi sĩ. Giây phút ấy khiến thi sĩ vui mừng tới nỗi không thể khái niệm chuẩn xác được, chỉ biết là “từ ấy”.

“ Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”

Một loạt những hình ảnh ẩn dụ “ bừng nắng hạ”, “ mặt trời chân lí”, “chói qua tim” được thi sĩ sử dụng tài tình. Người thanh niên vẫn đang loay hoay trong bóng tối của mùa đông mù mịt, chưa tìm thấy lối đi, chưa tìm thấy lí tưởng thì mặt trời bỗng bừng lên xua tan bóng tối, soi đường chỉ lối cho anh.

“Bừng nắng hạ” – đó là ánh nắng mùa hè chói chang, mạnh mẽ và rực rỡ, đủ để soi rọi sau những ngày tăm tối. Đó là ánh sáng tới từ “trong tôi”, từ trái tim người đội viên trẻ. Sự xuất hiện của lí tưởng Đảng, của cách mệnh đã soi sáng cho tâm hồn thi sĩ, như soi rọi cả những góc khuất nhất trong con người, khiến cho cả con người người đội viên trẻ bừng tỉnh ngộ sau những đêm dài tối tăm.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Tố Hữu đã ví “hồn tôi” với “vườn hoa lá”. Với cách so sánh độc đáo này, thi sĩ đã khiến một thứ vô hình trở nên hữu hình, sinh động trước mắt người đọc. Tâm hồn người đội viên trẻ, được ví như một vườn hoa lá, được tắm ánh mặt trời rét mướt và đang sinh sôi nảy nở rất tươi tốt, đầy những thứ hoa thơm quả ngọt, rất “đậm hương”, thu hút bao nhiêu chim chóc về đây, rộn ràng ca hót.

Đây có thể coi là một khổ thơ hay nhất, sinh động nhất trong bài thơ, khiến cho người đọc cũng có thể cảm nhận được sự phấn khởi, say sưa, rộn rực và tràn đầy nhiệt huyết của thi sĩ khi tìm được lí tưởng của mình. Từ giác ngộ lí tưởng, người đội viên trẻ tuổi tiếp tục lựa chọn cho mình một lẽ sống mới:

“ Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

thi sĩ tự nguyện “buộc” lòng mình với mọi người, tự nguyện gắn mình với những người dân lao động, với tất cả đồng bào Việt Nam. Ông tự nhận mình cũng là một người đứng trong hàng ngũ những người dân lao động, cùng ăn, cùng ngủ, cùng chia sẻ đắng cay ngọt bùi với nhau, để trở thành một gia đình lớn.

Tình cảm trang trải khắp nơi, họ yêu thương nhau, đùm bọc lẫn nhau. những người cùng khổ, họ dễ thông cảm, chia sẻ với nhau hơn. Từ “khối đời” là một từ rất trừu tượng, nhưng đã khái quát được lòng mong ước xây dựng một tập thể quần chúng vững chắc, sắp gũi, thân thiết như ruột thịt để tạo nên một sức mạnh không gì sánh nổi. Bốn câu thơ tiếp theo là sự khẳng định của thi sĩ về vai trò, vị trí của mình:

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Tố Hữu hòa mình với nhân dân, đã tự nguyện trở thành con, thành em, thành anh của bao quần chúng lao động cực khổ, những con người với kiếp sống “phôi pha”, sống ngày hôm nay chưa biết tới ngày mai, những kiếp sống mòn mỏi đáng thương, những đứa trẻ tội nghiệp nghèo khổ đói rách.

Từ “là” được thi sĩ sử dụng lặp đi lặp lại, như khẳng định một cách chắc chắn mối quan hệ giữa mình và nhân dân lao động, cũng như một lời khẳng định vai trò của mình đối với người dân, với cộng đồng và xã hội. “Cù bất cù bơ” – một tính từ vô cùng mới mẻ, như những lời nói thường nhật của những người lao động nói chuyện với nhau.

Cuộc sống trơ trẽn, tác giả nói mình, nhưng cũng là nói chung những người dân quanh mình, những người anh em của mình, đồng thời giãi tỏ lòng xót thương của thi sĩ trước tình cảnh bất công, trái ngang của cuộc thế.

“Từ ấy” là tiếng reo vui không chỉ của thi sĩ, mà còn là của cả một thế hệ thanh niên khi tìm thấy lí tưởng của Đảng, nguyện chống chọi hết mình vì lí tưởng, vì nhân dân, vì quốc gia. Họ là những người đội viên trẻ, mang trong mình nhiệt huyết, mang trong mình lí tưởng, và lòng yêu thương đồng bào, yêu thương quốc gia.

Có thể nói, thơ của Tố Hữu là thơ của nhân dân, những lí tưởng cao đẹp được diễn tả bằng những từ ngữ lãng mạn nhưng cũng vô cùng giản dị, sắp gũi, là đại diện cho một lớp thi sĩ mới.

Phân tích bài thư từ ấy – Mẫu 6

Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 quê ở Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế. thi sĩ khi còn là chàng trai thanh niên 16 tuổi đã tham gia hoạt động cách mệnh, sau hai năm hoạt động sôi nổi và tích cực thi sĩ đã được đứng trong hàng ngũ Đảng viên Đảng Cộng Sản. Khi thi sĩ được đứng trong hàng ngũ danh dự của Đảng đây cũng chính là bước ngoặt lớn dẫn tới nhiều sự thay đổi trong sự nghiệp thi ca cũng như là lý tưởng của ông. Bài thư từ ấy chính là một bài thơ xuất sắc nhất trong tập thơ Máu lửa. Bài thơ chính là những xúc cảm chân thật là tiếng lòng sự hoan hỉ của người thanh niên trẻ được giác ngộ lý tưởng cách mệnh.

Khổ thơ trước tiên chính là xúc cảm vui sướng và thiêng liêng khi thi sĩ được kết nạp vào Đảng và được giác ngộ lý tưởng chân lý cách mệnh:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim’’

Mục tiêu lý tưởng cao đẹp đó chính là phải đánh đuổi được thực dân Pháp đô hộ trên nước ta phải phóng thích được xiềng xích ách thống trị của chúng đối với nhân dân ta. Khi được giác ngộ mục tiêu này tác giả đã cảm thấy mình có những hoài bão và ước mơ lớn lao trong cuộc thế mình mà như hát lên:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”

Khi đọc xong câu thơ ta cứ liên tưởng được rằng trước kia thi sĩ đâu được nhìn thấy những ánh sáng lý tưởng cao đẹp đó mà chỉ khi tác giả được trở thành Đảng viên rồi thì mới có được những chân lý sống tuyệt vời. Động từ “bừng’’ chính là động từ thể hiện sức mạnh sức bật vươn lên của một sự vật. Mà ở đây sự vật đó được gắn tên chính là nắng hạ. Nắng hạ chính là thứ ánh nắng goi gắt nhưng cũng thứ ánh sáng chói chang nhất trong tất cả những mùa. Vì vậy đó chính là sự vượt trội khi tác giả trình bày câu thơ. Kể từ trước đó tác giả chưa hề được giác ngộ những điều kỳ diệu tương tự chỉ có khi được vào hàng ngũ của Đảng mà thôi.

“Mặt trời chân lý chói qua tim’’ chính là hình ảnh ấn dụ một cách tuyệt vời cho cách mệnh Cộng Sản Việt Nam. thi sĩ ví mặt trời cũng giống như Đảng vậy phải có ánh sáng mặt trời soi chiếu vạn vật thì mới có thể có sự sống thì Đảng cũng tương tự Đảng được sinh ra là vì lợi ích và phục vụ cho nhân dân. Chân lý của Đảng đã soi rọi tới tận tâm sự trái tim của người chiến sỹ yêu nước. Vì vậy mà tâm hồn Tố Hữu đã trở nên xinh đẹp và vui tươi hơn khi nổi tiếng chim và có cả mùi hương nữa:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim’’

Đây chính là lời reo vui sướng sự líu lo của một người đội viên yêu đời hơn bao giờ hết tâm hồn của ông như một vườn hoa lá xinh đẹp, trẻ trung với tiếng chim và nhiều sắc màu với mùi hương thơm mặn mà.

Khổ thơ thứ hai chính là thể hiện được chân lý cao cả muốn gánh vác và cùng san sẻ với những người cùng khổ:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm vạn khối đời’’

Đó như một ước nguyện dù không cùng giai cấp nhưng thi sĩ luôn sẵn lòng chịu những trở ngại gian khổ cùng với mọi tầng cấp từ nhân dân cho tới giai cấp người lao động. Tấm lòng của ông đã được “trải’’ đi khắp muôn nơi để cùng gắn kết với mọi người. Tâm hồn tác giả cũng không còn tính tư nhân nữa mà nay đã được gắn cùng với tâm hồn của mọi người bởi vì mọi người cùng chung ý chí và lý tưởng để xoá sổ kẻ địch và bảo vệ cho quốc gia.

Khổ thơ thứ ba cũng chính là sự thể hiện trách nhiệm của người đội viên khi được đứng trong lực lượng cách mệnh Cộng Sản:

“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ’’

Tố Hữu vừa là người anh của những em nhỏ cũng chính là những người em của những kiếp phôi pha cũng là con của vạn nhà là con của những người dân Việt Nam. Lặp từ là chính là sự nhấn mạnh mối quan hệ này kiên trung không thay đổi. Dù có phải chịu cảnh thiếu thốn cơm áo không nhà không cửa đi chăng nữa thì tác giả vẫn nguyện cam chịu vì lý tưởng cao đẹp của cách mệnh chính là phải cứu quốc phải đánh đuổi thực dân để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Bài thơ cũng chính là sự thể hiện của cả đại khối kết đoàn dân tộc cùng chung tay bảo vệ và hy sinh cho nhau để thực hiện mục tiêu cao đẹp đó.

Bài thư từ ấy được viết lên khi tác giả được giác ngộ lý tưởng cách mệnh đó cũng chính là lời tuyên bố cũng là sự vui sướng khi ông được đứng trong lực lượng cách mệnh. Giờ đây ông đã có được hoài bão cho riêng mình để có thể thực hiện đó là kết đoàn toàn dân đánh đuổi thực dân bảo vệ nền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Phân tích bài thư từ ấy – Mẫu 7

Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào xúc cảm, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

“Dù ai thay ngựa giữa dòng
Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi
Vẫn là ta đó những khi
Đầu voi ra trận cứu nguy nòi”

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mệnh, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những trị giá tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, mặn mà qua những tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…

Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lênin trong ngày hội lớn của cách mệnh:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là một thời khắc lịch sử đã trực tiếp tác động tới cuộc thế thi sĩ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mệnh. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vẫn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, đau buồn, quét sạch mây mù và đen tối hướng tới cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc no đủ.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng
Ta đi tới chỉ một đường cách mệnh”

Và đó mới là thực chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mệnh , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mệnh cao đẹp.Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi phối hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi hợp lí tưởng cách mệnh, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

Lý tưởng cách mệnh đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc thế. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng cách mệnh đem lại:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rộn rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngạt ngào hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thực và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

Phân tích bài thư từ ấy – Mẫu 8

Tố Hữu là thi sĩ lớn trong thời đại chúng ta. Với ông, trục đường cách mệnh cũng là trục đường thơ. Năm 1938, mới 18 tuổi, thi sĩ được vinh dự trở thành người đội viên cộng sản của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” vang lên như một tiếng reo vui thể hiện niềm vui sướng tự hào của một thanh niên học sinh yêu nước bắt gặp ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn ca tụng lí tưởng cách mệnh và mang tên tình yêu giai cấp của người đội viên trẻ.

Khổ thơ mở đầu chứa lên như một lời hát say mê, nồng nàn, vần thơ tràn ngập ánh sáng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

“Từ ấy”, là từ thuở ấy (9-1938), thi sĩ vui sướng, hoan hỉ chào đón “Mặt trời chân lí chói qua tim”. Giữa những năm tháng nô lệ, lầm than, tủi nhục, người đội viên trẻ cảm thấy được hồi sinh “bừng nắng hạ”. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ rất sáng tạo nói về ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin. Lí tưởng cách mệnh, lí tưởng cộng sản chủ nghĩa soi sáng nhận thức, mở rộng tâm hồn trí tuệ, làm cho cuộc thế đầy sắc màu ý nghĩa. Lòng “tôi” và trục đường cách mệnh “bừng nắng hạ” chói chang, rét mướt. Trái tim “tôi” có “Mặt trời chân lí chói qua…”. Ánh sáng chủ nghĩa Mác – Lênin soi rọi vào tâm hồn. Dưới ánh sáng lí tưởng, tâm hồn “ đẹp biết bao, dào dạt sức sống như một vườn xuân rực rỡ trong muôn sắc màu “hoa lá”, ngạt ngào “đậm hương” và “rộn tiếng chim” hót ca. Ngoài nghệ thuật sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, so sánh, Tố Hữu đã lựa chọn lọc một số từ có trị giá gợi tả và biểu cảm đặc sắc (bừng, chói, đậm, rộn) để ca tụng lí tưởng và tình yêu lí tưởng. tới với chủ nghĩa Mác – Lênin, thi sĩ xứ Huế có rất nhiều vần thơ độc đáo, mặn mà:

“Khi ta đã say mùi hương chân lí
Đời đắng cay không một tí ngọt bùi
Đời đau buồn không một tiếng cười vui
Đời đen tối phải đi tìm ánh sáng”

(“Như những con tàu” – 1938)

Có thể nói, Tố Hữu là thi sĩ viết hay nhất về lí tưởng cách mệnh bằng văn pháp lãng mạn tuyệt đẹp. Ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin thật vô cùng kì diệu. “Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng” ( Aragông – Pháp). Yêu nước mà bắt gặp chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản đã giác ngộ tinh yêu giai cấp. Khổ thơ thứ hai nói lên sự gắn bó với mọi người”, “với trăm nơi “với bao hồn khổ” với giai cấp” và nhân dân lao động nghèo khổ đang bị đế quốc, phong kiến bóc lột, áp bức man di. những từ ngữ: “buộc”, “trang trải”, “sắp gũi” – biểu lộ sự gắn bó thiết tha với toàn cầu lao động, với “khối đời” – khối công nông liên minh:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”.

Người đội viên trẻ, người thanh niên cộng sản trên trục đường cách mệnh quyết tâm chống chọi và hi sinh để thực hiện lí tưởng cao cả, đã nhận thức một cách sâu sắc về tình yêu giai cấp: “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”.

Hơn bao giờ hết, cái tôi đã chan hòa trong cái ta rộng lớn. Thân thiết và yêu thương, tự giác và tự nguyện, đông đảo và rộng lớn: “là con của vạn nhà”, “là em của vạn kiếp phôi pha”, “là anh của vạn đầu em nhỏ… những từ: “là”, những số từ “vạn” được điệp lại ba lần làm cho lời ước nguyện thiết tha thật tâm, thấm thía xúc động:

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.

thi sĩ đã có một cách nói rất truyền cảm về tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Trái tim nhân ái cộng sản chủ nghĩa sáng bừng lên dưới “mặt trời chân lí”, dưới ánh sáng của niềm tin, ánh sáng của cách mệnh.

Tố Hữu đã sáng tạo nên những vần thơ giàu hình tượng và nhạc điệu để ca tụng lí tưởng cách mệnh và tình yêu giai cấp, tình yêu nhân dân. Tình cảm cao đẹp ấy được thể hiện một cách thật tâm và say mê. “Từ ấy” là tiếng lòng của một hồn thơ đẹp, trẻ trung đã trở thành tiếng hát của hàng triệu con người hướng về Đảng và cách mệnh. Đọc “Từ ấy” ta càng cảm thấy một cách sâu sắc lời tâm sự của Tố Hữu: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng

Phân tích bài Từ ấy – Mẫu 9

Bài thơ “Từ ấy” – Tố Hữu được viết năm 1938, bài thơ là tiếng lòng của một người cách mệnh trên trục đường đi tìm lẽ sống thì gặp được ánh sáng của Đảng, của bác bỏ. Bài thơ còn thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc dâng trào và sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của chính tác giả.

Bài thơ được viết trong khoảng thời gian (1937 – 1946), đây là thời gian đầu Tố Hữu tham gia cách mệnh, trở thành một người đội viên. “Từ ấy” là bài thơ được viết trong giai đoạn này, cũng là bài thơ đánh dấu sự trưởng thành trong tâm hồn tác giả.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim

“Từ ấy” chỉ một mốc thời gian, mốc son đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc thế Tố Hữu khi bắt gặp được lý tưởng sống cho chính cuộc thế mình. Đó còn là tiếng reo hò sung sướng tột bậc, niềm hạnh phúc ngập tràn khi trở thành một người cách mệnh, được ánh sáng của Đảng và bác bỏ dẫn đường. thi sĩ đã trình bày nó như “nắng hạ”, như ánh sáng sáng rực rỡ, chói chang của mùa hè, soi tỏa vào trong chính trái tim đang sục sôi tuổi xanh của thi sĩ. Ánh sáng đó được ẩn dụ như hình ảnh “mặt trời”. nếu như như mặt trời thật đem lại ánh sáng rét mướt cho vạn vật, là nguồn sống cho muôn loài, thì “mặt trời chân lý”, mặt trời của Đảng xuất hiện đã xua tan màn sương mù tối tăm, đem lại một lẽ sống mới không chỉ cho chính tác giả, còn cho cả dân tộc Việt Nam, đang chìm đắm trong đói khổ với tư tưởng tiểu tư sản. Tố Hữu đã sử dụng những động từ mạnh như “bừng, chói” để diễn tả một cách mạnh mẽ tác động to lớn cho ánh sáng của Đảng khiến cho người cách mệnh như bừng tỉnh sau những ngày tăm tối.

Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Sự chuyển biến sâu sắc đó, như một sức mạnh kỳ diệu, nó được bắt nguồn từ chính con người tác giả khi được Đảng soi đường, chỉ lối. Khiến cho tâm hồn của người đội viên trẻ như rộn ràng, tràn đầy sức sống. thi sĩ đã so sánh nó như “một vườn hoa lá” với đủ sắc hương của đất trời, cả sự sống đang sinh sôi, nảy nở, nhảy múa hát ca, rộn ràng tiếng chim hót. nhường nhịn như sau những ngày tăm tối, không được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, không được nhìn thấy tương lai, cùng với khi huyết của tuổi xanh mong muốn được thay đổi, được cống hiến cho quốc gia đánh đuổi giặc ngoại xâm thì giờ đây khi có “mặt trời chân lý” của Đảng dẫn dắt làm cho tâm hồn thi sĩ trẻ lại, sục sôi ý chí đấu tranh, khơi dậy sức sống và cảm hứng sáng tạo mới cho tác giả

Ở khổ thơ thứ hai, từ sau khi gặp được chân lý của cuộc thế mình thi sĩ đã có những sự thay đổi đặc biệt trong nhận thức, trong trục đường làm cách mệnh của mình

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời

Trước khi được trở thành một nhà cách mệnh, được giác ngộ lý tưởng mới thì Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Với tư tưởng tiểu nông hạn hẹp thì giờ đây thi sĩ đã có cách nhìn nhận mới trong suy nghĩ. thi sĩ đã bỏ qua sự hẹp hòi của tư tưởng cũ, vượt qua những rào cản khái niệm của giai cấp để thấu hiểu quần chúng khổ lao. Đây là không phải là sự ép buộc mà thi sĩ đã tự nguyện “buộc”, tự nguyện gắn mình với “mọi người”, với những tầng lớp bần cùng của xã hội. Đem trái tim mình hòa cùng nhịp đập, cùng đau tiếng đau của đồng bào, cùng chia sẻ những mất mát, đắng cay ngọt bùi mà nhân ta đang chịu đựng. thi sĩ mong muốn gây dựng những con người đang chịu cảnh nô lệ trở thành “khối đời” một khối thống nhất, như anh em ruột thịt, tạo nên một sức mạnh tập thể, không gì có thể đàn áp được

Bốn câu thơ cuối thể hiện rõ tấm lòng, sự đồng cảm của chính thi sĩ, lời khẳng định trong trục đường làm cách mệnh

Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ

thi sĩ đã sử dụng điệp từ, cùng với những “con, em, anh”, như một sự khẳng định chắc chắn sự gắn bó giữa mình với nhân dân lao động. thi sĩ như một thành viên trọng gia đình của mọi tầng lớp trong xã hội. Tố Hữu hòa mình cùng với nhân dân. thi sĩ tự nguyện làm “con của vạn nhà, em của vạn kiếp phôi pha, anh của vạn đầu em nhỏ”, nguyện mang cả cuộc thế mình để đem lại hạnh phúc cho những mảnh đời xấu số, những kiếp sống mòn mỏi trong vô vọng, những đứa bé tội nghiệp. từ đó, ta còn cảm nhận được sự căm ghét sâu sắc trong lòng tác giả đối với những cảnh bất công trong xã hội, chính những mảnh đời đáng thương đó mà thi sĩ đi theo cách mệnh, đi theo tiếng gọi của tổ quốc, hăng say chống chọi, hăng say sáng tác

Bài thơ là tiếng lòng, tiếng reo mừng sung sướng của không chỉ tác giả mà đại diện cho thế hệ trẻ của quốc gia lúc bấy giờ khi tìm thấy lý tưởng của Đảng. Là sự nhận thức mới, cách nghĩ mới, đem tuổi xanh cống hiến cho đời và cho tổ quốc.

Phân tích bài Từ ấy – Mẫu 10

thi sĩ Tố Hữu được coi là cánh chim đầu đàn của nền thơ ca cách mệnh Việt Nam. Thơ của ông mang đậm chất trữ tình chính trị, nhường nhịn như cả cuộc thế thơ Tố Hữu dành để ngợi ca quốc gia, ngợi ca nhân dân, ngợi ca lí tưởng cách mệnh thể hiện một cái tôi say mê với lý tưởng, một cái tôi công dân đầy trách nhiệm đối với nhân dân, đối với quốc gia. Nhắc tới ông, ta không thể không nhắc tới những tập thơ nổi tiếng như: “Từ ấy”, “Việt Bắc”, “Gió lộng”, “Ra trận”, “Máu và hoa”… trong đó tập thơ đầu tay “Từ ấy” là tập thơ mang một sắc thái riêng, tiêu biểu cho phong cách thơ của Tố Hữu, thể hiện niềm vui và mối duyên đầu của người thanh niên trẻ khi tới với cách mệnh. Tác phẩm là cột mốc quan trọng mở đầu cho chặng đường đời, chặng đường thơ của Tố Hữu.

Tập thơ “Từ ấy” là tiếng hát trong trẻo, phấn chấn, say mê của người thanh niên cộng sản khi mới bắt gặp lí tưởng cách mệnh. Tập thơ này gồm 71 bài thơ được chia làm 3 phần: Máu lửa, xiềng xích, phóng thích. Trong đó bài thơ “Từ ấy” được rút từ phần 1, phần Máu lửa, được coi là bài thơ hay nhất, ấn tượng nhất trong tập thơ.

Bài thơ được Tố Hữu viết vào năm 1938, đó là thời khắc Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Nó là một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc thế, trong thơ Tố Hữu. Như chính thi sĩ đã từng viết “Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp dám sống, dám đấu tranh”. Toàn bộ bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của thi sĩ Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cuộc sống và tác dụng kì diệu của lý tưởng cách mệnh đối với quá trình nhận thức cũng như đối với đời thơ Tố Hữu. Bài thơ còn thể hiện quá trình vận động của tâm trạng cũng như nhận thức của người thanh niên trí thức tiểu tư sản sang người trí thức cách mệnh giàu lòng yêu nước.

Khổ 1 của bài thơ tập trung diễn tả niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng Cộng Sản. Ở khổ thơ đầu có sự phối hợp hài hòa giữa hai văn pháp Tự sự và trữ tình. Hai câu thơ đầu được tác giả viết theo văn pháp tự sự. Lời thơ như một lời kể về một kỉ niệm không thể nào quên trong cuộc thế của người đội viên cách mệnh trẻ:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”.

“Từ ấy” là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc thế cách mệnh và trong cuộc thế thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mệnh một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong.

Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho xúc cảm của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên vui sướng hoan hỉ, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc thế của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mệnh. Những từ ngữ được sử dụng chuẩn xác, giàu sức gợi ở đây là từ “bừng” và từ “chói”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của thi sĩ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mệnh là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của thi sĩ đối với cách mệnh. Từ “chói qua tim” là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn thi sĩ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng.

Hai câu thơ sau tác giả viết bằng văn pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một toàn cầu tươi sáng, rộn ràng, tràn đầy sức sống. thi sĩ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó độc giả chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của thi sĩ khi tới với cách mệnh. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mệnh không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là thi sĩ say mê ca tụng nhân dân, ca tụng quốc gia, say mê hoạt động cống hiến cho cách mệnh. tương tự, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn thi sĩ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mệnh, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng xúc cảm dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấn tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mệnh đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người thật tâm, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất thích hợp.

Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi tư nhân và cái ta chung của mọi người:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với muôn nơi”
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Động từ “buộc” thể hiện một ý thức tự nguyện và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi tư nhân để sống chan hòa với mọi người. “Buộc” còn tức là tự mình phải có trách nhiệm gắn bó với cộng đồng. Mọi người ở đây là những người lao khổ, những con người cùng chung giai cấp vô sản. Từ “trang trải” khiến ta liên tưởng tới tâm hồn của thi sĩ đang trải rộng với cuộc thế: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể. “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời” là tác giả nói tới ý thức kết đoàn. “Khối đời” là hình ảnh ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung một hoàn cảnh, cùng chung một lí tưởng, kết đoàn với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục đích chung: đấu tranh giành lại quyền sống và quyền độc lập dân tộc. tương tự, toàn bộ khổ thơ trên bằng lối sử dụng những từ ngữ chuẩn xác, giàu hàm ý, thi sĩ đã gửi gắm một cách sâu sắc về tư tưởng, tình cảm của mình. Đó là tình yêu thương con người của Tố Hữu gắn với tình cảm hữu ái giai cấp. Nó thể hiện niềm tin của tác giả vào sức mạnh kết đoàn, câu thơ trên cũng là một lời khẳng định: khi cái tôi chan hòa với cái ta, khi tư nhân hòa vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh nhân lên gấp bội. Những câu thơ cũng là biểu hiện nhận thức mới về lẽ sống chan hòa tư nhân và tập thể, giữa cái tôi và cái ta. Trong lẽ sống ấy con người tìm thấy niềm vui và sức mạnh. Sự thay đổi nhận thức ấy, nó bắt nguồn sâu xa từ sự tự giác ngộ lí tưởng của thi sĩ Tố Hữu.

Khổ 3, thi sĩ khép lại với sự chuyển biến của tình cảm trong thi sĩ Tố Hữu. Từ thay đổi về nhận thức dẫn tới sự thay đổi về tình cảm.

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”

Ở khổ thơ này, thi sĩ tiếp tục ghi nhận những chuyển biến trong nhận thức và hành động thể hiện trong quan hệ với những tầng lớp khác nhau của quần chúng lao động. Ở đây, tác giả đã khẳng định tình cảm gắn bó với “vạn nhà” (Tôi đã là con của vạn nhà: “vạn nhà” là một tập thể lớn lao, rộng rãi, nhưng rộng hơn là toàn thể quần chúng nhân dân lao động, “vạn kiếp phôi pha” là những người sống nghèo khổ, sa sút, vất vả, cùng cực, “vạn đầu em nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác giả thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi tư nhân, ích kỉ, hẹp hòi. thi sĩ đã vượt qua giai cấp của mình để tới với giai cấp vô sản với tình cảm thật tâm và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mệnh đối với những người trí thức tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những thi sĩ cách mệnh, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách mệnh. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ. những thi sĩ lãng mạn quan niệm:

“Là thi sĩ tức là ru với gió
Mê theo trăng và vơ vẩn cùng mây”

(Xuân Diệu)

Nhưng quan niệm của những thi sĩ cách mệnh, thi sĩ, nhà văn phải là người đội viên trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Sóng Hồng đã từng viết:

“Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”

Hay Hồ Chí Minh đã viết:

“Nay ở trong thơ nên có thép
thi sĩ cũng phải biết xung phong”

Với cách sử dụng linh hoạt những văn pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả những giải pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, tiếng nói rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mệnh và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng.

Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của thi sĩ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho trục đường cách mệnh, trục đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người đội viên cách mệnh và cũng là tuyên ngôn của thi sĩ đội viên. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự phối hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn những thủ pháp nghệ thuật thân thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp độ lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc.

Phân tích bài Từ ấy – Mẫu 11

Lý tưởng cách mệnh là ngọn đèn soi đường chỉ lối cho dân tộc ta, dẫn cả quốc gia ta qua đêm trường đen tối. Và đối với người thanh niên trẻ Tố Hữu, lí tưởng ấy đã cho ông một nguồn sống mới, dạt dào, mạnh mẽ, chiếu rọi lên trái tim còn đang trơ trẽn của ông. Và “Từ ấy” ra đời như một kết quả thế tất, đánh dấu lại trang đời bước sang trưởng thành của người thanh niên cách mệnh, đồng thời nó còn là tiếng reo vui, hoan hỉ mà rộn ràng Tố Hữu được lần trước tiên đứng trong hàng ngũ của Đảng.

“Từ ấy” được sáng tác năm 1938, in trong tập thơ đầu tay của ông. Cả tập thơ là tiếng ca mừng reo vui thật tâm, phấn khởi, đầy nhiệt thành của người thanh niên Cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: Máu lửa, Xiềng xích và phóng thích. Bài thơ “Từ ấy” được trích trong phần đầu “Máu lửa”, cả bài thơ là những dòng xúc cảm của Tố Hữu khi lần trước tiên cảm nhận được lý tưởng lớn lao, niềm tự hào đứng trong hàng ngũ cách mệnh, đánh dấu cột mốc quan trọng nhất trong cuộc thế của ông.

Về nhan đề “Từ ấy”, đây chỉ là một từ ngữ phiếm chỉ của thời gian, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong đời Tố Hữu, đánh dấu sự trưởng thành trong sự nhận thức cũng như tình cảm của ông. Nó cũng diễn tả niềm vui, xúc cảm, sự rung động, biến đổi khó quên nhất trong tâm hồn của ông để giây phút ấy, ông chỉ có thể nghẹn ngào, thốt lên hai tiếng “từ ấy”. Chính mốc thời khắc ấy đã tạo nên bước chuyển biến mới lạ, tươi sáng trong tâm hồn và hồn thơ của chàng thanh niên mười tám tuổi – Tố Hữu.

Tố Hữu xuất thân từ một chàng trai tiểu tư sản, con của một nhà nho nghèo, sống tại Huế. Có thể vì vậy mà tới năm mười hai tuổi, khi được ra học tại Quốc học Huế, được tiếp xúc với tư tưởng Mác – Lênin cùng với tư tưởng của Đảng Cộng Sản mà ông mới được phân tích và được tiếp xúc với lý tưởng cách mệnh . Tới năm mười tám tuổi, khi được chính thức đứng trong hàng ngũ cao quý của Đảng, Tố Hữu mới hiểu rõ, lý tưởng cách mệnh đã thay đổi cuộc thế ông thế nào, để rồi từ đó, ông vui mừng, rộn ràng mà thốt lên rằng:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”.

Niềm vui mừng khôn xiết khiến cho Tố Hữu không nói lên lời, ông vui sướng, say mê khi lần trước tiên bắt gặp lý tưởng cách mệnh, ông ngập ngừng lên tiếng “từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. “Từ ấy” là lúc nào? Phải chăng là lúc thi sĩ vừa tròn mười tám tuổi, cái tuổi còn chông chênh, chưa hiểu được cuộc thế, chưa rõ phải bước đi về đâu, như ông đã viết trong “Dậy lên thanh niên” rằng:

“Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
lựa chọn một dòng hay để nước trôi”.

Cái “bâng khuâng” mơ hồ ấy của người thanh niên trẻ đã được ánh sáng của lý tưởng cộng sản chiếu tới, để rồi “từ ấy”, trong lòng ông bừng lên một thứ ánh sáng khác lạ, tươi tỉnh, rạng rỡ “nắng hạ”. Hình ảnh “nắng hạ” là một ẩn dụ cho nguồn năng lượng mới mẻ, thứ ánh sáng chói lòa mà lý tưởng đã làm bừng cháy trong tâm hồn cả Tố Hữu. Nguồn nắng hè ấy chiếu rọi lên tâm hồn còn đang trơ trẽn của ông, sưởi ấm nó, dẫn nó tới một trục đường đúng đắn.

Hơn thế, Tố Hữu còn ví von lý tưởng cách mệnh như một “mặt trời chân lý”. Đây là từ ngữ liên kết vô cùng sáng tạo trong cả hình ảnh và ngữ nghĩa. Lý tưởng Cộng sản là một nguồn sáng cao đẹp nhất, rực rỡ nhất, như ánh mặt trời soi tỏ thế gian, như một chân lý không bao giờ thay đổi. Ở đây, người ta như thấy một sự rưng rưng, đầy hàm ân của Tố Hữu dành cho nguồn lý tưởng rực rỡ ấy. Từ trong tăm tối, Tố Hữu bước ra ngoài ánh mặt trời chói chang, tận hưởng nó bằng tất cả tình yêu, niềm hạnh phúc, hàm ân.

Ông cũng liên tục sử dụng những động từ mạnh như “bừng, chói” để diễn tả cảm giác khi được ánh sáng cách mệnh soi sáng đường đời. Những động từ này thể hiện sự đột ngột, bất thần, như chính tác giả cũng được chiếu rọi một cách bất thần như thế, đồng thời nó nhấn mạnh sự thay đổi hoàn toàn, mạnh mẽ, quyết liệt trong tâm hồn của nhân vật thơ.

Hai câu thơ đầu như một lời kể tự sự vừa du dương lại đầy tình cảm thật tâm, đặc biệt là câu thơ “mặt trời chân lí chói qua tim”. Người ta cũng nhận thấy có một sự đột ngột khi người thanh niên trẻ tuổi được lý tưởng cách mệnh soi đường và thêm nữa là cái tác động mạnh mẽ của nó lên trái tim, xúc cảm, tâm hồn thi sĩ. thi sĩ đã nhấn mạnh sự tác động của lý tưởng đó lên mặt nhận thức của mình, cũng như trên phương diện tâm hồn, tình cảm, để từ đó, trái tim thi sĩ được sưởi ấm, được chiếu sáng rạng ngời.

Tiếp theo, Tố Hữu cảm nhận thấy sự chuyển biến rõ rệt nhất trong tâm hồn ông rằng:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

nếu như như trước đây, tâm hồn của người đội viên cách mệnh chỉ là những nỗi toan lo, sự mơ hồ, lênh đênh, mù mịt không rõ phương hướng thì giờ đây, sau khi được ánh sáng của Đảng chiếu rọi, tâm hồn ấy chợt nảy nở, sinh sôi một cách diệu kì. Một khu vườn tâm hồn bao trọn cả một vườn cây với hoa trái, quả ngon, hương thơm và cả chim chóc nữa. Phép so sánh ấy thực tài tình và sáng tạo quá! Một tâm hồn đã giác ngộ cách mệnh giờ đây trở nên sinh động, đổi mới, bừng dậy thật sống động, dâng trào một nguồn sống mãnh liệt hơn bao giờ hết. Tất cả những âm thanh, màu sắc trong khu vườn tâm hồn ấy đều rất tươi đẹp, rất tràn trề, rộn ràng khiến cho thi sĩ phải ngây ngất mà say mê. Lối thơ vắt dòng quả đã khiến cho hai câu thơ thêm phần thú vị và sáng tạo biết bao!

Qua khổ thơ trước tiên, chúng ta đã thấy được rằng Tố Hữu đã tới với lý tưởng cách mệnh bằng cả tâm hồn mình, tất cả lý trí và nhận thức, bằng tất cả trái tim yêu đầy sinh lực. Niềm vui sướng, say mê của ông khi bắt gặp lý tưởng chiếu rọi đã lan tỏa sang cả người đọc chúng ta.

Thứ ánh sáng chói lòa ấy không chỉ làm thay đổi tâm hồn của thi sĩ mà còn thức dậy của nhận thức của ông nữa, nó đã làm nên công cuộc chuyển biến mạnh mẽ trong lý trí của người đội viên Cộng sản trẻ tuổi.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi nhà
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Trước đây, trước khi được gặp và giác ngộ theo lý tưởng Cộng sản, Tố Hữu là người thuộc tầng lớp tiểu tư sản, sống bên trên những người lao động nghèo vì vậy ông không thể hiểu hết được những nỗi thống khổ cũng như tâm tình của giai cấp vô sản. Thế nhưng, sau khi được chiếu rọi bởi lý tưởng cao quý ấy, ông đã nhìn thấy rằng, phải gắn bó, phải hòa nhập cái tôi riêng với cái ta chung của xã hội, của mọi người. Chính vì vậy, ông tự nguyện “buộc lòng” mình với “mọi nhà” để mà cảm nhận được, để mà hòa chung với “bao hồn khổ” khác. Động từ “buộc” ở đây không tức là bắt buộc mà trái lại nó lại là một hành động tự nguyện, là sự quyết tâm, tự giác gắn bó của Tố Hữu với mọi người – những người lao động, giai cấp vô sản.

Ông mở lòng với tất cả những người xung quanh, “trang trải” để tâm hồn mình được trải rộng ra với cuộc vậy mà thấu hiểu, đồng cảm với mỗi con người trong mỗi hoàn cảnh khác nhau. Có thể nói, tâm hồn của Tố Hữu đã có được sự chuyển biến vô cùng lớn lao, bởi một người thi sĩ, một nhà tiểu tư sản như ông lại có được sự thấu hiểu vô cùng với những con người cùng khổ.

Giờ đây, Tố Hữu đã chẳng còn “bâng khuâng” mà suy nghĩ nữa, bởi ông đã hiểu được rằng tình thần kết đoàn, sự yêu thương dành cho quần chúng lao động, sự sát cánh cùng nhau của thi sĩ với những kiếp người sẽ tạo nên nguồn sức mạnh to lớn. Hình ảnh thơ được thi sĩ sử dụng “khối đời” là hình ảnh ẩn dụ cho lớp người đông đảo có chung hoàn cảnh với nhau, cùng đồng sức đồng lòng, chung nhau lý tưởng, gắn bó, kết đoàn chặt chẽ với nhau, cùng nhau phấn đấu vì mục tiêu chung: đó là giành lấy quyền sống, quyền được độc lập tự do.

thi sĩ đã tiến thêm một bước rất dài trong cả nhận thức với toàn cầu xung quanh cũng như trong suy nghĩ, tâm hồn. Ông không còn thờ ơ trước cuộc thế nữa mà đã hướng tới những người lao động vô sản bằng cả nhận thức và bằng cả trái tim giàu tình yêu thương, hữu ái giai cấp nữa. Để trình bày điều đó, ông đã sử dụng một loạt những hình ảnh ẩn dụ để gửi gắm tình cảm của mình cũng đồng thời là sự khẳng định niềm tin của mình vào ý thức kết đoàn của dân tộc, khi cái tôi riêng hòa chung với cái ta chung của mọi con người.

Nhận thức luôn song hành cùng tình cảm, lý trí luôn song hành cùng tâm hồn. Vậy nên nếu như như ở khổ trên, thi sĩ đã nhận thấy sự chuyển biến trong nhận thức của mình thì ở đây, thi sĩ lại nhận thấy sự chuyển biến thật mạnh mẽ trong tình cảm của mình.

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”.

Tấm lòng kiên trung của người đội viên trẻ muốn mang tới cho những lớp người kia có được áo cơm, có được sự bình an, no ấm, bớt đi nỗi cực nhọc. Chính vì vậy, ở khổ thơ cuối này, ông đã khẳng định vị thế của mình, khẳng định trách nhiệm cũng như mong ước được chở che, bao bọc, gắn bó với mọi người.

Ông tự nhận mình là “con”, “là em”, “là anh” của “vạn nhà, vạn kiếp, vạn đầu em nhỏ”. Ông coi những người ở tầng lớp vô sản ngoài kia là ruột thịt của mình, đặt lên vai mình thứ trách nhiệm nặng nề, ông muốn được gắn bó với họ, cùng nhau gánh vác, cùng nhau chia sẻ chứ không muốn trở thành một kẻ bề trên mà ban ơn cho họ.

Động từ “đã là” cho thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của ông dành cho mọi người và thứ tình cảm ấy nhường nhịn như đã có từ rất lâu. Đặt trong tình huống, Tố Hữu vốn là một tiểu tử sản, vốn là tầng lớp đề cao lối sống tư nhân, vị kỷ vậy mà ở đây, ông lại san sẻ tất cả tình cảm của mình mà không hề tính toán, so kè. có nhẽ chính cái lý tưởng cách mệnh ấy đã soi đường, đã chiếu rọi biến đổi nhận thức cũng như tình cảm của Tố Hữu.

thi sĩ Tố Hữu đã vượt qua cái khoảng cách xa xôi giữa hai giai cấp trong xã hội để hòa mình vào trong giai cấp quần chúng lao động bằng tình cảm thật tâm. Thế mới biết sức mạnh của lý tưởng cách mệnh to lớn tới nhường nào, nó đã cảm hóa, biến đối những người trí thức tiểu tư sản, vốn có lối sống tư nhân, biến họ trở thành những con người của cách mệnh, trở thành những thi sĩ của cách mệnh, không còn quẩn quanh trong cái chủ nghĩa tư nhân ích kỉ. Điều này, chúng ta không chỉ thấy riêng ở Tố Hữu mà còn trong lớp những thi sĩ nhà văn khác như Huy Cận, Xuân Diệu, …

Với thể thơ thất ngôn thân thuộc, cùng cách thể hiện đầy nhịp nhàng, khúc chiết, thi sĩ đã viết lên một tác phẩm với những xúc cảm thật tâm nhất để ca tụng sức mạnh của lý tưởng cách mệnh. Những hình ảnh ẩn dụ, so sánh hết sức thú vị đã diễn tả niềm vui, niềm hoan hỉ, vui sướng vô bờ của một chàng trẻ trai khi đang băn khoăn tìm lối đi cho cuộc thế thì bắt gặp được ánh sáng của cách mệnh chiếu rọi để từ đó dấn thân vô, hòa nhập với những mối quan hệ, với những tầng lớp khác đấu tranh cho quyền sống, độc lập tự do của dân tộc. Ngôn từ trong thơ vô cùng thật tâm, giản dị, hình ảnh thơ được so sánh, bộc lộ tư tưởng cách mệnh rất sâu sắc. Tố Hữu xứng đáng là lá cờ đầu trong thơ ca cách mệnh.

“Từ ấy” đã đánh dấu bước ngoặt trưởng thành vô cùng lớn lao của thi sĩ Tố Hữu trên chặng đường cách mệnh. Nó là tiếng reo mừng, sung sướng của một người thanh niên trẻ khi tìm được đường đi cho mình để từ đó, quyết tâm đem sức mình cống hiến cho Tổ quốc, đó là tấm gương để lớp trẻ chúng ta noi theo.

Phân tích bài Từ ấy – Mẫu 12

Bài thư từ ấy là cái mốc đánh dấu thời khắc (1937) của thi sĩ Tố Hữu, khi ông được kết nạp Đảng năm 1938. Qua tác phẩm của mình ông thể hiện giác ngộ khi gặp ánh sáng lí tưởng cộng sản. Hay nó chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Tố Hữu – là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh.

Xuyên suốt bài thơ là niềm say mê mãnh liệt và vui sướng tràn trề cùng với nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn khi gặp gỡ và được giác ngộ lí tưởng cộng sản.

Mở đầu bài thơ ông đã diễn tả niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng của Đảng. Hai câu đầu viết theo văn pháp tự sự: Từ ấy trong tôi…. Rất đậm hương và rộn tiếng chim. Từ ấy. là lúc thi sĩ mới vào tuổi 18 thật trẻ trung được mặt trời chân lí cách mệnh soi sáng đường đời.

Hình ảnh ẩn dụ nắng hạ cho nguồn nhiệt lượng cách mệnh làm bừng sáng tâm hồn thi sĩ mặt trời chân lí là một liên kết đầy sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa. Câu thơ ca tụng ánh sáng diệu kì của cách mệnh. Đó là thứ ánh sáng của tư tưởng cộng sản – ánh sáng của những công bình xã hội, của chân lí xã hội.

Hai câu thơ sau của khổ thơ đầu, chợt vụt thoát bay bổng, dạt dào cảm hứng lãng mạn. Những vang động và vui tươi tràn ngập trong tâm hồn được so sánh bằng những hình ảnh và âm thanh lấy từ thiên nhiên tạo vật: vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim. Đón nhận ánh sáng cách mệnh là Tố Hữu đã đón nhận một trục đường thênh thang tươi sáng cho cuộc thế, cho hồn thơ: một cuộc thế có ý nghĩa thiêng liêng, to lớn, một hồn thơ bát ngát tình yêu cách mệnh, yêu đồng bào.

Tiếp nối mạch xúc cảm toàn bài thơ, khổ thơ thứ hai biểu hiện những nhận thức về lẽ sống. Hai dòng thơ mở đầu khổ hai: thi sĩ khẳng định quan niệm mới mẻ về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi tư nhân với cái ta chung của mọi người.

Động từ buộc là một động từ mạnh thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm sắt đá của Tố Hữu để vượt qua ranh giới của cái tôi để chan hòa mọi người “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”. Từ đó, tâm hồn thi sĩ vươn tới trăm nơi (hoán dụ) và trang trải sẻ chia bằng những đồng cảm sâu sắc, thật tâm và tự nguyện tới với những con người cụ thể.

Hai dòng thơ sau bộc lộ tình yêu thương của người bằng tình yêu giai cấp rõ ràng. thi sĩ đặc biệt quan tâm tới quần chúng lao khổ: “Để hồn tôi với bao hồn khổ” và từ đó như một biện chứng mang cái thế tất là sức mạnh tổng hợp: “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Ta cũng gặp điều đó trong thơ Nguyễn Khoa Điềm – thi sĩ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ xâm lược: khi chúng ta cầm tay mọi người – quốc gia vẹn tròn, to lớn.

Tố Hữu đã khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và đời sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân. Khép lại bài thơ ở khổ cuối là: Sự chuyển biến sâu sắc trong tâm hồn thi sĩ. Trước khi gặp cách mệnh, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản.

Khi ánh sáng cách mệnh như Mặt trời chân lí chói qua tim, đã giúp thi sĩ vượt qua những tầm thường ích kỉ trong đời sống tâm hồn chật hẹp để vươn tới một tình yêu vẹn tròn to lớn. thi sĩ tự nhận mình là con của vạn nhà trong nghĩa đồng bào thiêng liêng nhất, là em của vạn kiếp phôi pha sắp gũi bằng tình cảm xót thương những kiếp đời lao khổ, xấu số, những kiếp sống mòn mỏi, đáng thương là anh của vạn đầu em nhỏ, cù bất cù bơ.

Từ những cảm nhận ấy đã giúp thi sĩ say mê hoạt động cách mệnh với những thiết tha cao đẹp cống hiến đời mình góp phần phóng thích quốc gia, phóng thích những kiếp lầm than trong xã hội tăm tối dưới bóng thù xâm.

Tóm lại hồn thơ Tố Hữu chứa chan tình yêu giai cấp và niềm hàm ân sâu sắc cách mệnh. Thơ Tố Hữu rõ ràng là thơ trữ tình – chính luận, hướng người đọc tới chân trời tươi sáng. Tiếng nói trong thơ là tiếng nói của một thi sĩ vô sản chân chính. Giọng thơ thật tâm, sôi nổi, nồng nàn. Hình ảnh thơ tươi sáng, tiếng nói giàu tính dân tộc.

Phân tích bài thư từ ấy của Tố Hữu – Mẫu 13

Tố Hữu ngọn cờ chống chọi của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Tiếng thơ của ông mang đậm chất trữ tình, chính trị. Cả đời thơ Tố Hữu nhường nhịn như chỉ ca tụng Đảng, bác bỏ Hồ và nhân dân Việt Nam. Đọc thơ ông ta thấy từng sự kiện lịch sử được hiện lên, trong đó một mốc son quan trọng đánh dấu cuộc thế cách mệnh thi sĩ là khi ông chính thức được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Bài thơ “Từ ấy” đã thật tâm ghi lại xúc cảm vui tươi, sung sướng và lời tâm nguyện của người thanh niên yêu nước được giác ngộ lí tưởng cách mệnh.

Bài thơ mở đầu cho trục đường cách mệnh và trục đường thi ca của Tố Hữu được rút ra ở tập thơ “Từ ấy”_tập thơ đầu tay của Tố Hữu là tiếng hát say mê, trong trẻo của người thanh niên cộng sản. Tập thơ gồm ba phần: máu lửa, xiềng xích và phóng thích.“Từ ấy”nằm trong phần máu lửa.

Trước khi bắt gặp ánh sáng cộng sản Tố Hữu cũng như biết bao người thanh niên trí thức Việt Nam mờ mịt không lí tưởng, không xác định được hướng đi cho mình. Đúng như ông đã từng nói trong bài thơ “Nhớ đồng”:

“Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn
Muốn thoát, thương ôi, bước chẳng rời”

Nhưng kể từ khi được giác ngộ lí tưởng, tham gia vào Đảng 7/1938 “Từ ấy” nhấn mạnh mốc thời gian trong đời, “mốc son đáng nhớ trong tâm hồn người thanh niên tuổi mười tám đôi mươi đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sống dám làm dám đấu tranh”. Mở ra cho tác phẩm là tâm trạng vui tươi, sung sướng của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim”

“Nắng hạ”, “mặt trời” là những hiện tượng tự nhiên được thi sĩ nhắc tới với một niềm thành kính thiêng liêng. Nắng hạ và mặt trời là hai nguồn sáng ấm nóng, rực rỡ, bất diệt chiếu sáng cho mọi nguồn sống của vạn vật trên trái đất. Hình ảnh ấy được sử dụng theo lối ẩn dụ để chỉ ánh sáng cách mệnh của Đảng. Tác giả sử dụng những động từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh, có ấn tượng với người tiếp nhận. Cũng tương tự lí tưởng cộng sản như ánh sáng chói lòa, bất thần tới xóa tan đi màn đêm tăm tối trong tư tưởng của những tháng ngày vô nghĩa mà thi sĩ đã trải qua. Tố Hữu nhận thức điều đó không chỉ bằng lí trí mà còn cảm nhận bằng trái tim của người đội viên. Để giờ đây tác giả cảm thấy:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Ở đây tác giả có sử dụng phép so sánh ngầm không ngừng từ “như” thay vào từ “là”. Tố Hữu lột tả niềm vui sướng tột cùng sự say mê mãnh liệt trong tâm hồn, hạnh phúc của bản thân khi đón nhận lí tưởng của Đảng. Nó như phép nhiệm màu làm xanh tươi lại khu vườn tâm hồn của tác giả. Tôi bỗng băn khoăn không biết liệu có phải trước đó khu vườn có khô héo, tàn úa quá chăng sao thi sĩ reo vui tới thế? Giờ đây nơi ấy tràn đầy sức sống có sắc màu, có hương thơm hoa lá, nổi tiếng reo vui của chim ca. Niềm vui như hòa vào tiếng chim để rồi thi sĩ thấy “nhẹ nhõm như con chim cà lơi/ Say đồng hương nắng vui ca hát”. Tố Hữu đã từng viết: “Lòng tôi vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi rọi vào tâm hồn tuổi xanh của mình”. Tố Hữu đã chứa lên tiếng nói, tiếng hát, sự cảm nhận chung cho những thanh niên trí thức bấy giờ. Đó là âm điệu ca hát cho lí tưởng cách mệnh. tương tự khổ thơ đầu chính là niềm vui, hạnh phúc và lòng hàm ân Đảng đã khai sáng cho tâm hồn mở ra cho ông và biết bao người thanh niên khác những nhận thức mới mẻ.

Sau những phút giây được chắp cánh bởi lí tưởng cộng sản thi sĩ thật tâm bộc bạch suy nghĩ, nhận thức mới mẻ của bản thân về sự nghiệp cách mệnh:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Khác với nhận thức của nhân vật Hạ Du trong tác phẩm “Thuốc” của Lỗ Tấn. Người đội viên cách mệnh xa rời quần chúng nhân dân để rồi nhận lại thảm kịch cho cái chết. Còn Tố Hữu cũng như Đảng cộng sản ta luôn hướng về nhân dân, gắn bó với quần chúng. bác bỏ Hồ từng khuyên cán bộ đảng viên “Phải từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng” chính vì vậy Tố Hữu “buộc lòng tôi với mọi người” từ “buộc” cho thấy ý thức tự nguyện, ý thức gắn bó “cái tôi” tư nhân với “cái ta” chung cộng đồng, để cho tâm hồn thi sĩ trải rộng ra với cuộc thế, với nhân dân trên khắp mọi miền Tổ quốc cũng là ý thức trách nhiệm gánh vác việc đời. Tố Hữu luôn luôn sắp gũi, đồng cảm và sẻ chia khổ đau, xấu số với những “hồn khổ” của dân tộc. Hồn khổ ấy là “Em bé mồ côi”, là “Lão tôi đòi”, là “Chị vú em”… và biết bao nhiêu hoàn cảnh cùng cực trên đất Việt. Càng đồng cảm bao nhiêu thì thi sĩ càng căm hờn kẻ đã gây ra tội ác, đẩy nhân dân vào cảnh lầm than, cùng cực bấy nhiêu, càng thôi thúc thi sĩ gắn bó và chống chọi vì sự nghiệp cách mệnh phóng thích dân tộc. Tố Hữu đã từng nói: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số” để “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”. Khối đời là hình ảnh ẩn dụ chỉ những người có chung hoàn cảnh, chung lí tưởng cách mệnh cũng là để chỉ ý thức kết đoàn của đồng bào Việt Nam, mỗi người cán bộ, đội viên, mỗi người dân cùng chung tay làm nên sức mạnh của toàn dân tộc, là ý thức yêu nước của nhân dân ta đã nhấn chìm lũ bán nước và cướp nước. Khổ thơ đã cho thấy sự thay đổi trong nhận thức của tác giả khi được ánh sáng của Đảng soi đường, cũng thể hiện niềm tin, niềm hạnh phúc vào khối đời dân tộc, vào trục đường cách mệnh nước nhà. Tố Hữu đã từng chứa lên tiếng hát ngợi ca bác bỏ và lí tưởng của Đảng:

“Từ vô vọng mênh mông đêm tối
Người đã tới chói chang nắng dọi
Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu”

Từ những nhận thức mới mẻ sâu sắc ấy trong tư tưởng người thanh niên trẻ tuổi đã có sự chuyển biến về tình cảm, từ số phận của trí thức tiểu tư sản chuyển sang người trí thức cộng sản. Giờ đây tác giả tự đặt mình vào trong gia đình dân tộc Việt nam bình tình cảm ruột thịt thật tâm:

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ”

thi sĩ đã xác định mình là thành viên của “vạn nhà”. Cách sử dụng điệp từ “là”, “của” phối hợp với những danh xưng “con”, “em”, “anh” và hàng loạt những từ chỉ số lượng nhiều: “vạn nhà”, “vạn kiếp”, “vạn đầu” thi sĩ bộc lộ tình cảm của mình gắn bó với nhân dân như anh chị em ruột thịt trong gia đình, đó là tình hữu ái giai cấp, yêu thương dành cho những con người đồng khổ. Ông đã từng viết:

Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau”

Hay thi sĩ đã từng lột tả niềm vui sướng thật tâm của mình khi được trở về với nhân dân trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa,
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

tương tự ta có thể thấy được tình cảm gắn bó sâu sắc của thi sĩ cách mệnh với quần chúng nhân dân Việt Nam. Chính điều đó làm cho thơ ông thật sắp gũi, thân yêu.

Cả cuộc thế “Tố Hữu vừa làm cách mệnh vừa làm thơ, làm thơ để làm cách mệnh, và làm cách mệnh để làm giàu nguồn cảm hứng cho thơ”. Lí tưởng cách mệnh có sức tác động, có sự cảm hóa mãnh liệt đối với Tố Hữu cũng như bao thi sĩ lãng mạn khác. Như ta từng biết Tố Hữu xuất thân từ tầng lớp trí thức tiểu tư sản nên cái tôi tư nhân rất cao với lối sống ích kỉ nhưng ông đã vượt qua được rào cản giai cấp để hòa mình vào cái ta chung của cộng đồng. Mỗi một tác phẩm của ông là một sự kiện cách mệnh ghi được dấu đúng như chủ toạ Hồ Chí Minh đã từng nói:

“Nay ở trong thơ nên có thép
thi sĩ cũng phải biết xung phong”

Mỗi một thi sĩ cách mệnh cũng phải là một người đội viên trên mặt trận văn hóa tư tưởng và Tố Hữu ngay từ khi mới vào mặt trận ấy đã dành được vị trí vững chắc xứng đáng là “Một viên ngọc trong nền văn học Việt Nam”.

“Tố Hữu nhìn cách mệnh bằng con mắt lãng mạn của một thi sĩ. Thơ ông thường chỉ có một giọng. Đó là giọng hát tưng bừng ca tụng cách mệnh”. “Từ ấy” là bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, là tuyên ngôn về lí tưởng cách mệnh, là tiếng hát trong trẻo của người thanh niên ở năm những năm mười tám đôi mươi sung sướng, hạnh phúc khi được giác ngộ bởi ánh sáng của Đảng cùng với những nhận thức và sự vận động mới mẻ trong tình cảm của người đội viên cộng sản.

Phân tích bài thư từ ấy của Tố Hữu – Mẫu 14

thi sĩ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành được biết tới là thi sĩ tiên phong cho nền thơ cách mệnh Việt Nam. thi sĩ Tố Hữu cũng là đồng chí tham gia cách mệnh sôi nổi và yêu nước. Thơ của ông đậm chất trữ tình, đằm thắm đồng thời cũng có yếu tố chính trị đan xen.

Cả cuộc thế của thi sĩ Tố Hữu đã cống hiến cho thi ca nước nhà thể hiện được lòng yêu nước, ngợi ca nhân dân và khuyến khích ý thức cách mệnh. Khi nhắc tới thi sĩ Tố Hữu thì không thể không nhắc tới những tác phẩm thi ca nổi tiếng như tập thơ Máu và hoa, Ra trận…Bài thư từ ấy thể hiện được sự phấn khích, hồ hởi của một thanh niên đã được giác ngộ lý tưởng cách mệnh.

Bài thư từ ấy được trích dẫn từ tập thơ Máu lửa đây cũng là bài thơ được coi là hay và độc đáo nhất tập thơ của thi sĩ Tố Hữu. Khổ trước tiên chính là niềm vui hoan hỉ của người thanh niên Kim Thành được đứng trong lực lượng của Đảng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim’’

Tác giả sử dụng động từ “bừng’’ là một động từ mạnh và đột ngột. Tự nhiên “bừng’’ lên nắng hạ. Nắng hạ là nắng gay gắt và mạnh nên tác giả sử dụng động từ “bừng’’ ở đây để trình bày việc được giác ngộ cách mệnh Đảng ở đây thật sáng tạo. Khi thi sĩ Tố Hữu hoạt động sôi nổi ở Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Huế được 1 năm thì thi sĩ đã được đứng trong lực lượng Đảng là những người tiên phong và kiểu mẫu.

Hình ảnh mặt trời chân lý chính là hình ảnh ẩn dụ cách mệnh của Đảng. Động từ “chói’’ là động từ thể hiện sự chói lọi mạnh mẽ như sự chiếu sáng cho mọi vật. Vậy câu thơ chính là lời kể tâm sự của một người thanh niên cảm nhận được lý tưởng chân lý Đảng đúng đắn và rạng ngời.

Chói qua tim chính là chói vào trái tim của người lính yêu nước. Người lính khi được giác ngộ tư tưởng sáng ngời ấy thì sẽ một lòng yêu nước và tận trung với dân. Vì được đứng trong lực lượng cách mệnh mà tác giả cảm thấy vui mừng khôn tả để viết được những dòng thơ đầy xúc động. Hai câu thơ tiếp theo thể hiện tâm hồn tươi đẹp và hồn nhiên của thi sĩ được so sánh như sau:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim’’

Tâm hồn của người con trai lúc tuổi mười tám đôi mươi thật đẹp biết bao khi được ví như vườn hoa lá. Một vườn hoa lá đâm chồi nảy lộc bừng sắc hương cũng giống như sức lực thời trẻ trai dồi dào và đầy nhiệt huyết. Hình ảnh còn được ví von thêm với những hình ảnh xinh đẹp khác đó là có thêm tiếng chim và rất đậm hương. Một khu vườn đầy hoa lá và có thêm tiếng chim hót líu lo và có mùi hương của những loài hoa thì còn gì đẹp bằng!

Liên tưởng từ hai câu thơ đầu với hai câu thơ này chúng ta có thể diễn đạt một ý của tác giả đó là nhờ có ánh sáng, lý tưởng cách mệnh Đảng thì tác giả mới chợt nhìn thấy được một điều kỳ diệu như một thứ ánh sáng mà tác giả chưa được thấy bao giờ. Nhờ có ánh sáng ấy mà tâm hồn người đội viên được tươi trẻ và có thêm biết bao sức sống.

Đúng là hồi còn trẻ người ta sẽ có rất nhiều ước mơ hoài bão muốn được thực hiện nhờ đây đã có lý tưởng của cách mệnh soi đường thì bao nhiêu khó khăn vất vả cũng sẽ sớm vượt qua. Khổ thơ thứ hai trong bài thư từ ấy chính là sự giác ngộ lý tưởng để có thể hình thành nên được những tư tưởng lớn:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm vạn khối đời’’

Khổ thơ gợi lên biết bao nhiêu sự suy tư về cái tôi tư nhân rộng lớn mông mênh và muốn nguyện gắn kết với mọi người. Động từ “buộc’’ chính là động từ thể hiện sự gắn kết thắt chặt giữa tấm lòng tác giả với mọi người. Khác với động từ “buộc’’ trong bài thơ Vội vàng của thi sĩ Xuân Diệu động từ buộc được sử dụng như một nét chấm phá và có ước vọng được vạn vật ngừng lại:

“Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi’’

Động từ buộc được tác giả Tố Hữu sử dụng rất khéo và hay khiến cho người đọc cảm thấy dễ sắp và thân thiết. nhường nhịn như tác giả cảm nhận được khi mình đứng trong lực lượng cách mệnh của Đảng thấy có trách nhiệm hơn thấy yêu thương những người dân đất Việt phải chịu những nắng mưa cùng cực. Tác giả nguyện khổ cùng đồng bào để sắp gũi như một khối đại kết đoàn: “sắp gũi nhau thêm vạn khối đời’’.

Từ lý tưởng muốn được nguyện hi sinh khó khăn gian khổ cùng đồng bào thì khổ thơ cuối cùng cũng chính là sự thể hiện vị thế của mình:

“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ’’

Khổ thơ cũng chính là sự thể hiện bản thân tác giả sẵn sàng xông pha vào những trở ngại nghiêm trọng để có thể hoàn thành trọng trách của mình. Điệp từ “là’’ chính là sự nhấn mạnh mối quan hệ giữa tác giả và nhân dân. Tác giả vừa là người em của vạn kiếp phôi pha, gian khổ nhưng cũng sẵn sàng chở che dạy bảo cho những người em nhỏ.

những người em nhỏ chính là những người cũng được giác ngộ ý thức cách mệnh là những người đi sau tiếp nối bước chân của thi sĩ Tố Hữu. Dù có phải chịu cảnh không nhà không cửa hay thiếu thốn đủ bề thì tác giả vẫn khẳng định mình sẽ kiên trung một lòng yêu nước, vì khối đại kết đoàn dân tộc. Khối đại kết đoàn đó bao gồm nhân dân, đội viên cách mệnh dưới sự lãnh đạo của cách mệnh và tầng lớp người lao động. Ba giai cấp nhưng luôn hướng chung về một mục tiêu giữ gìn độc lập tự do cho nhân dân.

Bài thơ chính là lời reo vui sướng của một chàng thanh niên trẻ được giác ngộ lý tưởng cách mệnh với sứ mệnh lớn là bảo vệ độc lập tự do cho nhân dân mà không quản nghiêm trọng hay gian khổ. Bài thơ chính là những lời dạy của của người thế hệ đi trước dành cho những người tiếp nối đi sau phải luôn phấn đấu vì sự nghiệp của Đảng để bảo vệ dân tộc Việt Nam.

Phân tích bài Từ ấy của Tố Hữu – Mẫu 15

Tố Hữu là thi sĩ của lý tưởng cộng sản là lá cờ đầu của thơ ca cách mệnh Việt Nam. Tập thư từ ấy (1937 – 1946) có thể coi là tập thơ đầu tay đánh dấu mối duyên đầu của Tố Hữu với thơ ca cách mệnh. Tập thơ có ba phần tương ứng với những chặng đường tranh đấu của thi sĩ: Máu lửa – Xiềng xích – phóng thích. Bài thơ “Từ ấy” được nằm ở phần đầu của tập thơ là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Bài thơ là cái Tôi trữ tình tràn đầy niềm vui sướng hoan hỉ khi lần trước tiên giác ngộ ánh sáng của Đảng của lý tưởng. xúc cảm ấy được thi sĩ ghi lại bằng những vần thơ tự sự trữ tình tràn đầy niềm vui và ánh sáng.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Không áo cơm cù bất, cù bơ”

Trước khi tới với ánh sáng của cách mệnh, Tố Hữu cũng như bao thanh niên khác cùng thời không tìm thấy lối đi cho mình. Đó là những tháng ngày mà Tố Hữu đã từng viết “Đâu những ngày xưa tôi thấy tôi/ Băn khoăn đi tìm lẽ yêu đời/ Vẩn vơ theo mãi vòng quanh quẩn/ Muốn bước thương ôi bước chẳng rời”. Nhưng rồi ánh sáng của Đảng như nguồn sáng diệu kỳ làm bừng sáng tâm hồn thi nhân:

Từ vô vọng, mênh mông đêm tối
Người đã đến. Chói chang nắng dội
Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu!

Tháng 7 năm 1938, Tố Hữu được vinh dự đứng vào hàng ngũ của Đảng. Phút giây ấy đã làm thăng hoa cuộc thế thi sĩ.

Đoạn thơ mở đầu bằng lời tự sự diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột đỉnh và sự say mê khi bắt gặp lí tưởng Đảng của cái tôi trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết. Đảng như vầng dương sáng soi cuộc thế thi nhân.

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim

Tháng 7-1938, sau thời gian hoạt động trong phong trào thanh niên ở Huế, Tố Hữu vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng. Vinh dự và niềm vui lớn ấy là cả một niềm hoan hỉ. Tác giả khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng tỉnh, bừng sáng tâm hồn và trí tuệ nhà thơ. Hai chữ “Từ ấy”, không chỉ có ý nghĩa nhấn mạnh mốc thời gian tháng 7-1938 thi sĩ được đứng vào hàng ngũ của Đảng mà còn còn nhấn mạnh mốc son đáng nhớ trong tâm hồn của chàng thanh niên mười tám tuổi. thi sĩ diễn tả ánh sáng của Đảng bằng một hình ảnh thơ rất chói chang ấm nóng đó là hình ảnh “bừng nắng hạ”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột: bừng sáng, bừng ngộ, bừng tỉnh. Còn “nắng hạ” là ánh nắng chói chang, ấm nóng, mạnh mẽ. Ánh sáng ấy làm đánh thức một tâm hồn đang lạc lối dẫn thi sĩ vượt qua u tối để vươn tới ánh sáng của ngày mới:

Con lớn lên, con tìm cách mệnh
Anh Lư­u, anh Diểu dạy con đi
Mẹ không còn nữa, con còn Đảng
Dìu dắt con khi chửa biết gì.

Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, táo bạo giàu ý nghĩa thẩm mĩ mà rất chính xác, gợi cảm. Mặt trời là nguồn sáng rực rỡ, chói chang và duy nhất đưa lại sự sống cho muôn loài. Hình ảnh “mặt trời chân lí” đi liền với nhóm từ “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui rất đỗi thiêng liêng, có cái gì đó gần như “choáng váng” (chữ dùng của Hoài Thanh) và sức xuyên thấu kì diệu, mạnh mẽ của lí tưởng Đảng đối với tình cảm, nhận thức của thi sĩ. Thầy Phan Danh Hiếu. Tình cảm ấy không chỉ đón nhận bằng tâm hồn mà còn bằng cả trái tim; sự hài hòa giữa lý trí và tình cảm.

Sức mạnh của lý tưởng còn làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc thế:

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Với bút pháp trữ tình, lãng mạn cùng với hình ảnh so sánh có tính chất khẳng định (Tố Hữu dùng từ “là” chứ không dùng từ “như”). Tác giả đã bày tỏ được niềm hạnh phúc vô bờ, sức sống kì diệu của tâm hồn mình trong buổi đầu đến với lí tưởng Đảng. những tính từ chỉ mức độ như “đậm”, “rộn” đã nói hộ thi sĩ về niềm vui sướng vô bờ của chính mình. Hẳn là trước đó, tâm hồn thi sĩ là một khu vườn mùa đông cành khô, lá úa thì giờ đây được gặp gỡ lí tưởng cách mạng, bỗng chốc tâm hồn đó trở thành một khu vườn mùa hạ xanh tươi, ngập tràn ánh nắng mặt trời, nồng nàn, rộn rã tiếng chim ca và ngạt ngào hương sắc “rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Vẻ đẹp của khu vườn tâm hồn ấy, đối với Tố Hữu, nhà thơ cộng sản, còn là vẻ đẹp của sức sống mới của một hồn thơ mới:

Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!

(Bài ca xuân 61)

Hai khổ thơ còn lại của bài thơ là biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình. thi sĩ nguyện dấn thân vào cuộc thế nhân dân, “cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu” với nhân dân. Đó là nhận thức, là giác ngộ, là lẽ sống lớn. thi sĩ kết nối “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”, kết nối “kiếp phôi pha” để rồi cuối cùng làm cho “mạnh khối đời” – khối đại kết đoàn dân tộc.

Khổ hai của bài thơ là khổ thơ biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới của cái tôi trữ tình:

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.

Giác ngộ lí tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Nhà thơ chủ động, tự giác hòa “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hòa với “mọi người”, với “trăm nơi”, với quần chúng đông đảo khắp mọi miền đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao. Đây là điều khác biệt với những thi sĩ Mới đương thời, trong khi Tố Hữu giác ngộ cách mệnh và đi theo trục đường lý tưởng thì những thi sĩ mới lại đang đau buồn với cái tôi bé nhỏ, đơn chiếc, chôn chặt niềm đau trong những vần thơ bi lụy. Nhận thức mới của Tố Hữu cũng thật khác xa với nhân vật Hạ Du ( Thuốc – Lỗ Tấn), Hạ Du xa rời quần chúng nhân dân để rồi ôm nỗi đau thảm kịch của người cách mệnh còn Tố Hữu lại biết đứng về nhân dân lao khổ và giác ngộ trong hàng ngũ ấy.

Hai câu sau: “ Để hồn tôi với bao hồn khổ… mạnh khối đời ” khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hòa vào tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng, Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”. Thật đáng quý biết bao tâm hồn cao đẹp ấy.

Khổ thơ cuối cùng khép lại là sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của thi nhân. Là sự hóa thân của cái Tôi vào cái Ta chung của “kiếp phôi pha”:

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…

Tố Hữu khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Tác giả tự nhận mình là một thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần chúng bị áp bức, đau khổ trong xã hội cũ. Các điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”, “anh” đã khẳng định điều đó. Số từ ước lệ “vạn” chỉ số lượng hết sức đông đảo.

Chính vì những “người anh” phải sống “kiếp phôi pha”, những người “em”… “cù bất cù bơ” ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu say mê hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. Không phải ngẫu nhiên mà từ đây, Tố Hữu đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “chị vú em”, “cô gái giang hồ”, “lão đầy tớ”… những con người mà tác giả cho đó là “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”. Bài thơ “ Từ ấy ” là một bài thơ sâu sắc về nội dung, độc đáo về nghệ thuật, ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, chói sáng, giàu khát vọng lãng mạn bay bổng, say mê. Câu thơ mạnh, cảm xúc thơ tràn đầy. Nhạc thơ biến đổi sinh động, hăm hở, dồn dập say sưa, lôi cuốn. những giải pháp tu từ sử dụng nhuần nhuyễn như: điệp từ, so sánh, ẩn dụ… tất cả đã làm nên một bài thơ hay và lôi cuốn người đọc.

Bài thơ “Từ ấy ” là một bài thơ của một cái tôi tràn đầy xúc cảm. Đó là cái Tôi lần đầu được giác ngộ lý tưởng và nguyện đem tất cả ý thức và tuổi xanh của mình phụng sự cho lý tưởng cao cả ấy. Bài thơ còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lí tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.

Phân tích Từ ấy – Mẫu 16

Tố Hữu là một thi sĩ nổi tiếng của Việt Nam với phong cách thơ ca đậm chất trữ tình chính trị. Ông đã để lại những tác phẩm vô cùng đặc sắc, một trong số đó là “Từ ấy”- một bài thơ có ý nghĩa to lớn trong cuộc thế cũng như trong sự nghiệp của tác giả. “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác trong niềm hạnh phúc, vui sướng để đánh dấu mốc quan trọng trong cuộc thế của chính mình.

Mở đầu bài thơ, “từ ấy”- nhan đề của tác phẩm đã được lặp lại:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim.”

“Từ ấy”- một trạng từ chỉ thời gian, nó được sử dụng làm nhan đề và được nhắc lại trong câu thơ đầu của bài thơ đã khẳng định đó là một thời khắc vô cùng quan trọng trong cuộc thế của tác giả. Tại thời khắc đó, một dấu mốc đánh dấu sự chuyển biến trong tư tưởng của tác giả.

Đó là khi tác giả được giác ngộ cách mệnh, giác ngộ lý tưởng Cộng sản, đồng thời được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương – một bước ngoặt trước tiên cũng là bước quan trọng nhất trong cuộc thế. Để rồi cả tâm hồn của tác giả “bừng nắng hạ” – một thứ ánh sáng vô cùng mạnh mẽ, chói rực hấp dẫn người thanh niên. “Mặt trời chân lý”- hình ảnh ẩn dụ thật sâu sắc. Nó là chân lý của Đảng của Mác Lê nin đã chiếu sáng trái tim, con người của tác giả, mở ra một trục đường mới cho cuộc thế.

“Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.”

Nắm bắt được chân lý, tác ví thử tìm được chính mình. Mọi tâm tư tình cảm của tác giả đều là niềm vui sướng và hạnh phúc. Tố Hữu sử dụng giải pháp so sánh, so sánh tâm hồn tác ví thử một vườn hoa. Hình ảnh vườn hoa – một tâm hồn thật tươi mới và đẹp, rung động lòng người với mùi hương thơm của những bông hoa rực rỡ cùng với tiếng chim rộn ràng đầy sức sống.

Đó quả là một tâm hồn lớn mà vô cùng trong sáng, giản dị của chàng thanh niên 18 tuổi đầy nhiệt huyết. tới khổ thơ thứ hai, sự nhận thức về lẽ sống mới của tác giả được khắc họa đậm nét:

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời.”

Tố Hữu sử dụng động từ mạnh “buộc”, ông muốn nhấn mạnh tư nhân mình cùng với mọi người xung quanh phải thành một khối kết đoàn. Trên mảnh đất Việt Nam hình chữ S xinh đẹp với bao con người, nhiều dân tộc khác nhau sống trên mọi miền lãnh thổ, tác giả đã tự “buộc” mình với “mọi người” để cho tình cảm của mình “trang trải tới trăm nơi”.

Tác giả đã tự nguyện gắn kết mình với những con người lao khổ, ông muốn chia sẻ, chung sống, hiểu rõ hơn về cuộc sống họ phải trải qua, ông đồng cảm với những số phận xấu số để từ đó mọi người đều có thể hiểu nhau hơn và trợ giúp lẫn nhau. Một lẽ sống mới đã được đúc kết ra trong tâm hồn của tác giả đó là sự gắn kết cái tôi với cái ta chung của mọi người.

Và đặc biệt, khi mọi người có ý thức kết đoàn, ý thức tương thân, tương ái, chở che cho nhau thì sẽ tạo điều kiện cho “mạnh khối đời”. “Khối đời” – hình ảnh ẩn dụ cho một cộng đồng con người có chung hoàn cảnh, “khối đời” chỉ “mạnh”, khi mọi người “sắp gũi” cùng nhau vượt qua khó khăn – một lẽ sống đầy triết lý đã in sâu trong trái tim của chàng thanh niên.

Lý tưởng của Đảng như mặt trời chiếu những ánh sáng xua tan những bóng tối u khuất trong tư tưởng của tác giả, và tại khoảnh khắc “từ ấy” trong tình cảm của “cái tôi” đã có sự chuyển biến rõ rệt.

“Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.”

Trái tim của tác giả được chiếu sáng bởi “mặt trời chân lý”, Tố Hữu đã dần khẳng định vai trò của mình trong cuộc thế. Điệp từ “là” được lặp lại ba lần và đứng hai lần ở đầu câu như càng muốn nhấn mạnh thêm vị trí của mình trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Tác giả đã là “con của vạn nhà”, là em của “vạn kiếp phôi pha”, là anh của “vạn đầu em nhỏ”. Cuộc sống giờ đây của chàng thanh niên không phải sống vì chính mình nữa, mà sống vì mọi người.

Tình cảm của Tố Hữu thật sâu sắc bởi ở đây đã có sự chuyển đổi trong cách xưng hô từ tôi sang “con, em, anh”. Tất cả mọi người giờ đây, đặc biệt là những mảnh đời xấu số, đầy trắc trở đều được tác giả chân trọng và yêu quý, coi như anh em ruột thịt trong gia đình. nếu như như trước kia, khi còn thuộc tầng lớp tư sản có trong mình cái tôi tư nhân ích kỷ hẹp hòi thì từ khoảnh khắc “từ ấy”, Tố Hữu đã thoát ra cái tôi đó và sống hoà mình trong cái ta chung để liên kết những giai cấp trong xã hội.

“Từ ấy” là một bài thơ thật hay và xúc động. những giải pháp nghệ thuật như so sánh, ẩn dụ, điệp từ đã được sử dụng rất thành công phối hợp với những hình ảnh đầy tươi mới (vườn hoa lá, hương thơm, tiếng chim). Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình mà đậm chất trữ tình chính trị.

Ánh sáng rực rỡ của Cộng sản đã mang tới niềm hạnh phúc, vui sướng cho tác giả. Từ đó, chàng thanh niên trẻ tuổi ấy đã nhìn thấy sứ mệnh của cuộc thế mình. Phân tích Từ ấy, chúng ta có thể cảm nhận được sự ý chí, nhiệt huyết sẽ mãi nằm trong trái tim của những người con của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Phân tích Từ ấy của Tố Hữu – Mẫu 17

Tố Hữu là một trong những ngọn cờ trước tiên phong và đưa nền thơ ca trữ tình chính trị Việt Nam đạt tới đỉnh cao nghệ thuật và nội dung bằng những sáng tác ấn tượng trải dài suốt mấy chục năm trường như những tập thư từ Ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Máu và hoa,… Sở dĩ nói Tố Hữu chính là người đã đưa thơ ca cách mệnh Việt Nam đạt tới đỉnh cao là bởi lẽ, những sáng tác của ông luôn gắn liền với những chặng đường lịch sử đầu khó khăn và gian lao của dân tộc tựa như những trang sử ký được chép lại bằng thơ. Những vẫn thơ vừa hào hùng, vừa trung thực lại tràn trề nhiều tình cảm, mang tới những trị giá lớn, không chỉ là nghệ thuật mà còn là ở nội dung, khi khích lệ mạnh mẽ ý thức chống chọi của nhân dân, đội viên, trở thành loại vũ khí vừa sắc bén vừa nhân văn. cuộc thế thơ và cuộc thế cách mệnh của Tố Hữu là một chặng đường nhiều vẻ vang và lắm những gian lao, ông luôn viết và chống chọi bằng một tấm lòng thật tâm nhất của “một cuộc thế trọn vẹn với cách mệnh – Nghệ thuật – Tình yêu”. Trong thời kỳ đầu, Từ Ấy của ông là một trong những sáng tác vượt trội nhất, không chỉ là tác phẩm đánh dấu sự giác ngộ lý tưởng cách mệnh, niềm hoan hỉ vui sướng trong tâm hồn người đội viên trẻ tuổi, mà còn là mốc son đánh dấu những thay đổi lớn lao trong cả nhận thức và tình cảm của Tố Hữu.

Tố Hữu có lý tưởng chống chọi bảo vệ dân tộc, bảo vệ quê hương từ rất sớm, ông tham gia Đoàn Thanh niên Cộng sản và trở thành người lãnh đạo Đoàn thanh niên Dân chủ ở Huế khi vừa 16 tuổi. Tuy nhiên trong giai đoạn này, với vai trò là một trí thức tiểu tư sản, trục đường chống chọi của Tố Hữu còn nhiều mờ mịt, ông cảm thấy lạc lõng và mơ hồ giữa những lựa lựa chọn khác nhau“bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, lựa chọn một dòng hay để nước trôi”. Từ ấy ra đời chính là lúc Tố Hữu vinh dự được đứng vào hàng ngũ của Đảng khi mới 18 tuổi đời, đánh dấu một bước ngoặt có tính quan trọng bậc nhất trong cuộc thế của tác giả, không chỉ mở ra một trục đường sáng, kéo Tố Hữu bước ra khỏi cảnh lập lờ, hoang mang và bế tắc, mà còn soi rõ lý tưởng cách mệnh, khởi đầu cho sự nghiệp cách mệnh chống chọi vì nhân dân kéo dài suốt 70 năm trời của tác giả. Trước sự kiện đáng nhớ này Tố Hữu đã viết Từ ấy để thể hiện niềm hoan hỉ, hạnh phúc tột cùng khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, chống chọi vì lý tưởng phóng thích dân tộc, đồng thời cũng bộc lộ những thay đổi lớn trong nhận thức và tình cảm của tác giả.

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim”

Mốc thời gian “từ ấy” là một từ phiếm chỉ hay và sâu sắc, dù không nêu rõ tháng ngày năm nào, thế nhưng mang đậm dấu ấn về một mốc son đáng nhớ nhất trong cuộc thế của tác giả. Đó là ngày ông được chính thức bước chân vào hàng ngũ của Đảng, được giác ngộ lý tưởng cách mệnh, tìm được cho mình một trục đường mới mẻ, tươi sáng, thoát khỏi những tháng ngày chơi vơi, lạc lõng với những trằn trọc về mối thù quê hương. “Từ ấy” chính là mốc thời gian đánh dấu cuộc thế Tố Hữu chính thức bước sang một trang mới, thể hiện sự phấn chấn, yêu đời, tràn đầy sức sống, niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt.

Những xúc cảm ấy được thể hiện đầy đủ trong cả câu thơ “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ”. “Nắng hạ” là thứ nắng rực rỡ, chói lòa và mạnh mẽ nhất trong cả năm, Tố Hữu ví việc mình bước vào hàng ngũ của Đảng. Trở thành người đội viên cách mệnh giống như cuộc thế bất thần được bừng sáng, những thứ ánh sáng mạnh mẽ “bừng” sáng lan tràn khắp thân thể, xua tan đi tất thảy những cái tối tăm, bế tắc mà ông từng trải qua. Đó là một hình ảnh đẹp thể hiện được sức mạnh cũng như sự đúng đắn của lý tưởng cách mệnh, tầm tác động to lớn của nó đối với cuộc thế người đội viên trẻ tuổi, đồng thời cũng bộc lộ những nhận thức mới của Tố Hữu về Đảng, về cuộc thế và sứ mệnh của người lính chiến.

tới câu thơ tiếp “Mặt trời chân lý chói qua tim”, “mặt trời chân lý” là hình ảnh ẩn dụ sáng tạo và có ý nghĩa sâu sắc khi nâng tầm vóc của Đảng lên ngang bằng với vũ trụ rộng lớn, đồng thời trở thành chân lý bất diệt không đổi dời trong lòng không chỉ Tố Hữu mà chính là chân lý đúng đắn của cả một thời đại đấu tranh phóng thích dân tộc lắm gian lao của nhân dân ta. Động từ “chói” thể hiện sức xuyên thấu mạnh mẽ của lý tưởng cách mệnh, vượt qua mọi rào cản thân thể tiến tới tận trái tim, tận tâm hồn, mạnh mẽ chiếu sáng, xua đi tất cả những tối tăm mịt mù trong từng ngóc ngóc. mang tới sự hồi sinh kỳ diệu, mở ra một cuộc thế mới, một chặng đường mới dù lắm gian lao, thế nhưng có rất nhiều hy vọng và tương lai tươi sáng hơn tất thảy.

Trước sự kiện trọng đại, niềm vui sướng khi nhìn thấy chân lý mới của cuộc thế ở độ tuổi 18, Tố Hữu đã không kìm được lòng sung sướng, nỗi hạnh phúc tột độ của mình. Niềm vui ấy được thể hiện rõ ràng trong hai câu thơ “Hồn tôi là một vườn hoa lá/Rất đậm hương và rộn tiếng chim”, tác giả sử dụng lối so sánh đặc biệt, lấy cái vô hình so sánh với cái hữu hình, lấy “hồn tôi” đem so với “một vườn hoa lá”, lối so sánh đặc biệt thể hiện được sự tươi mới tràn đầy sức sống trong tâm hồn khi đón nhận lý tưởng cách mệnh, ánh sáng soi đường. Tâm hồn từ cảnh cằn cỗi, thiếu ánh sáng, thiếu sự sống bỗng nảy nở sinh sôi tựa như một vườn hoa lá, tràn đầy hương sắc. Không chỉ vậy sự vui tươi, rực rỡ ấy còn được tô đậm thêm ở câu thơ dưới, với lối thơ tràn dòng, lãng mạn kiểu Pháp, khi Tố Hữu nhấn mạnh “Rất đậm hương và rộn tiếng chim”. Nỗi mừng vui ấy không chỉ thể hiện ở sự xanh tươi của cây lá, mà còn đạt tới cực hạn với hương thơm đậm ngọt, cùng tiếng chim rộn ràng, sôi động. Là ẩn dụ cho những niềm vui sướng, ý thức tích cực, sẵn sàng tham gia chống chọi của một người đội viên trẻ vừa được đón nhận những nguồn năng lượng tích cực nhất, sẵn sàng cống hiến hết mình cho sự nghiệp phóng thích dân tộc, phóng thích quốc gia.

Lý tưởng cách mệnh của Đảng đã phóng thích cho tâm hồn người đội viên, đồng thời nó cũng đã mở ra cho tác giả những nhận thức mới về sứ mệnh, trách nhiệm của một người Đảng viên trước tình hình quốc gia, làm sao để xứng đáng với những gì mà Đảng đã phó thác, điều ấy được thể hiện thực rõ ràng trong khổ thơ tiếp.

“Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”

Tố Hữu từ chỗ sống với cái tôi tư nhân, tình cảm tư nhân và những lý tưởng riêng, thì tới nay khi đã đứng vào hàng ngũ của Đảng, ông đã có những nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Khi chuyển hướng sang cái ta chung, sống và chống chọi vì nhân dân, vì quốc gia, mang tình cảm tư nhân cùng hòa chung với tình cảm lớn của cả dân tộc. Đồng thời cũng nhẫn thức được rõ ràng những phương hướng đúng đắn trong sự nghiệp phóng thích dân tộc ấy là phải xây dựng khối đại kết đoàn toàn dân vững mạnh, trở thành lũy hào, tường thành kiên cố cùng nhau chống lại quân thù. Mà tất cả những điều ấy đều tới từ sự thông cảm thấu hiểu, bao dung cho từng kiếp người, mà như Tố Hữu đã viết “Tôi buộc hồn tôi với bao hồn khổ”, mang tình cảm của mình “trang trải khắp muôn nơi”, tuyên truyền, vận động, gieo rắc lý tưởng cách mệnh tới với nhân dân, thấu hiểu tất cả những số phận khổ đau trên cuộc thế. Từ đó trở thành cầu nối chắc chắn, gắn kết mọi người lại với nhau cùng chung tay chống chọi “sắp gũi nhau thêm mạnh khối đời”. tương tự người đội viên cách mệnh đứng giữa đời, thật tâm, giản dị với những phẩm chất tốt đẹp, đã bước đầu nhận thức được tầm quan trọng của bản thân trong công cuộc phóng thích dân tộc, cũng như đường lối đúng đắn của lý tưởng cách mệnh, sẵn sàng để bước vào một cuộc chiến, một chặng đường lắm gai góc và vất vả với tấm lòng, ý chí kiên cường nhất.

“Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ”

kế bên những sự thay đổi về nhận thức, ở Tố Hữu ta còn nhận thấy sự thay đổi lớn trong phương diện tình cảm. nếu như như trong khổ thơ thứ hai việc từ bỏ cái tôi tư nhân để hòa vào cái ta chung của dân tộc được xem là sứ mệnh, là trách nhiệm, thì tới khổ thơ thứ ba Tố Hữu đã càng làm sáng rõ phẩm chất tốt đẹp này ở phương diện tình cảm lớn. Khi trở thành một người đội viên cách mệnh, Tố Hữu đã không đơn thuần là con, là anh, là em của riêng một gia đình nào khác, mà bản thân ông đã tự đưa mình vào vị trí là con, anh, em ruột thịt của toàn thể đồng bào, toàn thể nhân dân. Ông đứng hiên ngang, giản dị giữa đời mở rộng vòng tay yêu thương, rộng lớn, với mong ước có thể san sẻ tình yêu thương, tương đối ấm tới vạn nhà, vạn đầu em nhỏ, vạn kiếp phôi pha. Được sẻ chia những đắng cay ngọt bùi, cùng chung lưng đấu cật, kề vai chống chọi, kề vai sản xuất, nối vòng tay lớn, kết đoàn, yêu thương lẫn nhau như một đại gia đình. Lượng từ “vạn” là một từ hay mang ý nghĩa khái quát chỉ sự mông mênh, rộng lớn của tấm lòng người đội viên đối với nhân dân, một con người sau khi giác ngộ lý tưởng cách mệnh, tâm hồn đã hoàn toàn được khai sáng, trở nên rộng mở, bao dung, tràn ngập những tình yêu thương và sức sống đối với nòi, sẵn lòng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc.

Sự thay đổi lớn trong cả nhận thức và tình cảm ấy của Tố Hữu thể hiện sự giác ngộ hoàn toàn lý tưởng chống chọi của Đảng, là một trong những hạt giống tốt, xứng đáng được bồi dưỡng để rồi ra trở thành những cây đại thụ, góp phần to lớn vào sự nghiệp phóng thích dân tộc, phóng thích quốc gia. Đồng thời cũng thể hiện được phẩm chất, tư cách đạo đức của Tố Hữu, cũng như tấm lòng yêu nước nồng nàn, sức trẻ, sức chống chọi mãnh liệt đang sục sôi trong tâm hồn người đội viên, mà khi được đứng vào hàng ngũ của Đảng, Tố Hữu nhường nhịn như đã được sống thêm một cuộc thế khác, vẻ vang và cũng lắm gai góc.

Từ ấy là một trong những bài thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu, đồng thời cũng là một trong những sáng tác thơ ca cách mệnh vẫn còn giữ nguyên những trị giá dù đã trải qua tuổi đời hơn 80 năm. Tác phẩm không chỉ đơn thuần thể hiện niềm hoan hỉ vui sướng của một đội viên trẻ tuổi khi vừa bước chân vào hàng ngũ của Đảng mà hơn hết nó còn nhấn mạnh tầm tác động của Đảng và lý tưởng cách mệnh đối với nhận thức và tình cảm của con người, khích lệ ý chí chống chọi, khai sáng những góc tối trong tâm hồn, khiến con người trở nên bao dung, biết yêu thương, hy sinh vì nòi, nhận thức được trách nhiệm và sứ mệnh của bản thân gắn liền với từng giai đoạn lịch sử của quốc gia.