Top 19 bài Phân tích Mùa xuân nho nhỏ SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết

Top 19 bài Phân tích Mùa xuân nho nhỏ SIÊU HAY, kèm theo dàn ý chi tiết, sẽ giúp những em học sinh lớp 9 cảm nhận sâu sắc hơn về bức tranh mùa xuân căng tràn sức sống, cùng ước nguyện cao đẹp của thi sĩ Thanh Hải.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải, mang tới cho người đọc ý nghĩa của cuộc sống, cùng khát vọng về niềm vui sống mãnh liệt. Vậy mời những em cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu sâu sắc hơn, ngày càng học tốt môn Văn 9 hơn.

Dàn ý Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ

1. Mở bài

  • Vài nét về thi sĩ Thanh Hải: Một thi sĩ có thể nói là đã cống hiến cả đời mình cho cách mệnh.
  • Giới thiệu về hoàn cảnh ra đời đặc biệt của bài thơ: được viết trong những ngày cuối cùng Thanh Hải nằm trên giường bệnh, cả thế cuộc ông đã sử dụng để cống hiến cho cách mệnh, giờ đây ông lại đựng lên niềm khát khao, niềm mong mỏi có thể tiếp tục cống hiến “mùa xuân nho nhỏ” cho thế cuộc này.

2. Thân bài

a. xúc cảm trước mùa xuân thiên nhiên quốc gia (Khổ 1)

– thi sĩ vẽ ra trước mắt độc giả bức tranh thiên nhiên mùa xuân với:

  • Không gian: cao rộng của bầu trời, dài rộng của “dòng sông xanh”
  • Âm thanh: âm thanh rộn ràng vui tươi của “chim chiền chiện”
  • Màu sắc: xanh của dòng sông, tím của hoa

⇒ Nghệ thuật đảo cú pháp: không gian cao rộng, màu sắc tươi sáng và âm thanh rộn ràng như thiết tha mời gọi níu giữ con người ở lại với cuộc sống, với mùa xuân xứ Huế tươi đẹp này

– xúc cảm của tác giả trước mùa xuân của thiên nhiên:

  • thi sĩ có cái nhìn trìu mến với cảnh vật
  • Đưa tay ra “hứng” “giọt long lanh”: là giọt sương, cũng có thể là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác chỉ tiếng chim “hót vang trời”

⇒ xúc cảm ngây ngất trước vẻ đẹp của mùa xuân của thiên nhiên, thèm khát hòa mình với thiên nhiên đất trời. Tác giả đã sử dụng giải pháp tu từ ẩn dụ, nói về giọt long lanh và tiếng chim thực chất là nói về những điều tinh túy, đẹp đẽ của cuộc sống con người.

b. xúc cảm về mùa xuân của quốc gia và con người (khổ 2 + 3)

  • Mùa xuân của quốc gia gắn với hình ảnh người cầm súng (những người làm nhiệm vụ tranh đấu) và hình ảnh “người ra đồng”, “lộc”- niềm hy vọng tươi sáng đang theo họ đi khắp nơi hay hay chính họ đã đem mùa xuân tới mọi nơi trên quốc gia.
  • Nhịp độ khẩn trương : “Tất cả như…xôn xao” – Công cuộc xây dựng mùa xuân của quốc gia diễn ra khẩn trương, sôi động.

⇒ Nghệ thuật điệp cấu trúc, từ láy…=> thi sĩ như reo vui trước ý thức lao động khẩn trương của con người làm nên mùa xuân của quốc gia.

  • thi sĩ nhắc lại về lịch sử bốn nghìn năm “vất vả và gian lao” của quốc gia đầy tự hào, đồng thời tin tưởng vào tương lai tươi đẹp của quốc gia ngày mai bằng hình ảnh so sánh đẹp mang nhiều ý nghĩa “quốc gia như vì sao…phía trước”.

c. Ước nguyện của tác giả

Sự chuyển đổi thứ bậc “tôi”-> “ta”

=> Nói lên quan hệ giữa tư nhân và cộng đồng

– Điệp ngữ “ta làm”, nói lên sự quyết tâm, lối liệt kê :con chim, cành hoa, nốt nhạc -> Yếu tố tạo nên mùa xuân

– Nốt nhạc trầm là biểu tượng cho sự cống hiến thầm lặng

=> Liên tưởng anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sapa”, chị quét rác trong “Tiếng thanh hao tre”

– giảng giải tựa bài thơ

– Điệp ngữ “dù là”

=> Như lời nhắn nhủ giữa người đi trước và người đi sau

– Lối hoán dụ người tóc bạc, tuổi 20 -> tuổi xanh -> tuổi già -> Sự cống hiến không phân biệt tuổi tác, thứ bậc, nam nữ, giai cấp.

d. Lời ngợi ca quê hương quốc gia qua điệu dân ca xứ Huế

  • nhạc điệu được đựng lên chính là điệu hát truyền thống của xứ Huế mộng mơ
  • “Mùa xuân ta xin hát”: không chỉ mở ra không gian nó còn mở ra niềm tự hào về lối sống tình nghĩa của ông cha.

=> Bài thơ thể hiện lòng yêu thiên nhiên, quốc gia con người, sự cống hiến thầm lặng, mối quan hệ tư nhân và cộng đồng.

3. Kết bài

  • Khái quát những đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: Thể thơ năm chữ, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha sắp gũi với dân ca, nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, nhiều so sánh và ẩn dụ sáng tạo.
  • Liên hệ trình bày khát vọng cống hiến của thế hệ trẻ cho thế cuộc.

Phân tích Mùa xuân nho nhỏ ngắn gọn

Mùa xuân trong thi ca là đề tài được rất nhiều thi sĩ khai thác. Mùa xuân là mùa của tuổi xanh, là mùa của khát khao sống mãnh liệt, là mùa của niềm tin vào thế cuộc. thi sĩ Thanh Hải, một người con của mảnh đất Huế thân yêu đã có bài thơ vô cùng hay viết về mùa xuân đó chính là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Điều tuyệt vời nhất là ông sáng tác bài thơ này khi đang nằm trên giường bệnh. Một người đang đau ốm mà vẫn cảm nhận được cái đẹp của mùa xuân. Chao ôi, mùa xuân ấy mới đẹp làm sao.

Suốt thế cuộc của mình, thi sĩ Thanh Hải đã cống hiến cho sự nghiệp đấu tranh phóng thích dân tộc qua cả hai cuộc đấu tranh chống Mỹ và chống Pháp. Cái khát vọng được hiến dâng thế cuộc mình cho Tổ quốc luôn ẩn chứa trong con người tác giả. Điều này thể hiện rất rõ qua tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ. Có thể xem đây là bài thơ, là món quà cuối cùng mà Thanh Hải dành tặng cho chúng ta, dành tặng cho chính thế cuộc của ông.

Mặc dù đang ở trong tâm thế là người bệnh nhưng thi sĩ Thanh Hải viết nên những vần thơ không hề có sự buồn bực của một người sắp lìa xa cõi đời. trái lại, câu thơ của ông chứa đựng nét thiết tha và thảnh thơi. Một giọng văn đầy linh hoạt và tươi mới. Tác giả đã nhìn thấy cảnh sắc của một mùa xuân mới thông qua một ô cửa sổ nhỏ, lắng tai được tiếng gọi của mùa xuân một cách đầy tinh tế.

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

Màu tím là một màu sắc đặc trưng của xứ Huế. Chúng ta vẫn nói Huế tím mộng mơ là vì vậy. Màu tím biếc của bông hoa nổi trội lên giữa màu xanh của dòng sông. Đó là những bông hoa bèo đầy dân dã. Mặc dù tả màu tím của hoa nhưng khi đọc lên người đọc lại liên tưởng tới cả màu tím của tà áo dài của những cô gái Huế. Chúng mỏng manh và thật gợi tình. Từ chỗ nhìn thấy, tác giả khởi đầu nghe thấy. Đó là âm thanh của tiếng chim chiền chiện đang hót vang trời. Chim chiền chiện là loài chim thường xuất hiện nhiều vào mùa xuân. Hình ảnh chim “hót chi mà vang trời” biểu lộ cho một sự vui tươi của cảnh vật và của chính thi sĩ nữa. Cảnh vật đẹp tương tự nên thi sĩ muốn ôm trọn vào lòng mình. Muốn hứng lấy từng giọt long lanh của đất trời. “Giọt long lanh”, đó có thể là giọt sương mai, cũng có thể là tiếng chim hót được thi sĩ viết theo một phong cách chơi chữ tài tình. Hiểu theo cách nào thì cũng đủ để người đọc cảm nhận được sự trân quý của tác giả Thanh Hải đối với cảnh đẹp thiên nhiên.

Sau khi cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, tác giả lại cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân quốc gia qua hình ảnh những người đội viên, những người nông dân bám mình trên đồng ruộng.

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao…

Ở khổ thơ này tuy tác giả không nhắc tới màu xanh nhưng ta lại thấy màu xanh ngập tràn cả khổ thơ. Đó là màu xanh của lá cây mà những người đội viên giắt đầy quanh mình ngụy trang, đó là màu xanh của nương mạ gieo ngoài đồng vào mùa xuân. Mùa xuân, người lính thì ra chiến trường, người nông dân thì ra đồng cấy cày và trở thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Mỗi người mỗi công việc nhưng ai cũng tất tả, ai cũng xôn xao. Họ tìm thấy niềm vui trong việc mà họ đang làm. Chính họ là những người đã đem mùa xuân tới cho Tổ quốc của chúng ta. Dấu chửng lửng ở cuối đoạn thơ như ý muốn nói mùa xuân ấy vẫn sẽ còn tiếp tục đời này qua đời khác. Bốn câu thơ tiếp theo chính là thể hiện cho sự tiếp nối ấy:

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước

Câu thơ là một sự tự hào của tác giả đối với quốc gia. Trải qua hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã phải hứng chịu biết bao nhiêu nỗi vất vả và nhọc nhằn. Thế nhưng sau tất cả, ý thức dân tộc vẫn giúp chúng ta đi lên. Tác giả ví “quốc gia như vì sao” bởi lẽ những ngôi sao lúc nào cũng sáng óng ánh trên đầu trời đêm. quốc gia dù khó khăn cũng sẽ vững vàng mà tiến lên phía trước.

Trước sự tự hào của bản thân về quốc gia, thi sĩ đã muốn hóa thân mình thành con chim, thành nhanh hoa, thành nốt trầm để hiến dâng cho thế cuộc. Mong ước ấy thật giản đơn nhưng cũng thật vĩ đại:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Những điều thi sĩ mong muốn tưởng như rất bình dị nhưng chính những điều đó lại làm nên nét đẹp của thế cuộc, làm nên một bản hòa ca với những thanh âm trong trẻo. Thật đẹp biết bao tâm hồn của thi sĩ. Thật đáng quý biết bao khi ở trong hoàn cảnh như thi sĩ mà vẫn muốn được hiến dâng mình cho Tổ quốc. Mong ước của tác giả có nhẽ cũng là mong ước chung của nhiều người

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Mỗi người trong chúng ta đều là một mùa xuân nhỏ. Từng mùa xuân nhỏ ấy lặng lẽ dâng cho thế cuộc một mùa xuân lớn, một mùa xuân chung cho tất cả. Chẳng cần phải là vĩ nhân, chỉ cần là những người dân bình dị sống hết mình cho quê hương, Tổ quốc thì dù tóc xanh hay tóc bạc cũng đã góp phần làm nên mùa xuân rồi.

Kết bài, một khúc hát thân thuộc của Huế vang lên. nếu như như chưng Hồ trước lúc đi xa muốn nghe một câu hát dân ca thì ở đây tác giả cũng ngân vang khúc ca xứ Huế. Điều đó cho thấy tình yêu của ông dành cho quê hương mình quả là bất diệt:

Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai, Nam Bình
Nước non nghìn dặm tình
Nước non nghìn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Bao nhiêu tâm tư, tác giả đều đã gửi gắm vào trong những vần thơ. Người ta thường nói lời của người trước khi mất là những lời trung thực nhất. Qua những vần thơ của Thanh Hải, người đọc hẳn cũng đã cảm nhận được cái thành tâm trong con người ông. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ mang tới cho người đọc ý nghĩa của cuộc sống, mang tới cho con người ta khát vọng về niềm vui sống mãnh liệt. Viết về mùa xuân nho nhỏ nhưng lại nói lên được cái tình cảm lớn lao của con người, tác giả đã để lại trong lòng người đọc nỗi xúc động trào dâng.

Xem thêm: Tổng hợp 25+ mẫu Phân tích Viếng lăng Bác của Viễn Phương hay nhất

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 1

Trong bài thơ Con chim chiếc lá, Tố Hữu có viết: “nếu như là con chim, con chim phải hót/ nếu như là chiếc lá chiếc lá phải xanh/ Lẽ nào vay mà không trả/Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”. Và lẽ sống cao đẹp ấy cũng được thi sĩ Thanh Hải thể hiện thật cảm động trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Bài thơ được viết vào trước lúc thi sĩ từ giã thế cuộc chỉ khoảng một tháng, để thể hiện niềm yêu thiết tha với cuộc sống, quốc gia, quê hương và ước nguyện cao đẹp của tác giả.

Về nhan đề “Mùa xuân nho nhỏ”, được hiểu theo nghĩa thực là nói về mùa trước hết trong một năm, với sự tươi đẹp, tràn trề sức sống của đất trời, là cái mùa mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cả một đời trằn trọc, nuối tiếc. Thế nhưng ý nghĩa của nhan đề không chỉ ngừng lại ở nghĩa thực mà ở đây nó còn chỉ phần tuổi xanh đẹp đẽ nhất của mỗi con người, hoặc cũng là để chỉ phần đẹp đẽ nhất trong tâm hồn con người, cùng với những thèm khát được hiến dâng được hiến dâng cái mùa xuân, phần đẹp đẽ nhất thế cuộc của mình cho mùa xuân lớn của thế cuộc. Hai từ “mùa xuân” đứng kế bên từ “nho nhỏ” thể hiện thái độ khiêm nhượng, và vô cùng thành tâm của thi sĩ Thanh Hải, làm nổi trội chủ đề của tác phẩm.

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay hứng về”

Ở khổ thơ đầu ta thấy hiện lên bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, thanh mát với những gam màu sắc hài hòa cộng hưởng với âm thanh vang vọng rộn ràng báo hiệu một mùa xuân rất sống động, trẻ trung. Bằng văn pháp chấm phá chỉ gợi chứ không tả thường thấy trong thi ca Việt Nam, thi sĩ Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên mùa xuân chỉ bằng một “dòng sông xanh” mang lại cảm giác hiền hòa, trong trẻo, thanh khiết của mùa xuân, cùng với “một bông hoa tím biếc”, khác với vẻ buồn mộng mơ thường thấy, thì màu “tím biếc” trong bài thơ của Thanh Hải lại khắc họa một cách rõ nét về sự thay đổi của cảnh một thiên nhiên, sự biến đổi của đất trời, từ màu xanh sang màu tím, nhấn mạnh sự rực rỡ, thanh nhã khi mùa xuân tới. Bông hoa ấy cũng là đại diện cho muôn hoa đang khoe sắc, vẽ ra một quang cảnh yên bình và tĩnh lặng vô cùng. Và giữa một dòng sông xanh, sông xanh vì thuốc nước hay vì màu trời, cũng đều gợi ra một khoảng trời quang đãng, trong xanh. Và trên đó người ta nhìn thấy chú chim chiền chiện bay lượn, nhào lộn vẽ ra những nét rất vui nhộn, rất thần tình, giữa quang cảnh nên thơ, nước xanh biếc, hoa tím biếc, trời thăm thẳm thì tiếng hót của chú chim lại càng trở nên khoáng đạt, rộng rãi và vang vọng hơn. Thể hiện sức sống mãnh liệt, tràn ngập đang lan tràn trong không gian, tới mức âm thanh ấy nhịn nhường như thánh thót đọng lại thành từng giọt “long lanh” trong tâm hồn tác giả, khiến ông xúc động muốn đưa đôi tay hứng về, như hứng lấy cái mùa xuân tươi đẹp của xứ Huế. Và trước sự tươi đẹp của bức tranh thi sĩ đã bộc lộ xúc cảm của mình một cách rất mãnh liệt bằng từ cảm thán “Ơi” thể hiện sự hào hứng, phiêu bồng cùng chú chim nhỏ giữa quang cảnh mùa xuân, chứa một xúc cảm gì đó rất lãng mạn, rất thi sĩ.

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy quanh lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương lúa

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Vững vàng phía trước”

Sau những vần thơ đầy xúc cảm vui tươi về mùa xuân của thiên nhiên, thi sĩ Thanh Hải khởi đầu nói về mùa xuân của quốc gia với những phương diện khác nhau. Có thể thấy rõ rằng mùa xuân của quốc gia được tạo nên từ hai nhiệm vụ cơ bản ấy là nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của “mùa xuân người cầm súng” và nhiệm vụ xây dựng quốc gia của “mùa xuân người ra đồng”. Hình ảnh ẩn dụ “lộc” và phép điệp từ này, khiến người đọc liên tưởng tới khí thế tranh đấu và lao động khẩn trương, tích cực trên mảnh đất quê hương. Đối với người lính chiến hình ảnh “lộc” trước hết là để chỉ những nhành cây ngụy trang đeo trên lưng người lính, thứ hai chính là để chỉ thành tựu cách mệnh vẻ vang mà người lính đi tranh đấu bao năm đạt được. Còn đối với người lao động, thì “lộc” chính là để chỉ những thành tựu quý giá trong suốt quá trình lao động sản xuất. nếu như thành tựu gắn với người lính là sự tự do, độc lập, hạnh phúc của dân tộc, thì thành tựu gắn với người lao động chính là sự no đủ, sung túc, giàu có, là sự đổi mới là sức xuân đang dâng trào mãnh liệt trên quê hương. Có thể nói rằng tranh đấu và xây dựng quốc gia đã là hai nhiệm vụ, hai yếu tố song hành cùng với nhau trong suốt hơn 4000 năm văn hiến lịch sử của dân tộc. Mùa xuân của quốc gia đã được dựng lên từ thế cuộc từ mùa xuân của biết bao nhiêu thế hệ đi trước, có vất vả, có gian lao, của những con người không ai nhớ mặt đặt tên, của biết bao trai gái, già trẻ. Để cuối cùng ta có một quốc gia xuân sắc, trường tồn sáng mãi như những vì sao, vững vàng tiến bước về phía trước, một quốc gia đẹp hiên ngang, rực rỡ huy hoàng, một quốc gia của những con người đảm đang, trung hậu, kiên cường. không những thế phép so sánh “quốc gia như vì sao” còn thể hiện lòng tự hào, yêu thương của Thanh Hải với dải đất hình chữ S, nâng tầm Tổ quốc sánh ngang với tầm vóc vũ trụ, đẹp đẽ, rực rỡ và vĩ đại, khiến người người thiết tha ngưỡng mộ, tự hào.

“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Một nốt trầm xao xuyến
Ta hát trong hoà ca

Mùa xuân, mùa xuân
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Mùa xuân mùa xuân”

Ở hai khổ thơ trên chính là ước nguyện là tấm lòng thèm khát hiến dâng cho thế cuộc của thi sĩ Thanh Hải, mà có nhẽ đâu đó trong bài hát Tự nguyện ta đã từng nghe có những câu rất hay “nếu như là chim, tôi sẽ là loài người thương câu trắng nếu như là hoa, tôi sẽ là một đóa hướng dương nếu như là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm Là người, tôi sẽ chết cho quê hương’, cũng mang cùng một ý thức, một ý thức như của tác giả Thanh Hải. thi sĩ muốn làm chú chim để thỏa sức bay lượn, tặng cho đời những tiếng hót vui tai, những âm thanh tuyệt diệu, tô điểm thêm cho bức tranh cuộc sống muôn màu. thi sĩ muốn làm một nhành hoa để cho đời thứ hương sắc trong trẻo như bông hoa tím biếc, mọc giữa dòng sông xanh, làm cho thế cuộc, làm cho mùa xuân thêm đẹp đẽ, tươi sáng hơn. Và dẫu là cánh chim hay nhành hoa thì đều là những vật vô cùng nhỏ bé, là một “nốt trầm xao xuyến” hòa vào bản giao hưởng mùa xuân, là một mùa xuân nho nhỏ góp vào trong mùa xuân lớn của thế cuộc của quốc gia. Ước vọng của thi sĩ Thanh Hải thật giản đơn, thật khiêm nhượng, sự thành tâm tuyệt đối, thể hiện lòng yêu thế cuộc tha thiết, mãnh liệt, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của một thi nhân đã ở tuổi sắp đất xa trời, nhưng tâm hồn vẫn trong trẻo và xuân sắc vô cùng.

“Mùa xuân tôi xin hát
Khúc Nam Ai nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Đất Huế nhịp phách tiền”

Từ ước nguyện khiêm nhượng, nhưng cháy bỏng và mãnh liệt của mình Thanh Hải đã khép lại bài thơ bằng những vần thơ gợi nhớ về xứ Huế mộng mơ. Tâm hồn thi sĩ được đựng cao, bay bổng, yêu đời hơn nhờ những điệu Nam Ai, Nam Bình ngọt ngào, thể hiện sự gắn bó tha thiết với mảnh đất quê hương khi mở đầu tác phẩm là mùa xuân xứ Huế và kết thúc tác phẩm chính là một điệu hò đậm chất Huế thân yêu.

Mùa xuân nho nhỏ là một bài thơ rất hay, bởi âm điệu trầm bổng, ngân nga, câu từ giản dị nhưng sâu sắc. Bộc lộ được tấm lòng yêu mến mùa xuân của thiên nhiên, mùa xuân của quốc gia, và những khát khao cháy bỏng, mãnh liệt được hiến dâng hết cái phần đẹp đẽ, một mùa xuân nho nhỏ mang tên Thanh Hải cho thế cuộc này bằng những xúc cảm thành tâm, tha thiết, khiêm nhượng, giản dị của một con người sắp đi xa. Và có nhẽ rằng tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ chính là cống hiến, chính là mùa xuân mà tác giả đã để lại cho đời, cho nền văn học Việt Nam một cách thành tâm và đáng quý nhất với vai trò là một thi nhân.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 2

Thanh Hải là một thi sĩ của xứ Huế mộng mơ, có công xây dựng nền cách mệnh miền Nam ngay từ những ngày đầu “Mùa xuân nho nhỏ” sáng tác năm 1980 khi ông đang nằm trên giường bệnh và không lâu sau ông qua đời. Bài thơ là tiếng lòng là ước nguyện cống hiến thành tâm, tha tiết của ông. Đồng thời tác phẩm thể hiện niềm tha thiết mến yêu thế cuộc yêu quê hương quốc gia của một trái tim dạt dào xúc cảm trữ tình.

Mỗi tác giả luôn gửi vào tranh thơ của mình những xúc cảm riêng mang đậm cách cảm cách nghĩ về đề tài đã lựa lựa chọn. Với Thanh Hải ông đã lựa lựa chọn hình ảnh mùa xuân xứ Huế, mùa xuân quốc gia đang đi lên và phát triển để nói lên tiếng lòng, ước nguyện cống hiến của mình.

Trước hết là bức tranh xuân xứ Huế trong cảm nhận của Thanh Hải:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiền
Hót chi mà vang trời”

Bức tranh xuân xứ Huế mở ra với những tín hiệu đặc trưng: dòng sông xanh, bông hoa tím, tiếng chim chiền chiện hót. Tác giả đặt từ “ mọc” lên trước tạo điều kiện cho cảnh vật trở nên sinh động có hồn. Bông hoa tím phải chăng là bông hoa súng hay bông hoa lục bình đang từ từ xoè nở trên mặt nước sông Hương. Sự phối sắc hài hoà giữa hai gam màu tím và xanh tạo nên một bức tranh xuân mang vẻ đẹp đằm thắm nhẹ nhõm. Bức tranh ấy không chỉ có hoạ mà còn có nhạc. Âm thanh tiếng chim chiền chiền ngân vang ngân cao, ngân xa tạo điều kiện cho không khí trở nên vui tươi rộn ràng. Chỉ bằng bốn câu thơ Thanh Hải đã vẽ nên bức tranh xuân đằm thắm trầm mộc, mang cả tiếng lòng đắm say của thi sĩ.

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Giọt long lanh phải chăng là giọt mưa xuân, nắng xuân, sương xuân còn đọng lại trên cành cây kẽ lá. Nhưng trong lời thơ này, đây phải chăng là giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện. Tác giả trân trọng đón nhận từng giọt âm thanh, những vẻ đẹp tinh tuý của đất trời.

Trước thiên nhiên đất trời thơ mộng, Thanh Hải mở rộng lòng mình cảm nhận hình ảnh mùa xuân quốc gia:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao”

Điệp từ “mùa xuân” gắn với hai hình ảnh người cầm súng, người ra đồng – tượng trưng cho hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng của quốc gia ta trong những thập niên tám mươi của thế kỉ hai mươi là sẵn sàng tranh đấu bảo vệ tổ quốc và lao động sản xuất xây dựng quốc gia. Mùa xuân tới thanh niên lên đường đi tòng ngũ còn người đội viên trên thao trường tích cực rèn luyện. Họ dắt trên lưng vành lá ngụy trang như mang cả mùa xuân ra trận địa. Mùa xuân tới người nông dân ra đồng trồng cây họ như mang cả mùa xuân ra cánh đồng bằng bàn tay bằng sức lao động. Điệp từ “ lộc” cùng từ láy “ tất tả, xôn xao”diễn tả khí thế của cả dân tộc khi bước vào mùa xuân mới tưng bừng khởi sắc.

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Thanh Hải lắng lại lòng mình để nghĩ về quốc gia trong lịch sử hiện tại và tương lai. Nhân dân ta đã trải qua bao thời kì lúc hưng thịnh, lúc suy vong của những thời đại phong kiến và sắp đây nhất nhất là hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. quốc gia óng ánh những chiến công trong lịch sử đẹp như những vì sao tinh tú trên bầu trời. quốc gia đang thẳng tiến tới tương lai bằng sức mạnh bằng bề dày lịch sử bốn nghìn năm. Cụm từ “cứ đi lên” như một mệnh đề thẳng tiến mà không một thế lực nào có thể ngăn cản.

Trong sắc xuân tươi đẹp của đất trời, Thanh Hải cảm nhận được một mùa xuân đang trỗi dậy từ chính tâm hồn – xuân của lòng người, của sự cống hiến, hi sinh.

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”

Đoạn thơ thể hiện khát vọng được hoà nhập, được cống hiến những điều tốt đẹp cho thế cuộc chung. Niềm mong ước của ông thật giản dị trân thành được thể hiện qua những hình ảnh “con chim, cành hoa, nốt trầm”. Đây là những hình ảnh sắp gũi, nhỏ bé giữa thiên nhiên, cuộc sống. Hình ảnh ẩn dụ đặc sắc cho thấy mong ước của tác giả dược cống hiến một phần công sức nhỏ của mình để làm vui, làm đẹp, tô điểm cho cuộc sống, cho toàn cầu tâm hồn mỗi người. Đại từ nhân xưng “ta” mang thông điệp của tác giả. Ta ở đây là Thanh Hải là mọi người. Ông nói thay tiếng lòng của bao người dân Việt Nam về ước mong giản dị nhẹ nhõm được cống hiến cho thế cuộc chunh những nét đẹp riêng :

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

Hình ảnh ẩn dụ đặc sắc đầy sáng tạo “ một mùa xuân nho nhỏ” mang tâm niệm của tác giả: mỗi người hãy là một mùa xuân nhỏ góp phần làm nên mùa xuân lớn của quốc gia. Cống hiến một cách trân thành tha thiết không phô trương, không phân biệt tuổi tác, nghề nghiệp. Đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ khiến ta càng trân trọng hơn một tâm hồn thơ tha thiết mến yêu thế cuộc yêu cuộc sống.

“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Điệu Nam ai hò sáu nhịp tiếng ai oán bi thương, điệu Nam Bình hò ba nhịp tiếng ca dịu dàng, trìu mến. Đây chính là nét đặc trưng của làn điệu xứ Huế. Thanh Hải như muốn sống mãi với điệu hò quê hương.

Bài thơ mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải được viết theo thể thơ năm chữ nhạc điệu trong sáng sắp gũi gợi hình gợi cảm từ đó nói lên tiếng lòng trân thành tha thiết của thi sĩ, mong muốn được cống hiến một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng quốc gia. Đặt trong hoàn cảnh khi ông đang nằm trên giường bệnh ta càng cảm thấy trân trọng một tâm hồn thơ tha thiết mến yêu thế cuộc yêu quê hương quốc gia.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 3

Núi Ngự sông Hương là quê hương thân yêu của thi sĩ Thanh Hải. Ông là thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Mồ anh hoa nở, Những đồng chí trung kiên, Mùa xuân nho nhỏ… là những bài thơ đặc sắc nhất của Thanh Hải.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết vào năm 1980, trong quang cảnh hòa bình, xây dựng quốc gia. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang. quốc gia vào xuân vui tươi rộn ràng.

Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên “một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hoan hỉ đón chào tín hiệu mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc.

“Bông hoa tím biếc” ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sông nước làng quê:

Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…

(Trở về quê nội – Lê Anh Xuân)

Màu xanh của nước hòa hợp với màu “tím biếc”của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Ngẩng nhìn bầu trời, thi sĩ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót – Chim chiền chiện còn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nông gia. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:

Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.

Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu thân yêu của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả xúc cảm thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót gọi xuân về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem tới bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, thi sĩ bổi hổi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

“Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. “Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện? Sự chuyển đổi cảm giác (thính giác – thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm mĩ của âm thanh.

Tóm lại, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót…, Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của quốc gia vào xuân. Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và tranh đấu của nhân dân ta. Cấu trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ

“Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chồi nảy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của quốc gia. Người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc.

Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động chuyên cần làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “trải dài nương mạ” bát ngát quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao.

“tất tả” tức là vội vã, gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” nghĩa có rất nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau, làm cho náo động; ở trong câu thơ, “xôn xao” cùng với điệp ngữ “tất cả như… ” làm cho câu thơ vang lên tiết điệu vui tươi, mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc Mùa Xuân của thời đại Hồ Chí Minh. Đoạn thơ tiếp theo nói lên những suy tư của thi sĩ về quốc gia và nhân dân:

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Chặng đường lịch sử của quốc gia với bốn nghìn năm trường tồn, lúc suy vong, lúc hưng thịnh với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Thời gian đằng đẵng ấy, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi, lòng yêu nước và ý thức quả cảm để xây dựng và bảo vệ quốc gia. Dân ta tài trí và nhân nghĩa.

Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt đã khẳng định sức mạnh Việt Nam. Câu thơ “quốc gia như vì sao” là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng óng ánh, là vẻ đẹp bầu trời, vĩnh hằng trong không gian, và thời gian. So sánh quốc gia với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với quốc gia Việt Nam anh hùng, giàu đẹp. Hành trang đi tới tương lai của dân tộc ta không một thế lực nào có thể ngăn cản được: “Cứ đi lên phía trước”.

Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh. Sau lời suy tư là điều tâm niệm của Thanh Hải. Trước hết là lời nguyện cầu được hóa thân:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào họa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

“Con chim hót” để gọi xuân về, đem tới niềm vui cho con người. “Một cành hoa” để tô điểm cuộc sống, làm đẹp thiên nhiên sông núi. “Một nốt trầm” của bản “hòa ca” êm ái để làm xao xuyến lòng người, khích lệ nhân dân. “Con chim hót”, “một cành hoa”, “một nốt trầm…” là ba hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, niềm vui, cho tài trí của quốc gia và con người Việt Nam. Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân bất diệt của quốc gia. Ai cũng phải có ích cho đời. “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: “Mỗi thế cuộc đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ” và “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, thành tâm. “Dâng cho đời” là lẽ sống đẹp, cao cả. Bởi lẽ “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu).

Sống hết mình thủy chung cho quốc gia, đem cả thế cuộc mình phục vụ quốc gia, cả từ lúc “tuổi hai mươi” trai tráng cho tới khi về già “tóc bạc”. Thơ hay là ở xúc cảm thành tâm. Thanh Hải đã nói lên những lời gan ruột của mình. Ông đã sống như lời thơ ông tâm tình. Khi quốc gia bị Mỹ – Diệm và bè lũ tay sai mưu mô chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mệnh, khinh thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng giải pháp nghệ thuật điệp ngữ rất tài tình: “Ta làm… ta làm… ta nhập…”, “dù là tuổi… dù là khi… ” đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng điệu thơ trữ tình, rét mướt tình đời tương tự. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăng trối của ông.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân ta xin hát” diễn tả niềm thèm khát bổi hổi của thi sĩ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương quốc gia trải dài nghìn dặm, chứa chan tình yêu thương. Đó là “nghìn dặm mình”, “nghìn dặm tình” đối với non sông và xứ Huế quê mẹ thân yêu! Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt”.

Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Thanh Hải đã góp cho thơ ca dân tộc một bài thơ xuân đẹp, mặn mà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. tiếng nói thơ trong sáng và biểu cảm, súc tích và hình tượng. những giải pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, song hành đối xứng, điệp ngữ… được vận dụng sắc sảo, tài hoa.

Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quốc gia, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một thế cuộc hãy là một mùa xuân. quốc gia ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 4

Thanh Hải là một thi sĩ trưởng thành trong thời kì quốc gia gồng mình kháng chiến chống Mỹ. Cùng hoà mình trong tiết điệu hào hùng của dân tộc, Thanh Hải có những sáng tác riêng về con người quốc gia thời kì này. Năm 1980, khi quốc gia đã trải qua thời kì kháng chiến sục sôi được 5 năm và lúc đó thi sĩ đang nằm trên giường bệnh, ông đã viết nên những vần thơ trong trẻo, nhiệt huyết về quốc gia. Đó là bài thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam thời kì này: “Mùa xuân nho nhỏ”.

Mở đầu khổ thơ là bức tranh mùa xuân hiện ra:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Đảo từ: “Mọc” cùng từ “một” ngay đầu câu thơ không chỉ trình bày một bông hoa tím biếc nổi trội giữa nền trong xanh của dòng sông, mà còn thấy được cả một quá trình sinh sản và phát triển. Trên nền bức tranh mùa xuân nổi trội một bông hoa tím mang trong mình sự sống nhiệt huyết trỗi dậy, một sức sống vô cùng mãnh liệt. Bức tranh mùa xuân với gam màu tươi tỉnh của hoa tím, sông xanh làm lòng người thanh mát.

Tiếng “Ơi” đầu câu thơ thứ ba như tiếng gọi thân yêu, trìu mến. Tiếng hót của chú chim chiền ngân vang làm xáo động cả đất trời. Nghệ thuật nhân hóa khiến cho chú chim trong bài thơ trở nên sắp gũi hơn bao giờ hết. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác ở câu thơ :” Từng giọt long lanh rơi” hướng ta liên tưởng tới đó có thể là giọt mưa mùa xuân hay là giọt âm thanh thánh thót của chú chim hay đó là hình ảnh con chim bay vút lên trời cao rồi thả tiếng hót thật trong, thật tròn, thật vang.

Âm thanh không hề tan, không biến mất mà ngưng đọng thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc. Những giọt ngọc đó được tác giả nâng niu, trân trọng mà “ đưa tay ra hứng”. Bức tranh mùa xuân với những đường nét đặc trưng của Huế với không gian cao rộng, thoáng đãng, sắc màu pha trộn hài hòa. thi sĩ mở mọi giác quan của mình để cảm nhận. Đoạn thơ có cả chất nhạc, chất họa, tựa như tiếng tâm hồn của thi sĩ bay bổng, say sưa trước thiên nhiên đất trời.

Đứng trước mùa xuân của quốc gia, Thanh Hải lại có những cảm nhận khác:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao”

Hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng” tượng trưng cho mùa xuân, cho những con người làm nên lịch sử mùa xuân. Hình ảnh “lộc” ẩn dụ cho nhành non lộc biếc, cho sức sống, sức vươn lên phát triển của những trị giá thành tựu tốt đẹp. Lộc non theo người lính ra chiến trường, theo tay người nông dân trải đầy ruộng nương. Nghệ thuật sóng đôi và đối nhau tạo ra một cặp hình ảnh tượng trưng cho hai lớp người : người ở nơi tiền tuyến, người nơi hậu phương.

Đó đều là những con người mang mùa xuân về cho quốc gia, làm ra mùa xuân cho dân tộc. Điệp cấu trúc: “Tất cả như” cùng từ láy “tất tả, xôn xao” diễn tả không khí lên đường, sự khẩn trương, rộn ràng, hào hứng trong những năm tháng gian lao. Khổ thơ:

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

với cách sử dụng nghệ thuật nhân hóa và so sánh biến quốc gia trở thành con người : vất vả, gian lao” diễn tả sức sống dẻo dai, kiên định, vững vàng và trong sáng. Hình ảnh ví von quốc gia với vì sao như thể khẳng định dân tộc sáng mãi với thời gian, vũ trụ. Qua khổ thơ ta thấy được niềm tin vào tương lai rộng mở vững chãi, niềm tin vững vàng bước vào thế kỉ mới, thời kì của tự do, độc lập.

Trước mùa xuân đất trời và mùa xuân quốc gia, tác giả tâm niệm:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào họa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Tác giả ước là con chim hót để dâng tiếng ca vang vọng trong trẻo, ước làm nhành hoa để dâng hương cho đời. Tác giả còn ước làm “một nốt trầm” trong bản hòa tấu của thế cuộc, để lặng lẽ mang thanh âm trong trẻo vào hòa ca. Ước nguyện của thi sĩ giản dị thể hiện quan niệm sống đẹp, trách nhiệm với thế cuộc chung.

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Với tác giả mùa xuân của ông là “mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của quốc gia. Mùa xuân ấy cứ “lặng lẽ” thầm lặng cống hiến bằng tình yêu , nhiệt huyết, khiêm nhượng, thầm lặng. Điệp ngữ: “dù là” cùng hình ảnh hoán dụ ở hai câu cuối “tuổi hai mươi” tượng trưng cho tuổi xanh, “tóc bạc” tượng trưng cho tuổi già.

Ở khoảng thời gian nào tác giả cũng khát vọng được cống hiến. Lời thơ của Thanh Hải như lời tổng kết về thế cuộc chính mình, gợi bao liên tưởng xúc động cho độc giả và thấm đẫm triết lý nhân văn. Khổ thơ cuối là lời ngợi ca quốc gia:

Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

xúc cảm mãnh liệt đựng thành lời ca mến yêu và tự hào trong tiếng hát tự nguyện của làn điệu quê hương Huế. Phải là con người tha thiết, yêu cuộc sống, phải là một tâm hồn tràn đầy sinh lực mới đựng lên được tiếng hát ngợi ca yêu đời như Thanh Hải. Tiếng ca ấy còn mãi với thời gian, với quốc gia, đi ngược với mọi quy luật mất còn của tạo hóa.

Bài thơ “ Mùa xuân nho nhỏ” với thể thơ năm chữ gắn với những điệu dân ca thích hợp với việc giãi bày tâm trạng đã vẽ lại một bức tranh toàn cảnh của mùa xuân thiên nhiên, mùa xuân quốc gia. tiết điệu và giọng điệu thơ thích hợp với tâm trạng hào hứng, nhiệt huyết của tác giả khiến người đọc không thể nghĩ đây là những vần thơ của một con người sắp sắp đất xa trời.

quốc gia ngày một phát triển, mùa xuân quốc gia ngày càng đẹp nhưng những vần thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” vẫn đi mãi với thời gian bởi đó không chỉ là xúc cảm của Thanh Hải mà còn là những bài học nhân sinh sâu sắc.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 5

Mùa xuân là mùa tụ họp của cái đẹp, căng tràn sức sống vào buổi rạng đông với những chồi non lộc biếc, tiếng chim ca vui về làm tổ, với những nàng xuân dịu dàng hát câu quan họ… có nhẽ vì vậy mà thi nhân muôn thuở yêu mến xuân. Xuân đi vào lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ là những trang thơ văn, mà ở đó, xuân là món quà vô giá mà thiên nhiên tặng thưởng cho con người. Ta đã có Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính), Mùa xuân chín (Hàn Mặc Tử), Một khúc ca xuân (Tố Hữu)… và giờ, với Thanh Hải, ta được thưởng thức một Mùa xuân nho nhỏ thân yêu, sắp gũi.

Bài thơ được ra đời lúc thi sĩ Thanh Hải đang tranh giành với tử thần từng phút sống, từng tương đối thở cuối cùng. Trong tâm lí nặng nề vì bệnh tật giày vò mà hồn thơ Thanh Hải vẫn đựng cánh bay cao để rồi mang tới cho đời một tình yêu cuộc sống thiết tha và ước nguyện thành tâm được cống hiến trọn vẹn thế cuộc mình cho Tổ quốc thân yêu. Tác giả muốn dâng tặng Mùa xuân nho nhỏ cho đời.

Bài thơ mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên mùa xuân mang sắc màu và âm thanh thân thuộc của đồng quê được vẽ bằng hình ảnh bình dị, lựa chọn lọc, gợi cảm. xúc cảm trước mùa xuân của tác giả mở ra thật ngỡ ngàng, không gian nhịn nhường như tươi mới hơn, thánh thót hơn.

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Đó là màu tím biếc của bông hoa dân dã soi bóng dưới dòng sông trong xanh. Đặc biệt là tiếng chim chiền chiện trong trẻo, loài chim đựng tiếng hót báo hiệu tin vui, đem lại cuộc sống no đủ, hạnh phúc cho con người. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất trước đất trời xuân. Tất cả gợi cho ta cảm giác một không gian bận bịu và chắt chiu. Hai tiếng “hót chi” là giọng điệu thân yêu của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả xúc cảm thiết tha giữa người với tạo vật. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, thi sĩ bổi hổi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Tiếng chim chiền chiện thả vào không gian trong suốt của mùa xuân được cảm nhận thành từng giọt mang màu sắc long lanh. Điều đó cũng chứng tỏ một tâm hồn thi sĩ nhạy cảm, một tấm lòng thiết tha yêu mến cuộc sống tươi đẹp này. “Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị mà trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa.. Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp tươi và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của quốc gia vào xuân.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời, dẫn tới cảm nhận về mùa xuân của quốc gia. Sự chuyển mạch ấy là tự nhiên và hợp lí. Bởi mùa xuân là “lộc” đất trời của chung mọi người.

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ

“Lộc” ở đây có thể hiểu là sức mạnh dân tộc, “lộc trải dài nương mạ” là sự tất tả xôn xao cho một mùa màng mới, cho đồng ruộng vẫn mãi mãi ngút nghìn một màu xanh. “Người cầm súng và “người ra đồng” là hai lực lượng chính dựng xây Tổ quốc. Đây là mùa xuân trách nhiệm gắn với ý thức bảo vệ dân tộc. Câu thơ mang một ý nghĩa sâu sắc: Người ra trận phải đổ máu, người ra đồng phải đổ mồ hôi nước mắt. Máu, mồ hôi, nước mắt của nhân dân ta đã góp phần giữ lấy mùa xuân mãi mãi của dân tộc.

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Biết bao nhiêu mùa xuân ông cha ta đánh giặc giữ nước, bao nhiêu mùa xuân lập chiến công chống quân xâm lược “vất vả và gian lao”. Thanh Hải tự hào khi nghĩ về quốc gia với bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. quốc gia như vì sao sáng vượt qua vất vả và gian lao để đi lên phía trước. Từ “cứ” đặt đầu câu thơ như một sự khẳng định, thể hiện một chân lí đơn thuần mà thiêng liêng. Có thể nói bao nỗi nhọc nhằn, đắng cay của dân tộc được đáp lại bằng những mùa xuân tiếp nối vô tần. Đó là lòng tự hào, lạc quan, tin yêu của thi sĩ đối với quốc gia, với dân tộc.

Rung cảm thiết tha trước mùa xuân quốc gia, thi sĩ bộc bạch một ước nguyện thành tâm:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào họa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

“Con chim hót” để gọi xuân về, mang hạnh phúc yên vui cho mọi người, “một cành hoa” để tô điểm cho núi sông, một nốt nhạc trầm “xao xuyến” trong khúc ca phấn chấn tự hào động viên, khích lệ. Chữ “tôi” ở khổ thơ đầu được thay thế bằng chữ “ta” đầy hào hứng, sảng khoái, nó thể hiện tư thế hòa mình của thi sĩ vào cuộc sống, vào mùa xuân tới với mọi người.

Mỗi người cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” đã là một: cuộc hiến dâng thật đầy đủ, thật trọn vẹn.

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

nếu như có ý thức hết mình, sống hết mình, lao động hết mình thì mùa xuân làm gì có tuổi? Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: “Mỗi thế cuộc đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ” và “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, thành tâm. “Dâng cho đời” là lẽ sống đẹp, cao cả. Thanh Hải như nhắc ta hãy sống cho tất cả, sống cho tình thân ái mông mênh và sống để cống hiến toàn vẹn cho quốc gia, cho thế cuộc. Phải chăng đây chính là điều mong ước tột cùng đã đi theo tác giả suốt thế cuộc? Dù vẫn biết ngày mai rất có thể sẽ phải từ giã cõi đời này nhưng tiếng thơ Thanh Hải vẫn tràn ngập niềm tin và hy vọng vào cuộc sống.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai, Nam Bình là hai nhạc điệu nổi tiếng của xứ Huế từ bao đời nay. Câu hát truyền thống ấy đi mãi cùng trái tim một người con tới giây phút cuối cùng vẫn còn mong mỏi mãnh liệt hơn bao giờ hết khát vọng cống hiến vẹn toàn cho quê hương quốc gia.

Mùa xuân nho nhỏ là một bức tranh mùa xuân thiên nhiên tuyệt đẹp, vừa là tiếng hát nhẹ nhõm tha thiết, sâu lắng về khát vọng cống hiến cho quốc gia của thi sĩ Thanh Hải. Và đó cũng chính là một “mùa xuân nho nhỏ” mà Thanh Hải để lại cho đời trước lúc đi xa.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 6

Mùa xuân là để tài vô tận của thơ ca. Song, cái cảm nhận về mùa xuân của những thi sĩ theo thời gian có rất nhiều thay đổi. Đối với Mãn Giác Thiền sư, một cao tăng nổi tiếng thời Lý, mùa xuân mang một tính triết lý sâu sắc:

“Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai”

Còn đối với những thi sĩ trước cách mệnh, mùa xuân gợi lên một nét sầu cảm:

“Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Mang chi xuân tới gợi thêm sầu.” (Chế Lan Viên)

Nhưng đối với thi sĩ Thanh Hải, mùa xuân mang một nét đẹp đáng yêu tươi thắm; gợi lên trong lòng người đọc nhiều hình ảnh rộn rực tươi trẻ. vì vậy, mùa xuân trong thơ của Thanh Hải là biểu tượng cho sức sống mạnh mẽ của quê hương, dân tộc. Tất cả đã được thể hiện rõ nét trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”, một bài thơ đặc sắc được thi sĩ viết không lâu trước khi qua đời.

Người xưa có câu: “Thi trung hữu họa”. Thơ ca vẽ nên những bức tranh tuyệt đẹp của cuộc sống. Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đã phác họa nên một bức tranh xuân giản dị mà tươi đẹp:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

“Dòng sông xanh” gợi nhắc hình ảnh những khúc sông uốn lượn của dải đất miền Trung quanh co, đó có thể là dòng sông Hương thơ mộng, một vẻ đẹp lắng đọng của xứ Huế mộng mơ.Trên gam màu xanh lơ của dòng sông thơ mộng, nổi trội lên hình ảnh “một bông hoa tím biếc”. Không có màu vàng rực rỡ của hoa mai, cũng không có màu đỏ thắm của hoa đào, mùa xuân của TH mang một sắc thái bình dị với màu tím biếc của bông hoa lục bình. Đây là một hình ảnh mang đậm bản sắc của cố đô Huế. Không biết tự bao giờ màu tím đã trở thành màu sắc đặc trưng của con người và đất trời xứ Huế. Màu tím biếc gợi nhớ hình ảnh những nữ sinh xứ Huế trong những bộ áo dài màu tím dịu dàng thướt tha. thi sĩ đã sử dụng giải pháp nghệ thuật đảo ngữ, đưa động từ ” mọc” lên đầu câu như một cách để nhấn mạnh vẻ đẹp tươi trẻ, đầy sức sống của mùa xuân thiên nhiên. Trong bức tranh mùa xuân của TH, không chỉ có hình ảnh , mà còn có âm thanh xao xuyến, ngân nha của con chim chiền chiện. Tiếng chim lảnh lót vang lên làm xao động cả đất trời, làm xao xuyến cả tâm hồn thi sĩ nhạy cảm của thi sĩ. Những từ ngữ cảm thán “ơi, hót chi” đã thể hiện rõ nét xúc cảm của thi sĩ. Mùa xuân của thiên nhiên đã đem tới cho thi sĩ một cảm giác ngây ngất. Mùa xuân ấy không có gì khác lạ, vẫn là một mùa xuân rất giản dị trên quê hương xứ Huế của thi sĩ. Nhưng thi sĩ bỗng trông thấy vẻ đẹp lạ kì của mùa xuân, một vẻ đẹp mà lâu nay thi sĩ không để ý. Phải chăng vì đây là lần cuối cùng được ngắm nhìn mùa xuân quê hương nên thi sĩ cảm thấy mùa xuân ấy đẹp hơn, tươi sáng hơn ?

Say sưa, ngây ngất trước vẻ đẹp giản dị và nên thơ của mùa xuân, thi sĩ bổi hổi xúc động:

“Từng giọt long lanh rơi
ôi đưa tay tôi hứng”

“Giọt long lanh” là giọt mưa xuân, giọt nắng vàng hay giọt sương sớm ? Theo mạch xúc cảm của thi sĩ thì có nhẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang. Bằng một cảm nhận tinh tế, thi sĩ đã hình tượng hóa tiếng chim thành một sự vật có hình dáng, đây là một sự sáng tạo rất mới mẻ chỉ có thể có được nhờ tâm hồn nhạy cảm của một thi sĩ. tương tự, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím và tiếng chim ngân vang khắp đất trời, thi sĩ đã phác họa nên một bức tranh xuân tuyệt đẹp trên cố đô Huế.

Từ vẻ đẹp thanh khiết của mùa xuân thiên nhiên, thi sĩ liên hệ tới mùa xuân của quốc gia, mùa xuân của cách mệnh:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ

Bốn câu thơ mang cấu trúc song hành thể hiện rõ hai nhiệm vụ của nhân dân: tranh đấu bảo vệ Tổ quốc và sản xuất làm giàu nước nhà. Hai nhiệm vụ ấy đặt nặng lên vai của người đội viên – “người cầm súng” và người nông dân – “người ra đồng”. Nét đặc sắc của đoạn thơ là việc sáng tạo hình ảnh “lộc”. “Lộc” là chồi non, cành biếc; “lộc” còn tượng trưng cho sự may mắn, niềm an lành trong năm mới. Đối với người đội viên, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù. Đối với người nông dân, “lộc” là những mầm mạ non trải dài trên đồng ruộng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. Người đội viên tranh đấu bảo vệ Tổ quốc sẽ đem về “lộc” là sự an lành niềm vui, niềm tự hào thắng lợi cho dân tộc. Người nông dân gieo trồng lúa trên đồng ruộng sẽ đem về “lộc” là những hạt gạo trắng ngần, những bát cơm ngọt nhạt cho đồng bào cả nước. Cả dân tộc bước vào xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

“Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao…”

Bằng cách sử dụng từ láy “tất tả-xôn xao” cùng với điệp từ, tác giả đã mang tới cho câu thơ một nét rộn ràng, tấp nập. “tất tả” tức là vội vã, khẩn trương. “Xôn xao” là có rất nhiều âm thanh trộn lẫn vào nhau, làm cho náo động. Từ những âm thanh xôn xao và sự tất tả của con người, thi sĩ lại suy tư về sự phát triển của quốc gia qua bốn nghìn năm lịch sử:

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 7

Là tác phẩm cuối cùng của thi sĩ Thanh Hải, được viết vào tháng 11 – 1980, bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của ông dã diễn đạt cảm hứng đón nhận thanh sắc, đất trời mùa xuân, cảm nhận đầy tự hào về bước đi lên thanh xuân của quốc gia. Đồng thời, bài thơ cũng là một tâm nguyện hiến dâng sức xuân trong cuộc sống cách mệnh của quốc gia.

Bài thơ đi theo một mạch xúc cảm khởi đầu từ những xúc cảm trực tiếp trước vẻ đẹp của sức sống mùa xuân xứ Huế từ đó liên tưởng tới mùa xuân của quốc gia, của cách mệnh. Sau đó đẩy mạnh xúc cảm tới những ước nguyện của bản hoà ca thế cuộc. Và cuối cùng, bài thư lại trở về với xúc cảm thiết tha tự hào qua làn điệu dân ca xứ Huế.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã vẽ ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân xứ Huế tươi mát đẹp đẽ để từ đó bộc lộ những cảm hứng say đắm, đón nhận thanh sắc đất trời mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc

Chỉ bằng một vài nét phác hoạ, bức tranh mùa xuân quê hương đã hiện lên với một khoảng không gian thoáng đãng, cao rộng, êm dịu và đầy chất thơ. Bức tranh ấy được mở ra bằng chiều dài của dòng sông, chiều cao của bầu trời và chiều sâu của xúc cảm. Bức tranh là một sự pha trộn đặc biệt của màu sắc. Nó có sắc tím biếc, tươi tỉnh, đằm thắm của một bông hoa đang mọc giữa dòng sông xanh. Bằng việc sử dụng đảo ngữ từ mọc lên đầu cùng với việc sử dụng lượng từ một tác giả đã nhấn mạnh sự xuất hiện đột ngột, bất thần cùng với sức sống mạnh mẽ căng tràn của sức xuân thể hiện qua hình ảnh bông hoa. Màu tím biếc như có sức lan toả cả mặt sông xanh, hoà quyện với nhau tạo cảm giác dịu mát hài hoà, vừa là tín hiệu của mùa xuân, vừa là vẻ đẹp tinh tuý của đất trời. Hơn thế nữa, bức tranh mùa xuân còn ghi vào lòng người những âm thanh lảnh lót của con chim chiền chiện, khiến cho niềm xúc động bổi hổi, xốn xang chợt bật thành tiếng hỏi:

Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Bằng nghệ thuật chuyển đổi cảm giác, mùa xuân tình cảm của tác giả được thể hiện thật mãnh liệt, ông dang rộng vòng tay, mở rộng tấm lòng, trân trọng nâng niu đón nhận mùa xuân. Tiếng chim vang ra, không tan ra, loang vào không trung mà tuôn ra thành tiếng rõ ràng, tròn trịa kết tinh thành từng giọt, kết lại thành dấu ấn mùa xuân để thi sĩ hứng với đôi bàn tay trân trọng và tấm lòng rộng mở. Cả đoạn trên đã không chỉ lột tả được vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn diễn tả được sự say đắm, ngỡ ngàng và thái độ đón nhận trân trọng, nâng niu của tác giả.

Sau những xúc cảm trước mùa xuân của thiên nhiên, khổ thơ thứ hai trong bài là những cảm nhận thật hơn về sức xuân nảy nở nơi những con người tranh đấu và lao động – hai mẫu người gắn liền với chiều dài lịch sử phát triển của quốc gia. Bốn câu thơ lặp lại từng cặp cấu trúc sánh duyên cùng điệp ngữ mùa xuân xuất hiện đầu hai câu 1 – 3 đã gợi ra những hình ảnh về đoàn quân cầm súng và đoàn người ra đồng. không những thế, tác giả sử dụng thêm từ lộc để nói tới sức xuân đang nảy nở. Cành lá ngụy trang trên lưng người ra đồng, dẫu là cành nhưng trước sức xuân nhiệm màu vẫn đâm chồi nảy lộc. Những cây mạ non vừa được gieo xuống trong khí xuân, chẳng đợi thời gian đâm chồi trải dài nương mạ. sử dụng từ lộc để diễn tả sức xuân nảy nở mãnh liệt đang trào dâng của thiên nhiên đất trời, đồng thời còn thể hiện sức xuân của con người. Những con người cầm súng, truyền sức xuân cho cành lá ngụy trang trên lưng nảy lộc, những người ra đồng gieo mạ xuống đất hay là đang gieo xuống những mùa xuân:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ

Họ đã mang cả mùa xuân, sức xuân ra đồng, ra chiến trường và hơn thế nữa, họ đang mang cả mùa xuân về cho quốc gia. Từ hai hình ảnh của hai lớp người này tác giả đã đi tới một khái quát cao hơn đối với tất cả.

Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao…

Cả dân tộc đang hừng hực sức sống mới trước mùa xuân nhiệm màu. Tất cả đang vội vã, khẩn trương trong công việc để cống hiến, xây dựng quốc gia. Và thêm nữa, từ xôn xao như diễn đạt một sự thay đổi, một sự biến chuyển trong tâm hồn mỗi con người trước mùa xuân. Tất cả mọi người đang đóng góp những mùa xuân nhỏ bé của mình cho mùa xuân của quốc gia:

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Mùa xuân của quốc gia được cảm nhận trong sự tổng kết chiều dài lịch sử bốn nghìn năm với bao vất vả, gian lao và quốc gia được so sánh với vì sao, nguồn sáng kì diệu của thiên hà, vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên vũ trụ. quốc gia ấy như một bà mẹ tảo tần, vất vả, qua bao gian lao thử thách vẫn tự hào, ngoan cường cứ đi lên phía trước không chỉ bằng sức mạnh của ngày hôm nay mà bằng sức mạnh của bốn nghìn năm lịch sử. Câu thơ như là một điểm nhấn, lời tổng kết về sức sống mãnh liệt của quốc gia đồng thời ẩn chứa niềm tự hào, niềm tin của tác giả vào thế cuộc và quốc gia.

Khổ thơ thứ tư, năm là hai khổ thơ bộc lộ rõ nhất chủ đề của bài thơ đó là ước nguyện thiết tha muốn hoà đồng cùng mùa xuân quốc gia, ước nguyện hiến dâng tài sức cho đời. Và trước tiên, ước nguyện của thi sĩ là ước nguyện muốn hoà đồng cùng thiên nhiên quốc gia:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Ở khổ thơ này đã có sự lặp lại cấu trúc ngữ pháp, bắt gặp những hình ảnh bông hoa, con chim, những tín hiệu mùa xuân ở khổ thứ nhất. Trong vô vàn điều ước, tác giả chỉ ước làm một tiếng chim trong vô vàn giọng hót để gọi xuân về, một bông hoa trong muôn triệu đoá hoa để tô điểm cho mùa xuân. Những ước muốn giản dị để thành những vật nhỏ bé nhưng chính những vật nhỏ bé này lại góp phần quan trọng không thể thiếu để tạo nên mùa xuân, tạo nên sắc xuân. không những thế, tác giả còn muốn làm một nốt trầm trong bản hoà ca êm ái. Chỉ là một nốt trầm kín đáo, khiêm nhượng, chứ không phải là một nốt thanh thánh thót, nổi trội. Lẫn vào trong bản hoà ca, khó nghe và trông thấy những nốt trầm khiêm nhượng đó đã tạo nên cái hay của bản nhạc. Tác giả muốn làm một nốt trầm nhưng là nốt trầm xao xuyến, có sức ngân vang, một nốt trầm có ích cho đời. Những ước muốn tưởng như giản dị ấy lại có một ý nghĩa lớn lao đó là phải đóng góp những gì tươi đẹp nhất cho thế cuộc, cho quốc gia, dù đó là sự cống hiến khiêm nhượng, giản dị. Điều đó không chỉ ước muốn của riêng tác giả mà là của tất cả mọi người, tất cả chúng ta. Thông qua việc chuyển đổi đại từ tôi sang ta, ước nguyện riêng đã trở thành ước nguyện chung. Sau ước nguyên hoà đồng, tác giả đã đi tới khát vọng cống hiến dẻo dai của mình. Trong cảm hứng trữ tình, nhân vật trữ tình bỗng biến thành mùa xuân nho nhỏ, một mùa xuân không chỉ mang ý nghĩa mà là một mùa xuân nhỏ bé, có hình khối hữu hạn nhập vào mùa xuân rộng lớn của quốc gia:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.

Khổ thơ như là một lời nhắn nhủ, một lẽ sống. Sống là để cống hiến. Mùa xuân nho nhỏ còn là ý kiến đúng đắn về mối quan hệ giữa tư nhân và tập thể, giữa mỗi con người giữa thế cuộc chung của dân tộc. Thanh Hải đã lựa chọn cho mình một cách cống hiến riêng không phô trương, không ồn ào, cống hiến một cách thầm lặng lặng lẽ trong mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi. Khổ thơ là một sự tổng kết, chiêm nghiệm từ chính thế cuộc đã quyết tâm không biết mỏi mệt từ tuổi hai mươi căng tràn sức sống tới khi phải nằm trên giường bệnh của thi sĩ. Là lời cho riêng mình, đoạn thơ bỏ trống cách xưng hô nhưng điều đó lại như mở rộng tới mọi người, lay động người đọc cùng chung ý nghĩ.

Bài thơ ít nói tới Huế nhưng người đọc vẫn trông thấy một điều, bài thơ vẫn mặn mà chất Huế. Chất Huế nằm trong cảnh sắc nên thơ trong tâm hồn dịu dàng, đằm thắm trong những bài thơ ngũ ngôn, trong những bài dân ca Huế. Và đặc biệt chất Huế mặn mà ở khổ cuối trong tiếng hát, tình yêu nước non, tình yêu quê hương quốc gia

Mùa xuân tôi xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

nếu như những khổ thơ trên là những suy ngẫm cảm động về ước nguyện hiến dâng thì khổ thơ cuối thi sĩ lại muốn được đựng lên tiếng hát thiết tha dựa trên lời ca buồn bã của câu Nam ai Nam bình, Thanh Hải đã chuyển thành một nội dung đằm thắm chất Huế, vừa hoà chung cùng nước non.

Lời ca như vang vọng, gợi mở ra một cái tình nhỏ bé trong cái nghìn dặm rộng lớn, mênh mang nhưng vẫn rất sắp gũi, tràn đầy yêu thương và rét mướt. Tiếng hát đằm thắm hiền hoà xen với những tiếng phách giòn giã, tươi vui đã kết lại bài thơ. Bài thơ khơi lên là dòng sông là tiếng chim hót vang trời xứ Huế. Kết thúc lại là nước non và tiếng hát tươi vui cả tình yêu nước non nghìn dặm, tình yêu quê hương quốc gia.

Bài thơ được viết theo thể thơ năm tiếng, có nhạc điệu trong sáng, thiết tha sắp gũi vừa thể hiện ước nguyện thành tâm, tha thiết vừa như dựng lên một lẽ sống cao đẹp, cống hiến hết mình, dẻo dai mà thầm lặng, lặng lẽ.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 8

Thanh Hải là thi sĩ tiêu biểu của mảnh đất cố đô xinh đẹp, ông nổi tiếng với những vần thơ mượt mà, sâu lắng mang đậm văn hóa con người xứ Huế. Mùa xuân nho nhỏ là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ được ông viết vào năm 1980, trong quang cảnh hòa bình, trong công cuộc xây dựng quốc gia. Một hồn thơ trong trẻo. Một điệu thơ ngân vang quốc gia vào xuân vui tươi rộn ràng.

Sáu câu thơ đầu như tiếng hát reo vui đón chào một mùa xuân đẹp đã về. Trên dòng sông xanh của quê hương mọc lên ,một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” nằm ở vị trí đầu câu thơ gợi tả sự ngạc nhiên vui thú, một niềm vui hoan hỉ đón chào tín hiệu mùa xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh,
Một bông hoa tím biếc.

“Bông hoa tím biếc” ấy chỉ có thể là hoa lục bình, hoặc hoa súng mà ta thường gặp trên ao hồ, sông nước làng quê:

Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…

(Trở về quê nội – Lê Anh Xuân)

Màu xanh của nước hòa hợp với màu “tím biếc” của hoa đã tạo nên bức tranh xuân chấm phá mà đằm thắm. Ngẩng nhìn bầu trời, thi sĩ vui sướng lắng tai nghe chim chiền chiện hót. Chim chiền chiện còn gọi là chim sơn ca, bạn thân của nông gia. Từ “ơi” cảm thán biểu lộ niềm vui ngây ngất khi nghe chim hót:

Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.

Hai tiếng ”hót chi” là giọng điệu thân yêu của người dân Huế được tác giả đưa vào diễn tả xúc cảm thiết tha giữa người với tạo vật. Chim chiền chiện hót gọi xuân về. Tiếng chim ngân vang, rung động đất trời đem tới bao niềm vui. Ngắm dòng sông, nhìn bông hoa đẹp, nghe chim hót, thi sĩ bổi hổi sung sướng:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

“Đưa tay… hứng” là một cử chỉ bình dị trân trọng, thể hiện sự xúc động sâu xa. “Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ. Là giọt sương mai, hay giọt âm thanh tiếng chim chiền chiện? Sự chuyển đổi cảm giác (thính giác – thị giác) đã tạo nên hình khối thẩm mĩ của âm thanh.

Tóm lại, chỉ bằng ba nét vẽ: dòng sông xanh, bông hoa tím biếc, tiếng chim chiền chiện hót…, Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân đẹp và đáng yêu vô cùng. Đó là vẻ đẹp và sức sống mặn mà của quốc gia vào xuân.

Bốn câu thơ tiếp theo nói về mùa xuân sản xuất và tranh đấu của nhân dân ta. Cấu trúc thơ song hành để chỉ rõ hai nhiệm vụ chiến lược ấy:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ

“Lộc” là chồi non, cành biếc mơn mởn. Khi mùa xuân về cây cối đâm chồi nẩy lộc. “Lộc” trong văn cảnh này tượng trưng cho vẻ đẹp mùa xuân và sức sống mãnh liệt của quốc gia. Người lính khoác trên lưng vành lá ngụy trang xanh biếc, mang theo sức sống mùa xuân, sức mạnh của dân tộc để bảo vệ Tổ quốc. Người nông dân đem mồ hôi và sức lao động chuyên cần làm nên màu xanh cho ruộng đồng, “nương mạ” bát ngát trên quê hương. Ý thơ vô cùng sâu sắc: máu và mồ hôi của nhân dân đã góp phần tô điểm mùa xuân và để giữ lấy mùa xuân mãi mãi.

Cả dân tộc bước vào mùa xuân với khí thế khẩn trương và náo nhiệt:

Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao…

“tất tả” tức là vội vã, gấp gáp, khẩn trương. “Xôn xao” là có rất nhiều âm thanh xen lẫn vào nhau, làm cho náo động; ở trong câu thơ, “xôn xao” cùng với điệp ngữ “tất cả như… ” làm cho nhạc thơ vang lên tiết điệu vui tươi, mạnh mẽ khác thường. Đó là hành khúc mùa xuân của thời đại Hồ Chí Minh.

Đoạn thơ tiếp theo nói lên những suy tư của thi sĩ về quốc gia và nhân dân:

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Chặng đường lịch sử của quốc gia với bốn nghìn năm trường tồn, lúc suy vong, lúc hưng thịnh với bao thử thách “vất vả và gian lao”. Thời gian đằng đẵng ấy, nhân dân ta từ thế hệ này qua thế hệ khác đã đem xương máu và mồ hôi, lòng yêu nước và ý thức quả cảm để xây dựng và bảo vệ quốc gia. Dân ta tài trí và nhân nghĩa. Bốn nghìn năm lập quốc tỏa sáng nền văn hiến Đại Việt, đã khẳng định sức mạnh Việt Nam. Câu thơ “quốc gia như vì sao” là một hình ảnh so sánh đẹp và đầy ý nghĩa. Sao là nguồn sáng óng ánh, là vẻ đẹp bầu trời, vĩnh hằng trong không gian, và thời gian. So sánh quốc gia với vì sao là biểu lộ niềm tự hào đối với quốc gia Việt Nam anh hùng, giàu đẹp. Hành trang đi tới tương lai của dân tộc ta không một thế lực nào có thể ngăn cản được: “Cứ đi lên phía trước”. Ba tiếng “cứ đi lên” thể hiện chí khí, quyết tâm và niềm tin sắt đá của dân tộc để xây dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh”.

Sau lời suy tư là điều tâm niệm của Thanh Hải. Trước hết là lời nguyện cầu được hóa thân:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào họa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

“Con chim hót” để gọi xuân về, đem tới niềm vui cho con người. “Một nhành hoa” để tô điểm cuộc sống, làm đẹp thiên nhiên sông núi. “Một nốt trầm” của bản “hòa ca” êm ái để làm xao xuyến lòng người, khích lệ nhân dân. “Con chim hót”, “một nhành hoa”, “một nốt trầm…” là ba hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho cái đẹp, niềm vui, cho tài trí của quốc gia và con người Việt Nam.

Với Thanh Hải, hóa thân là để hiến dâng, để phục vụ cho một mục đích cao cả:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Lời thơ tâm tình thiết tha. Mỗi con người hãy trở thành “một mùa xuân nho nhỏ” để làm nên mùa xuân bất diệt của quốc gia. Ai cũng phải có ích cho đời. Mùa xuân nho nhỏ, là một ẩn dụ đầy sáng tạo khắc sâu ý tưởng: “Mỗi thế cuộc đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). “Nho nhỏ” và “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, thành tâm. “Dâng cho đời” là lẽ sống đẹp, cao cả. Bởi lẽ “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu), sống hết mình thủy chung cho quốc gia, đem cả thế cuộc mình phục vụ quốc gia, từ lúc “tuổi hai mươi” trai tráng cho tới khi về già “tóc bạc”. Thơ hay là ở xúc cảm thành tâm. Thanh Hải đã nói lên những lời “gan ruột” của mình. Ông đã sống như lời thơ ông tâm tình. Khi quốc gia bị Mĩ – Diệm và bè lũ tay sai mưu mô chia cắt làm hai miền, ông hoạt động bí mật trong vùng giặc, gây dựng phong trào cách mệnh, khinh thường cảnh máu chảy đầu rơi. Cảm động hơn nữa là bài thơ Mùa xuân nho nhỏ được ông viết ra trên giường bệnh, một tháng trước lúc ông qua đời.

Thanh Hải sử dụng giải pháp nghệ thuật điệp ngữ rất tài tình: “Ta làm… ta làm… ta nhập…”, “dù là tuổi… dù là khi…” đã làm cho âm điệu thơ, giọng thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được khắc sâu và nhấn mạnh. Người đọc xúc động biết bao trước một giọng điệu thơ trữ tình, rét mướt tình đời tương tự. Có thể xem đoạn thơ này là những lời trăn trối của ông.

Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương:

Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế.

Nam ai và Nam bình là hai điệu dân ca Huế rất nổi tiếng mấy trăm năm nay. Phách tiền là một nhạc cụ dân tộc để điểm nhịp cho lời ca, tiếng đàn tranh, đàn tam thập lục. Câu thơ “Mùa xuân – ta xin hát” diễn tả niềm thèm khát bổi hổi của thi sĩ đối với quê hương yêu dấu buổi xuân về. Quê hương quốc gia trải dài nghìn dặm,’chứa chan tình yêu thương. Đó là “nghìn dặm mình”, “nghìn dặm tình” đối với non sông và xứ Huế quê mẹ thân yêu! Câu thơ của người con đất Huế quả là “dịu ngọt” vậy.

Mùa xuân là đề tài truyền thống trong thơ ca dân tộc. Có thể nói, Thanh Hải đã góp cho vườn thơ Việt một bài thơ xuân đẹp, mặn mà tình nghĩa. Thể thơ năm chữ, giọng thơ lúc mạnh mẽ, lúc tha thiết ngân vang. tiếng nói thơ trong sáng và hiểu cảm, súc tích và hình tượng. những giải pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ song hành đối xứng, những điệp ngữ… được vận dụng sắc sảo, tài hoa. Tình yêu mùa xuân gắn liền với tình yêu quốc gia, quê hương được Thanh Hải diễn tả một cách sâu sắc, cảm động. Mỗi một thế cuộc hãy là một mùa xuân. quốc gia ta mãi mãi sẽ là những mùa xuân tươi đẹp.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 9

Thanh Hải là một thi sĩ được mọi người biết tới như một hiện tượng đặc biệt của thơ ca Việt nam. Là con người tài hoa, giàu sức sống nghệ thuật và lắng tai được rất nhiều âm thanh biến thái của thế cuộc, ngay cả những phút giây kề cận cái chết Thanh Hải vẫn khát khao sống, làm việc và cống hiến cho đời chung.

Mùa xuân nho nhỏ chứ không phải cái gì lớn lao ồn ào nhưng thật tinh túy, sâu xa lắng động của Thanh Hải để lại cho đời trước lúc ra đi. Những vần thơ nhỏ nhẹ trầm bổng mà ý tứ lắng sâu lạ kỳ. Và không thể thiếu ở làng thơ xuân nếu như ta quên đi một mùa xuân nho nhỏ của một thi sĩ tài hoa, mệnh bạc – Thanh hải thì quả là thiếu sót. Bài thơ ra đời vào năm 1980 được xem như một lời tâm niệm trẻ trung đáng trân trọng của thi sĩ để lại cho đời trước lúc ra đi.

Mở đầu bài thơ, Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hóa đất trời. Sau những ngày đông lạnh giá lẽo, thiên nhiên; lại được khoác một tấm áo tươi non, rét mướt của mùa xuân. Đất trời như rộng thêm, cao hơn được Thanh Hải phác họa bằng ba nét chấm phá. Một “dòng sông xanh”, “bông hoa tím biếc”, “tiếng chim chiền chiện” gợi ra không gian cao rộng, êm dịu, tươi tỉnh. những âm thanh vang vọng, tha thiết. Những đường nét đó đã khắc họa thành một bức tranh mùa xuân xinh đẹp, yên ả, yên bình, rộn rực niềm vui và tràn trề sức sống.

Đối tượng được thi sĩ trình bày sâu sắc đó là hình ảnh:

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Đây là chi tiết tạo hình và sự chuyển đổi cảm giác tuyệt vời trong thơ ca. “Giọt long lanh rơi” là những giọt xuân, màu xuân đẹp, kì diệu với những sắc màu long lanh. Tác giả đã đưa tay hứng cả mùa xuân đất trời rất đỗi nâng niu, trìu mến, trân trọng và có cảm giác từng giọt xuân lung linh, rét mướt, mát dịu đang thấm vào da thịt, vào lòng người. Tất cả đang được tắm gội trong hương sắc mùa xuân say sưa, ngây ngất, ngọt ngào.

Vả cảm hứng thi sĩ chuyển dần từ màu xuân cảnh sắc thiên nhiên đất trời tươi đẹp sang mùa xuân quốc gia cách mệnh:

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đổng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao….”

Từ “mùa xuân” đã được chuyển nghĩa theo cách hiểu thứ hai với hai nhiệm vụ sản xuất, tranh đấu, xây dựng và bảo vệ trong tư thế đi lên quốc gia. Điệp từ “lộc” láy lại đầu câu có rất nhiều nghĩa khác nhau: “lộc” là chồi non, sức sống, mùa xuân; lộc là do con người mang tới cho mùa xuân, quốc gia trong tranh đấu, sản xuất. con người đi tới đâu mang mùa xuân tới đó, mang chồi non, lộc biếc cho cuộc sống sinh sôi nảy nở.

Âm hưởng của câu thơ,nhịp thơ tất tả, khẩn trương phối hợp tượng trung liên tưởng quá khứ hiện tại, tương lai quốc gia:

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Động từ “cứ” như một mệnh đề thăng tiến khẳng định bước đi vững chãi, tự tin của dân tộc sau mỗi mùa xuân nhìn lại mình, vững bước đi lên. Từ mùa xuân chung của quốc gia và cách mệnh Thanh Hải ước nguyện làm một mùa xuân nho nhỏ đóng góp vào thế cuộc chung.

nếu như tiết điệu thơ ở những khổ thơ trên vừa tất tả, vừa khẩn trương, vừa tả thực, vừa tưởng tượng hàm chứa nhiều ý nghĩa về màu xuân của quốc gia lớn lao. Tự hào thì mùa xuân ở những khổ thơ dưới như sau:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào họa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Lại đựng lên một cách nhỏ nhỏ, khiêm tốn nhưng thật thiết tha, cảm động, sâu lắng. “ta làm” là điệp ngữ vang lên ở đầu những câu thơ như một khẳng định những ước nguyện chính đáng, cao đẹp thể hiện tâm hồn khát khao được làm việc, cống hiến nhiều nhất thế cuộc.

Hình ảnh đối ứng lặp lại ở đầu bài thơ “con chim”, “cành hoa”, “nốt trầm” là thể hiện mong ước cụ thể của thi sĩ được góp cái đó dù nhỏ bé nhưng có ích cho đời. là con chim hãy mang lại những âm thanh vang vọng, những tiếng hót say mê lòng người là nốt nhạc, nốt trầm trong bản nhạc nhưng không thể thiếu dàn hợp xướng, trong bản hòa ca tất cả mọi người.

Cũng trong khổ thơ này Thanh Hải đã được chuyển những cái bé nhỏ, riêng tư thành cái “ta” lớn lao, hòa chung mọi người. Giọng thơ nhỏ nhẹ, thành tâm không khuôn thước, ồn ào mà trái lại đằm thắm, lắng đọng, sâu xa tác động mạnh mẽ vào con tim, khối óc người đọc. Khổ thơ tiếp theo là tiếng lòng cao cả của thi sĩ, của những con người biết hướng tới mùa xuân đẹp, sống có lý tưởng, mục đích, ước mơ:

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Tác giả nhắc lại nhan đề bài thơ như một lời nhắn nhủ, tâm tình gợi ra một lẽ sống cống hiến cho đời chung lặng lẽ, khiêm tốn, sống đẹp, sống có ích thầm lặng đóng góp cho mùa xuân chung không kể gì tuổi tác, không kể gì thời gian.

Khổ thơ ánh lên và tỏa sáng vẻ đẹp tâm hồn luôn luôn khát khao vươn tới cuộc sống tốt đẹp như mùa xuân vang vọng đất trời góp phần làm đẹp cho mùa xuân chung của quốc gia, Tố Hữu viết:

“nếu như là con chim chiếc lá
Con chim phải hót chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”

Thơ xưa và nay thường gắn nhiều định ngữ với mùa xuân nhưng mùa xuân của Thanh Hải nho nhỏ mà không nhỏ chút nào. Nó nói lên được rất nhiều ý nghĩa hơn cả bởi đó là lời tâm niệm thành tâm, sâu lắng nhất của một tâm hồn trước lúc đi xa, giã từ cuộc sống nghìn lần đáng yêu về với cõi vĩnh hằng hư vô.

Có phải khi con người ta tới sắp cái chết là lúc họ thèm khát muốn sống hơn bao giờ hết. Nhưng chúng ta còn khâm phục hơn ở Thanh Hải đó là một tấm lòng rộng mở, thảnh thơi, cao đẹp, sống có ý nghĩa tới những phút chót thế cuộc. Đúng như mong ước thi sĩ “mùa xuân nho nhỏ” được phổ nhạc. bài thư lại một lần nữa được chắp thêm cánh bay xa vào bản hòa ca trong dàn hợp xướng một nốt trầm làm xao xuyến lòng người.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 10

Con người được tặng thưởng cho cuộc sống để sống, tận hưởng đồng thời cần biết tận hiến. Sống một thế cuộc có ý tức là nguồn cảm hứng mãnh liệt nhất thôi thúc thi sĩ Thanh Hải cầm bút viết bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác vào tháng 11 năm 1980. Điều đặc biệt ở chỗ, đó là khoảnh khắc lâm chung của thi nhân trên giường bệnh. Thi phẩm vừa là tiếng lòng thi sĩ, vừa là thông điệp nhân sinh sâu sắc mà Thanh Hải dành tặng cho độc giả ngày hôm nay và cả mai hậu.

Thanh Hải là một trong những cây bút nổi trội cho hồn thơ thời chống Mỹ cứu nước. Thơ ông giản dị, hồn hậu và thành tâm. Với hồn thơ giản dị, mộc mạc đậm tính Huế, thi sĩ thực sự đã đã mang tới vẻ đẹp cho cuộc sống này. Trước lúc lâm chung, Thanh Hải vẫn dành trọn từng giây từng phút cho văn học nghệ thuật, cho đời và cho người. Bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời trong hoàn cảnh tương tự nên nhan đề bài thơ cũng đặc biệt ý nghĩa. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tác độc đáo, một phát hiện mới mẻ của thi sĩ. Hình ảnh “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của sự sống và thế cuộc mỗi người. Nó thể hiện ý kiến về sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa tư nhân và cộng đồng. Đồng thời, qua nhan đề còn thể hiện ước nguyện cao đẹp của thi sĩ. thi sĩ muốn làm một mùa xuân, tức là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhượng là một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, quốc gia, của thế cuộc chung và khát vọng sống thành tâm, cao đẹp của thi sĩ. Đó cũng chính là chủ đề của bài thơ mà thi sĩ muốn gửi gắm.

Trước tiên, thi sĩ bộc lộ xúc cảm của mình trước mùa xuân của thiên nhiên. Bức tranh mùa xuân thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được vẽ bằng vài nét phác họa nhưng rất đặc sắc:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Ngay ở dòng trước hết, với phép đảo trật tự ngữ pháp, động từ “mọc” được đặt trước hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biếc”, tác giả đã gợi được cái sức sống trỗi dậy, vươn mình của vạn vật trước mùa xuân. Những câu thơ mở ra không gian cao rộng của bầu trời, rộng dài của dòng sông, màu sắc hài hòa của bông hoa tím biếc và dòng sông xanh – đặc trưng của xứ Huế. Bức tranh thiên nhiên còn rộn ràng, tươi vui với âm thanh tiếng chim chiền chiện hót vang trời, tiếng chim trong ánh sáng xuân lan tỏa khắp bầu trời như động thanh: “từng giọt long lanh rơi”. xúc cảm của tác giả trước mùa xuân đất trời thể hiện cái nhìn trìu mến với cảnh vật, trong những lời bộc lộ trực tiếp như lời trò chuyện với thiên nhiên: “ơi, hót chi…, mà…”. Đặc biệt, xúc cảm của thi sĩ được thể hiện trong một động tác trữ tình đón nhận vừa trân trọng vừa tha thiết trìu mến với mùa xuân: đưa tay hứng từng giọt long lanh của tiếng chim chiền chiện.

“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Cụm từ “giọt long lanh” có thể hiểu câu thơ theo nhiều cách khác nhau. Trước hết, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những giọt ngọc. Cùng với đó, “giọt long lanh” có thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim từ chỗ là âm thanh (cảm nhận bằng thính giác) chuyển thành từng giọt (hình và khối, cảm nhận bằng thị giác), từng giọt ấy lại long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận bằng xúc giác: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Dù hiểu theo cách nào thì hai câu thơ vẫn thể hiện xúc cảm say sưa ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào xuân, thể hiện mong muốn hòa vào thiên nhiên đất trời trong tâm tưởng giữa mùa đông lạnh giá khiến ta vô cùng khâm phục.

nếu như như ở khổ thơ thứ nhất, ta bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đầy xuân sắc xuân tình, thì ở khổ thứ hai, ta không khỏi xao xuyến trước bức tranh lao động tươi vui, phấn khởi của con người:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao”

Hình ảnh lộc xuân theo người cầm súng, tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và tranh đấu, xây dựng và bảo vệ, hai nhiệm vụ không thể tách rời. những người đội viên, người nông dân đã đem mùa xuân tới mọi nơi trên quốc gia. Hình ảnh “người cầm súng” khiến chúng ta liên tưởng tới những người đội viên ra trận mà trên vai, trên lưng họ có cành lá ngụy trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc” trong “lộc giắt đầy trên lưng” làm cho người ta liên tưởng tới người lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc. Chính màu xanh sức sống đó đã tiếp cho người lính có thêm sức mạnh, ý chí để họ vươn xa ra phía trước xoá sổ quân thù. quốc gia có được mùa xuân tươi đẹp ko phải nhờ những đội viên dũng cảm đó sao? không những thế, chúng ta cũng thấy những người lao động, những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt măng non trên những cánh đồng quê hương hiện lên thật bình dị: “người ra đồng”. Khác với từ “lộc” xuất hiện trước đó, từ “lộc” trong “lộc trải dài nương mạ” cho ta nghĩ tới những cánh đồng trải dài mênh mông với những chồi non mới nhú lên xanh mướt từ những hạt thóc giống đầu mùa xuân. Từ “lộc” còn mang ý nghĩa chung, nó là sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên quốc gia.

thi sĩ Thanh Hải phải là một người say mê vẻ đẹp của mùa xuân quốc gia, mê luyến sự sống tươi đẹp thì mới cảm nhận mùa xuân quốc gia bằng hai từ láy gợi cảm ““tất tả”, “xôn xao”. Từ “tất tả” gợi ra một không khí vội vã, khẩn trương, liên tục không ngừng lại. Từ “xôn xao” khiến ta nghĩ tới những âm thanh liên tục vọng về, hòa lẫn với nhau xao động. Đây chính là tâm trạng tác giả, là cái náo nức trong tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả tỉ reo vui nao nức trước ý thức lao động khẩn trương của con người. Mùa xuân quốc gia được làm nên từ cái tất tả ấy. Sức sống của quốc gia, của dân tộc, cũng được tạo nên từ sự tất tả, náo nức của người cầm súng, người ra đồng. tương tự, hình ảnh mùa xuân quốc gia đã được mở rộng dần. trước hết, nó chỉ gói gọn trên đôi vai, tấm lưng của người ra trận sau đó đã được mở rộng thành một cánh đồng mông mênh. Nhưng tất cả đều chung một chí hướng, cùng thi đua xây dựng và bảo vệ quốc gia trong hoàn cảnh mới. Hẳn Thanh Hải phải có một tấm lòng sâu nặng với non sông gấm vóc Việt mới có những ý thơ hay tương tự.

thi sĩ tin tưởng, tự hào về tương lai tươi sáng của quốc gia cho dù trước mắt còn nhiều vất vả, khó khăn. Và quốc gia được hình dung bằng một hình ảnh so sánh thật đẹp mang nhiều ý nghĩa.

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

“Sao” là một nguồn sáng óng ánh, là vẻ đẹp vĩnh hằng vượt qua mọi giới hạn không gian và thời gian. “Sao” cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua hình ảnh so sánh: “quốc gia như vì sao”, tác giả Thanh Hải bộc lộ niềm tự hào về một quốc gia Việt Nam anh hùng giàu và đẹp. quốc gia mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và cũng không một thế lực nào ngăn cản được. Nhất định quốc gia cũng sẽ tỏa sáng như những vì sao trong hành trình đi tới tương lai rực rỡ, đi tới bờ bến hạnh phúc. Đó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” phối hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn. Trong lúc đang bị bệnh nặng nhưng thi sĩ vẫn lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống của quê hương, của dân tộc khi mùa xuân về quả thực đáng quý!

Từ xúc cảm dạt dào, ngây ngất trước cảnh sắc quốc gia, sâu thẳm trái tim thi sĩ bộc lộ niềm thèm khát cao đẹp của một tâm hồn trong ngần. thi sĩ bộc lộ ước nguyện của mình- muốn làm những việc hữu ích, hiến dâng cho đời. Điều đó được ông bộc bạch qua những hình ảnh tự nhiên, giản dị, đẹp và giàu ý nghĩa. thi sĩ đã lấy cái đẹp tinh túy của thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”.

Chao ôi! thi sĩ muốn “con chim hót” giữa vô vàn tiếng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, muốn làm “một nhành hoa” giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, muốn làm “một nốt trầm” giữa bản hòa tấu muôn diệu, muốn làm “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào mùa xuân lớn của quốc gia, của thế cuộc chung. Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác họa hình ảnh màu xuân bằng những chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Cấu tứ lặp lại tương tự tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh lựa chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. Điệp từ “ta” như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha, thành tâm của thi sĩ mà nó còn đề cập tới một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người.

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”

Ước nguyện hóa thân đó vô cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả thầm lặng “lặng lẽ dâng cho đời”. Từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, thành tâm mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hòa vào cuộc sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố Hữu viết trong “Một khúc ca xuân” :

“nếu như là con chim, chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không có trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.”

có nhẽ, đối với Thanh Hải, “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm động. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “Mỗi thế cuộc đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Đó không phải mong muốn trong một lúc mà là cả một thế cuộc: “Dù là tuổi hai mươi. Dù là khi tóc bạc”. Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho người đọc không chỉ xúc động trước một giọng thơ rét mướt, mà còn xúc động trước lời tâm sự thiết tha của một con người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn thế cuộc và sự nghiệp cho cách mệnh vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho thế cuộc chung. Bài thơ được viết một tháng trước khi thi sĩ trở về với cát bụi nhưng không gợn chút băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được hiến dâng”.

Bài thơ khép lại bằng những câu thơ ngợi ca quê hương, quốc gia qua điệu dân ca xứ Huế. Như một nhịp láy lại, khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm làm tăng trị giá biểu hiện của những khổ thơ trên, đem lại thi vị Huế trìu mến, tha thiết:

“Mùa xuân ta xin hát
Khúc Nam ai Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”.

Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca tụng mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. thi sĩ muốn hát lên điệu Nam ai, Nam bình, điệu dân ca thiết tha của xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hòa vào vĩnh viễn. Nhưng đây không phải là lời ca buồn thuở trước mà “nhịp phách tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa – “Nước non nghìn dặm mình. Nước non nghìn dặm tình” còn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm thi sĩ Thanh Hải mới có thể hát lên trong hoàn cảnh đang ốm nặng tương tự. Điều đó làm ta càng thêm yêu quý tiếng hát và tấm lòng thi sĩ. tương tự, xuyên suốt bài thơ không chỉ có hình tượng mùa xuân mà còn nhiều hình tượng khác. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời tới làm một nốt trầm nhập vào bản hòa ca của quốc gia, và tới đây là khúc hát tạo ấn tượng cho bài ca không dứt, một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân thân thuộc, xúc động, còn mãi với đời.

Mạch xúc cảm trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được diễn đạt thành công, mang lại nhiều dư vị trong lòng người đọc là nhờ sự thành công về mặt nghệ thuật. Bài thơ được làm bằng thể thơ năm chữ sắp với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhõm, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần tạo sự liền mạch của dòng xúc cảm. Hình ảnh thơ cũng rất tự nhiên, giản dị phối hợp với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt một số hình ảnh cành hoa, cánh chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và tăng, gây ấn tượng mặn mà. Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời tới mùa xuân của quốc gia, tới mùa xuân của con người. Hơn thế nữa, giọng điệu bài thơ thích hợp với xúc cảm của tác giả: đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, rồi tất tả trước khi thế lao động của quốc gia. Và cuối cùng là trầm lắng, tương đối trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.

Có thể nói, đã có rất nhiều thi nhân Việt Nam bộc lộ xúc cảm trước mùa xuân, nhưng “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải vẫn mang nét độc đáo, riêng biệt. Bài thơ đã để lại cho đời một ý nghĩa thật lớn lao. Tác giả không chỉ biết hiện một bức tranh thiên nhiên làm say mê lòng người mà còn như một dịp đựng lên tiếng lòng thiết tha của một người con yêu nước. Đó cũng là lòng say mê, là niềm tin mãnh liệt vào sức sống lâu bền của dân tộc ta.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 11

Mùa xuân trong thơ của Thanh hải cũng thật đẹp, thật nhiều ý nghĩa. Không những đẹp từ cảnh thiên nhiên mà tới tâm hồn Thanh Hải cũng thật đẹp. Đó là mùa xuân trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” mà tác giả sáng tác không bao lâu trước khi qua đời (1980).

Bài thơ ca tụng vẻ đẹp mùa xuân thiên nhiên, quốc gia, con người và khát khao cống hiến của thi sĩ, bộc lộ niềm lạc quan, vui say trong cảnh đất trời vào xuân nhưng cũng đầy trằn trọc và suy nghĩ: “Mọc giữa dòng sông xanh… Nhịp phách tiền đất Huế”

Trước lúc vĩnh viễn ra đi ông cũng để lại cho đời những vần thơ thật nhân hậu, thiết tha và thảnh thơi, không hề gợn một nét u buồn nào của một thế cuộc sắp tắt. Khi thế cuộc mình đã bước vào cuối đông, thi sĩ vẫn nghĩ tới một mùa xuân bất diệt, muôn thuở và nguyện hiến dâng cho đời. Hình ảnh của một mùa xuân rất Huế đã được tác giả mở đầu cho bài thơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc.
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Đây là bức tranh mùa xuân được vẽ lên bằng tâm hồn của người nghệ sĩ với những nét chấm phá rất dễ thương rất tuyệt vời, một nét đặc trưng rất Huế đó là hình ảnh màu “tím biếc ” của “một bông hoa” hòa với màu “xanh” của “dòng sông”. Một màu tím thật gợn nhẹ như màu tím hoa sim mọc giữa con sông xanh biếc hay như những tà áo dài với màu tím thật nhẹ nhõm của những cô gái Huế.

Cả hai màu sắc đều rất hài hòa như vẫy gọi mùa xuân. Động từ “Mọc” xuất hiện một cách đột ngột trong câu thơ như một lời báo hiệu của sự trỗi dậy của sức vươn lên mạnh mẽ của một bông hoa giữa bốn bề sông nước mênh mông rộng lớn. Cả hai hình ảnh “dòng sông xanh” và “hoa tím biết” ấy đã gợi lên trong lòng người đọc một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Bức tranh xứ Huế vào xuân lại càng sinh động hơn bởi tiếng hót líu lo của chim chiền chiện:

“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời,
Từng giọt long lanh rơi,
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Tiếng hót của chim chiền chiện vút cao, lãnh lót như mở thêm không gian, gợi cảm, trong trẻo, đáng yêu. Từ cảm thán “Ơi” đặt ở đầu câu, một từ “chi” xếp sau động từ “hát” đã đưa cách nói ngọt ngào, thân yêu của Huế vào nhạc điệu của thơ tạo cho ta một cảm giác bình yên, sự dịu dàng tha thiết của xứ Huế cố đô. Tác giả lắng tai tiếng chim hót, nghe bằng tai chưa đủ, thi sĩ còn nghe bằng của trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, bằng sự liên tưởng độc đáo.

Từ “giọt” được hiểu theo rất nhiều nghĩa: có thể là “giọt nắng bên thềm”, giọt mưa xuân, giọt sương sớm, tiếng hót của những chú chim chiền chiện hay là giọt nước mắt hạnh phúc của tác giả? Sự chuyển đổi cảm giác trong tác giả thật kì lạ từ thị giác sang thính giác và giờ là xúc giác “tôi đưa tay tôi hứng”.

Sự chuyển đổi cảm giác này thể hiện sự say sưa, ngây ngất, nâng niu của thi sĩ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời vào xuân. Niềm vui đó, niềm hạnh phúc đó hoàn toàn khác với tâm trạng buồn chán trước cảnh xuân quốc gia đang đắm chìm trong đêm trường nô lệ:

Tôi có chờ đâu, có đợi đâu,
Đem chi xuân tới gợi thêm sầu?
Với tôi, tất cả như vô nghĩa,
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Với những vần thơ giản dị nhưng Thanh Hải vẫn trình bày được mùa xuân cách mệnh quê hương của tác giả:

“Mùa xuân người cầm súng, Lộc giắt đầy trên lưng. Mùa xuân người ra đồng, Lộc trải dài nương mạ.Tất cả như tất tả,Tất cả như xôn xao…”

Hai câu thơ đầu tác giả muốn nhấn mạnh tới mùa xuân của người cầm súng và của người ra đồng biểu thị cho hai nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là bảo vệ và xây dựng quốc gia. Từ “Lộc” có hai tầng nghĩa: “Lộc” có nghĩa đen là cành non, lá mới, là cành lá ngụy trang trên lưng người đội viên ra mặt trận. “Lộc” còn là mạ non theo chân người nông dân ra đồng ruộng. Với giải pháp ẩn dụ “Lộc” còn mang ý nghĩa tượng trưng hơ.

“Lộc” biểu thị cho một niềm tin, một sức sống, là sự trẻ trung vươn lên quyết giành thắng lợi, giành lấy những kết quả tốt đẹp, đem sự bình yên tới với mọi nhà. Mà chính người đội viên sẽ mang mùa xuân yên vui tới cho mọi nơi trên quốc gia. “Lộc” tượng trưng cho sự no đủ, “trúng mùa” của công việc sản xuất. Người dân lao động muốn mình cống hiến hết sức lực, tài năng vào công việc xây dựng quê hương ngày một giàu mạnh bởi vậy tất cả mọi người đều tự nguyện:

“Tất cả như tất tả,
Tất cả như xôn xao…”

Điệp từ “tất cả” xuất hiện liên tục nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chung của mỗi người. Từ láy “tất tả”, “xôn xao” gợi hình gợi tả thể hiện nhịp độ khẩn trương, tươi vui, thể hiện nhiệt tình và trách nhiệm của những con người đang bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Sức sống của “mùa xuân quốc gia” còn được cảm nhận qua tiết điệu tất tả, những âm thanh xôn xao của quốc gia bốn nghìn năm, trải qua biết bao vất vả và gian lao để vươn lên phía trước và mãi khi mùa xuân về lại được tiếp thêm sức sống để bừng dậy, được hình dung qua hình ảnh so sánh rất đẹp:

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Một lời tổng kết về lịch sử quốc gia “bốn nghìn năm” với bao “vất vả”, “gian lao” bao nhiêu sóng gió thăng trầm. Để ca tụng truyền thống đó, Nguyễn Trãi đã từng viết:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”

Không tự hào sao được khi quốc gia đi lên từ “vất vả”, “gian lao”. Từ ngữ giản dị nhưng cũng đã tái tạo cuộc hành trình lịch sử của dân tộc ta khi chiến tranh cũng như thiên tai “sáng chống bão giông, chiều ngăn nắng lửa”, nghèo đói không buông. Đúng là:

“Việt nam ơi Việt Nam
Tiếng súng tiếng gươm không bao giờ dứt
Bởi Tổ quốc ta không bao giờ chịu nhục
Dân tộc ta không chịu cúi đầu”

Thế nhưng quốc gia vẫn vươn mình về phía trước, vẫn rạng ngời “như vì sao”

“quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Cách so sánh đầy ấn tượng. Một vì sao óng ánh không chói lọi nhưng vững bền, trường tồn. Vì sao ấy còn là lá cờ Tổ quốc cứ tung bay, hãnh diện cùng bạn bè năm châu bốn bể. Từ “cứ” khẳng định mạnh mẽ quy luật thế tất “cứ đi lên phía trước” của dân tộc ta. Đó là niềm tin của tác giả vào sức sống của dân tộc, vào sự phát triển không ngừng của quốc gia.

Từ xúc cảm của thiên nhiên, quốc gia, mạch thơ đã chuyển một cách tự nhiên sang bộc bạch suy ngẫm và tâm niệm của thi sĩ trước mùa xuân của quốc gia. Mùa xuân của thiên nhiên, quốc gia thường gợi lên ở mỗi con người niềm khát khao và hy vọng; với Thanh Hải cũng thế, đây chính là thời khắc mà ông nhìn lại thế cuộc và bộc bạch tâm niệm thiết tha của một nhà cách mệnh, một thi sĩ đã gắn bó trọn đời với quốc gia, quê hương với một khát vọng cân thành và tha thiết:

“Ta làm con chim hót,
Ta làm một cành hoa.
Ta nhập vào hoà ca,
Một nốt trầm xao xuyến”

Lời thơ như ngân lên thành lời ca. nếu như như đoạn đầu Thanh Hải xưng tôi kín đáo và lặng lẽ thì tới đoạn này ông chuyển giọng xưng ta. Vì sao có sự thay đổi tương tự? Ta ở đây là thi sĩ và cũng chính là tất cả mọi người. Khát vọng của ông là được làm con chim hót, một cành hoa để hòa nhập vào “mùa xuân lớn” của quốc gia, góp một nốt trầm vào bản hòa ca vô tận của thế cuộc.

Hiến dâng “mùa xuân nho nhỏ” tức là tất cả những gì tốt đẹp nhất, dù nhỏ bé của mỗi người cho thế cuộc chung cho quốc gia. Điều tâm niệm đó thật thành tâm, giản dị và tha thiết – xin được làm một nốt trầm trong bản hoà ca của thế cuộc nhưng là “một nốt trầm xao xuyến”. Điều tâm niệm của tác giả: “lặng lẽ dâng cho đời” chính là khát vọng chung của mọi người, ở mọi lứa tuổi, chứ đâu phải của riêng ai.

Thanh Hải đã thể hiện hết mình vì lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiến dâng cho quốc gia, cho thế cuộc, bởi vậy, xuất phát từ tiếng lòng thiết tha, nhỏ nhẹ, thành tâm của tác giả nên lời thơ dễ dàng được mọi người tiếp nhận và chia sẻ cho nhau. Quan niệm sống ấy của Thanh Hải thật giống với quan niệm sống của Tố Hữu:

“nếu như là con chim, chiếc lá,
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả,
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình.”

tới khổ thơ tiếp theo, tác giả đã giúp ta hiểu rõ hơn nhan đề của bài thơ – Mùa xuân nho nhỏ:

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”.

“Mùa xuân” là ý niệm chỉ thời gian nhưng “mùa xuân nho nhỏ ở đây của tác giả đã trở thành lẽ sống đẹp, lý tưởng. “Lặng lẽ dâng” ước vọng tha thiết khiêm tốn cả thế cuộc cho đi mà không hề đòi hỏi. “Lặng lẽ” một hành động âm thần, tự nguyện không ồn ào, không cần mọi người biết tới. Đã gọi là cống hiến cho đời thì dù ở tuổi nào đi chăng nữa cũng phải luôn biết quyết tâm hết tâm trí để phục vụ và hiến dâng cho quê hương, quốc gia mến yêu của chính mình. Già – cống hiến tuổi già, trẻ – cống hiến sức trẻ để không bao giờ thất vọng trước chính bản thân mình.

Thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ như lời tổng kết của thế cuộc. “Dù là tuổi hai mươi” khi mới tham gia kháng chiến cho tới khi tóc bạc là thời khắc hiện thời vẫn lặng lẽ hiến dâng cho đời và bài thơ này là một trong những bài thơ cuối cùng.

“Một mùa xuân nho nhỏ” cuối cùng của Thanh Hải dâng tặng cho đời trước lúc ông bước vào toàn cầu cực lạc, chuẩn bị ra đi mãi mãi.Kết thúc bài thơ bằng một âm điệu xứ Huế: điệu Nam ai, Nam Bình mênh mang tha thiết, là lời ngợi ca quốc gia, biểu hiện niềm tin yêu và gắn bó sâu nặng của tác giả với quê hương, quốc gia, một câu chân tình thắm thiết:

“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam Bình
Nước non nghìn dặm tình
Nước non nghìn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Những lời tâm sự cuối cùng của người sắp mất luôn là những lời thực sự, luôn chứa chan tình cảm, ước nguyện sâu lắng nhất… và bài thơ này cũng chính là những điều đúc kết cả thế cuộc của ông. Ông đã giãi bày, tâm tình những điều sâu kín nhất trong lòng, và chính lúc đó Thanh Hải đã thả hồn vào thơ, cùng chung một nhịp đập với thơ để ông và thơ luôn được cùng nhau, hiểu nhau và giãi bày cho nhau.

Tóm lại bài thơ đã sử dụng thể thơ năm chữ, mang âm hưởng dân ca nhẹ nhõm tha thiết, giàu hình ảnh, nhạc điệu, đựng trúc thơ chặt chẽ, giọng điệu đã thể hiện đúng tâm trạng, xúc cảm của tác giả. Nét đặc sắc của bài thơ là ở chỗ nó đề cập tới một vấn đề lớn và quan trọng “nhân sinh”, vấn đề ý nghĩa cuộc sống của mỗi tư nhân được Thanh Hải thể hiện một cách thành tâm, thiết tha, bằng giọng văn nhỏ nhẹ như một lời tâm sự, gửi gắm của mình với thế cuộc.

thi sĩ ước nguyện làm một “mùa xuân” tức là sống đẹp, sống với tất cả sức sống tươi trẻ của mình nhưng rất khiêm nhượng; là “một mùa xuân nho nhỏ” góp vào “mùa xuân lớn” của quốc gia của thế cuộc chung và bài thơ cũng có ý nghĩa hơn khi Thanh Hải nói về “mùa xuân nho nhỏ” nhưng nói được tình cảm lớn, những xúc động của chính tác giả và của cả chúng ta.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 12

Thanh Hải một trong những cây bút lớn, có vai trò quan trọng gây dựng văn hóa cách mệnh miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường mang phong cách nhẹ nhõm, đậm chất trữ tình với tình yêu quê hương tha thiết.

Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ là kết tinh nghệ thuật trong đời thơ của ông. Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với quốc gia, với thế cuộc và ước nguyện thành tâm của tác giả muốn được cống hiến cho đời, góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Ngay từ nhan đề tác phẩm đã thể hiện tài năng sáng tạo độc đáo của Thanh Hải đồng thời cũng bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Danh từ mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian vô hình, không đong đếm, đo lường được nhưng dưới con mắt của thi nhân với trường liên tưởng độc đáo phối hợp với từ nho nhỏ đã khiến cho một khái niệm vốn trừu tượng trở nên hữu hình.

Đồng thời hình ảnh ẩn dụ này còn tượng trưng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất trong thế cuộc mỗi con người. từ đó tác giả bộc lộ ý kiến, sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa tư nhân với cộng đồng. Ngoài ra, nhan đề còn thể hiện ước muốn thành tâm, tha thiết của tác giả: muốn làm một mùa xuân nho nhỏ, tức là muốn sống một thế cuộc tươi đẹp, có ý nghĩa và giúp ích cho đời, cho quốc gia.

Cách đặt nhan đề đã làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Khổ thơ đầu mở ra quang cảnh mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đặc trưng nhất của không gian xứ Huế mộng mơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc

Không gian mùa xuân cao rộng, mông mênh của dòng sông – mặt đất – bầu trời gợi ra trước mắt người đọc, không gian ấy cho thấy sự yên bình, yên ả. Cùng với đó là sự phối hợp hài hòa của sắc màu thiên nhiên: màu xanh mênh mông của dòng sông làm nền cho màu hoa tím biếc thơ mộng – một sắc màu tươi sáng, dịu dàng rất đặc trưng của xứ Huế.

Thanh Hải cũng thật tinh tế và tài tình khi đảo động từ “mọc” lên đầu câu, việc đảo trật tự tương tự càng nhấn mạnh vào sự xuất hiện của những bông hoa trên nền xanh biếc của dòng sông và bầu trời, khiến bông hoa trở nên đẹp đẽ hơn. Hòa trong không gian ấy là tiếng chim chiền chiện náo nức, vui tươi hót vang trời. Cả không gian ngập tràn sức sống.

Đứng trước vẻ đẹp mùa xuân tác giả không thể kìm nén xúc cảm của bản thân mà đựng lên tiếng gọi đầy tha thiết: “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”. Chỉ một chữ “ơi” thôi đã cho thấy niềm xúc động, vui sướng mãnh liệt của thi sĩ trước thiên nhiên vạn vật, bởi vậy, ngay lúc đó đã diễn ra một cuộc trò chuyện thật sắp gũi và thân tình giữa con người và thiên nhiên.

xúc cảm của thi sĩ không chỉ ngừng lại ở đó, sự say sưa, yêu mến còn được thể hiện trong động tác đầy trân trọng, nâng niu: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Hình ảnh “giọt” là hình ảnh đa nghĩa, ta có thể hiểu đó là giọt mưa xuân, cũng có thể hiểu là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Câu thơ mang tới những hình ảnh mới lạ, đầy tính tạo hình. Có thể thấy rằng chỉ bằng vài nét phác họa rất đơn sơ nhưng Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy mộng mơ, tươi đẹp và tràn đầy sức sống.

Từ mùa xuân của thiên nhiên tác giả dâng trào của xúc trước của xuân của quốc gia. Hai câu thơ đầu tạo ra những hình ảnh sóng đôi đặc sắc: “người cầm súng” “người ra đồng” tượng trưng cho hai nhiệm vụ tranh đấu và xây dựng quốc gia. Cùng với đó là hình ảnh “lộc”, mỗi chữ “lộc” lại mang những ý nghĩa khác nhau. “Lộc giắt đầy trên lưng” trước hết mang ý nghĩa tả thực là chồi non, ngoài ra còn biểu tượng cho sức sống mùa xuân, cho những thành tựu tốt đẹp.

Cũng bởi vậy, khi những người đội viên khi ra trận khoác trên mình chiếc lá ngụy trang như mang sức sống của toàn dân tộc trên vai với một niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai thắng lợi của toàn dân tộc. Hình ảnh “lộc” phía sau lại tượng trưng cho sự no đủ, hạnh phúc, được mùa dưới bàn tay của những người nông dân. Tất cả những yếu tố đó đã cho thấy khí thế, nghị lực của con người trên mặt trận bảo vệ tổ quốc và xây dựng của cuộc sống mới.

Hai câu thơ cuối diễn tả cái náo nức, xôn xao của con người. Ấy là không khí lên đường tấp nập, khẩn trương, liên tục không ngừng cùng với đó là tâm trạng hào hứng, hăng say. Cả khổ thơ dạt dào niềm vui, như lời khích lệ, động viên con người lên đường, hòa vào nhịp chung của dân tộc.

Sang tới khổ thơ thứ ba, ta không còn thấy niềm vui trước mùa xuân dân tộc mà thay vào đó là những cảm nhận, suy tư của tác giả về lịch sử quốc gia mình. “quốc gia bốn nghìn năm / Vất vả và gian lao” cho thấy những thử thách, khó khăn mà dân tộc ta phải trải qua trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Thế nhưng trước những trở ngại chồng chất ấy ta vẫn “đi lên” một cách bản lĩnh, kiên cường. “quốc gia như vì sao/ Cứ đi lên phía trước” là hình ảnh so sánh đẹp đẽ đem tới cho người đọc những ý nghĩa khác nhau. Câu thơ là lời khẳng định về sự trường tồn mãi mãi của dân tộc ta trước mọi khó khăn, thử thách. Ở câu thơ tiếp, ba chữ “cứ đi lên” như một lời khẳng định chắc nịch về tương lai tươi sáng của toàn dân tộc. Khổ thơ bộc lộ niềm tự hào, tin tưởng vào sự dẻo dai của quốc gia và khí thế đi lên của dân tộc.

Những khổ thơ cuối cùng của bài là ước nguyện thành tâm, tha thiết của thi sĩ cho thế cuộc. Tác phẩm ra đời trước lúc tác giả mất không lâu, khiến ta càng thêm trân trọng những ước nguyện giản dị mà đẹp đẽ của ông. Tác giả ước làm con chim để đem niềm vui cho thế cuộc, làm cành hoa đem hương sắc cho cuộc sống.

Đáng quý hơn, ông nguyện làm một nốt trầm trong bản hòa ca. Nốt trầm xao xuyến ấy làm xúc động, gây sợ hãi trong lòng người. Trong khổ thơ có sự chuyển đổi từ “tôi” sang “ta” – đại từ vừa diễn tả số ít, vừa diễn tả số nhiều giúp tác giả vừa thể hiện cái riêng nhưng đồng thời cũng thể hiện cái chung. Qua sự biến đổi đại từ ấy cho thấy đây không chỉ là khát vọng riêng của tác giả mà còn là ước nguyện chung của tất cả mọi người.

Ước nguyện cống hiến tha thiết, thành tâm càng được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh: “Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời” cho thấy thái độ sống, cống hiến lặng lẽ, khiêm nhượng nhưng lại vô cùng mãnh liệt, dẻo dai. Đây là cách sống cao đẹp, thành tâm mà vô cùng dung dị. Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, tóc bạc” nói lên sự thống nhất trong quá trình cống hiến của thi sĩ: dù là khi còn trẻ, tràn đầy sức sống hay khi tóc đã bạc thì trách nhiệm ấy vẫn không hề thay đổi.

Khổ thơ cuối cùng bộc lộ niềm tự hào, yêu mến quốc gia của tác giả qua làn điệu dân ca xứ Huế. Bài thơ kết lại bằng làn điệu dân ca xứ Huế thiết tha cho thấy tấm lòng của tác giả trước quê hương, quốc gia. Để tạo nên thành công của tác phẩm, Thanh Hải đã vận dụng tài tình thể thơ năm chữ, giàu nhạc điệu.

phối hợp với cách gieo vần linh hoạt, gieo vần liền giữa những khổ thơ tạo nên sự liền mạch xúc cảm cho tác phẩm. tiếng nói thơ giàu hình ảnh, tự nhiên, giản dị, trong sáng mà cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. xúc cảm, giọng điệu thi sĩ thành tâm, tha thiết.

Bài thơ đã tái tạo thành công vẻ đẹp của mùa xuân quốc gia tươi sáng, tràn đầy sức sống bằng giọng văn tha thiết, đầy tự hào. Nhưng đằng sau những câu thơ ấy còn cho thấy lẽ sống đẹp đẽ, cao cả của thi sĩ: nguyện cống hiến tất cả thế cuộc mình cho quốc gia, quê hương. Tấm lòng, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 13

Khi nàng xuân nhẹ lướt trở về, trên trái đất như phủ lên một sức sống rộn rực kỳ diệu; Hương xuân quyện vào thiên nhiên, sông núi đất trời, tình xuân thấm vào tâm hồn mỗi con người với bao niềm hạnh phúc. Cả mùa xuân bừng nở giữa khoảng không gian tươi xanh ấy. Một thoáng bâng khuâng, ta chợt trông thấy hình như hương xuân, sắc xuân, tình xuân và cả mùa xuân đang hòa và trong bản xô-nát mùa xuân của thi sĩ Thanh Hải: Mùa xuân nho nhỏ.

Đọc kỹ bài thơ, ngẫm nghĩ, ta sẽ nghe được nhịp đập rộn rực mùa xuân đầy sức sống. từ đó, chúng ta càng hiểu bản hợp tấu kỳ diệu của mùa xuân, của tâm hồn, của cuộc sống … Mùa xuân nho nhỏ – Tên của bài thơ đã tạo cho người đọc một cảm giác dễ chịu thoải mái. Mùa xuân nho nhỏ. Vâng mùa xuân của Thanh Hải thật đơn sơ và giản dị ở mức “nho nhỏ” mà thôi. Mở đầu, tác giả viết:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc …
Tôi đưa tay tôi hứng …

Một bức tranh xuân thật đơn sơ và giản dị! Tác giả đã lựa lựa chọn những gam màu thật dịu, thật tươi để phác họa bức tranh xuân của mình, “dòng sông xanh – Hoa tím biếc”. Vài nét lướt nhẹ nhõm, nhưng tác giả đã cho người đọc thưởng thức mùa xuân đầy sức sống, trẻ trung, tươi và xanh. Mùa xuân của dòng sông, của bông hoa hay của đất trời quê hương xứ Huế? Những mảng màu sắc hình ảnh giản dị mộc mạc nhưng hài hòa và nên thơ.

Đoạn thơ gây ấn tượng và xúc cảm trong lòng người đọc. Như con tằm, tác giả đã rút những sợi tơ của lòng mình dệt nên bài thơ về quê hương bằng tất cả tình yêu của trái tim mình. Câu thơ với âm điệu nhẹ nhõm mà duyên dáng, say sưa. Tiếng chim chiền chiện vút cao phải chăng là nốt thăng rộn ràng, tươi vui của bản nhạc mùa xuân. Tiếng chim ngân vang, kéo dài một âm sắc thánh thót, tiếng chim ấy như lan tỏa, hòa quyền vào bầu trời xuân ấy.

Giữa bức tranh xuân đầy màu sắc, Thanh Hải như đón nhận, như lắng tai âm thanh của sự sống, của thiên nhiên đang trào dâng, ngân nga. Từng giọt long lanh rơi “giọt sương sớm mai” – Hay giọt âm thanh? “Giọt long lanh rơi” – Giọt tình yêu hay hạnh phúc? Ồ phải rồi, đó là giọt mùa xuân êm đềm, thiết tha, giọt mùa xuân tiếng chim, của giọt sương hạnh phúc được Thanh Hải trân trọng, nâng niu – áp vào trái tim mình.

Mùa xuân, mùa xuân trong Thanh Hải là bức tranh đơn sơ mộc mạc nhưng đầy màu sắc. Cả tiếng chim chiền chiện vút cao, là giọt sương sớm mai – mùa xuân là tất cả. Trong bản xô-nát của Thanh Hải, ta còn bắt gặp một mùa xuân trẻ trung, xôn xao đầy sức sống, đó là mùa xuân của “người cầm súng” của “người ra đồng”.

Mùa xuân người cầm súng
…Tất cả như xôn xao

những thế hệ trước đã ngã xuống để bảo vệ mầm hạnh phúc của dân tộc; và giờ đây, mầm hạnh phúc ấy đã bừng nở thành hoa hạnh phúc – bừng nở thành niềm tin và hy vọng. Mùa xuân “người cầm súng”, với trách nhiệm tiếp nối cha anh bảo vệ quốc gia bảo vệ mùa xuân của dân tộc.

Hình ảnh người ra đồng, là người tô điểm cho mùa xuân là họa sĩ vẽ những mảng xanh lên mùa xuân; và tất cả như tất tả. Tất cả như xôn xao – sức xuân đang tưng bừng lên. Với nhịp độ khẩn trương, dồn dập tưng bừng hoạt động trên quê hương, quốc gia sau ngày phóng thích.

Hình ảnh thơ giúp ta hiểu được, trên mảnh đất vừa thoát khỏi đau thương, tất cả như rộn rực, như đang nảy nở, sinh sôi trong cái men say của mùa xuân trong cuộc sống hòa bình. “tất tả”, “xôn xao” hai từ láy vừa gợi âm, gợi hình, gợi xúc cảm và gợi cả suy tư. Ôi! Một thanh âm từ rất xa vẳng lại, nhanh nhiều, thanh âm “xôn xao” của mùa xuân, của đất trời Việt Nam quê hương ta đó.

Câu thơ nhịp nhàng với những vần bằng tha thiết, vần trắc khỏe mạnh, bỗng trầm hẳn, lặng đi trong thoáng suy tưởng của thi sĩ.

“quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Tương lai Tổ quốc hiện lên rực rỡ huy hoàng, nhưng Thanh Hải lại nhớ về lịch sử dân tộc – nhớ về quá khứ bốn nghìn năm oai hùng “Vất vả và thương đau”. từ đó, ta càng hiểu thêm về Thanh Hải – một tâm hồn nồng nhiệt, gắn bó với mùa xuân với quốc gia và sự hy vọng. “quốc gia như vì sao” của tác giả về một ngày mai đẹp đẽ thật đáng quý, đáng yêu!

Say sưa trong khúc nhạc mùa xuân, tơ lòng tác giả cứ ngân lên như cây đàn muôn điệu. Đọc đoạn thơ cuối, ta cảm nhận được ý nguyện của tác giả: muốn cống hiến cả thế cuộc mình cho sự nghiệp cách mệnh, cho Tổ quốc “bay lên bát ngát mùa xuân”

Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến.

Điệp từ “Ta làm” láy đi láy lại thật tha thiết thành tâm càng làm ta xúc động bởi thái độ sống của thi sĩ. Sống phải làm nên “cái gì đó” cho đời, dù rất nhỏ… Bản hòa ca mùa xuân ngân lên với những nốt thăng rộn ràng, tươi vui và với bè trầm tĩnh lặng, du dương. thi sĩ lặng lẽ “nhập vào hòa ca” nhập vào bản xô-nát thế cuộc một tẹo xíu gì lặng lẽ, một tẹo xíu gì dễ thương làm sao.

Nốt trầm xao xuyến, một nốt trầm lặng lẽ đơn sơ nhưng không thể thiếu trong bản giao hưởng mùa xuân. Nốt nhạc trầm ngân nga lặng lẽ sau âm hưởng cao nhưng thường để lại trong lòng người ẩn tượng xao xuyến, bâng khuâng, sâu lắng, suy tư.

Xuân về đúng vào thời gian mà thi sĩ trọng bệnh, nhưng sức sống mãnh liệt tới diệu kì của mùa xuân đã bừng nở trong tâm hồn thi sĩ. Sức trẻ thôi thúc, rộn ràng cùng nhịp đập trái tim nằm trên giường bệnh, thi sĩ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt thiết tha, tràn đầy tình yêu thương lạc quan và hy vọng:

Một mùa xuân nho nhỏ …
Lặng lẽ dâng cho đời …
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc

Âm điệu thơ lắng dần ở khổ thứ tư, rồi chìm hẳn ở những khổ sau. Đọc thơ, ta như nghe được tiếng thì thầm, miên man của mùa xuân, của lòng người. Một lần nữa, tác giả lại nhắc tên bài thơ Mùa xuân nho nhỏ. Một tiếng chim một nhành hoa, một nốt trầm xao xuyến tạo nên một mùa xuân nho nhỏ. nếu như mỗi con người là “mùa xuân nho nhỏ” thì quốc gia sẽ là cả một mùa xuân vĩnh viễn với bầu trời đầy chim, đất đầy hoa và lòng người đầy tiếng hát.

Ước muốn tha thiết của Thanh Hải là được cống hiến cho thế cuộc tất cả tuổi thanh xuân, tất cả cuộc sống của mình. Ông nguyện hát cho quốc gia cho quê hương bản Nam Ai Nam Bình ; bản xô-nát của mùa xuân, bản xô-nát của lòng người cùng hòa âm thành bản hòa ca bất tử của dân tộc.

Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là một bức tranh thiên nhiên đơn sơ mộc mạc một bản nhạc dịu dàng tha thiết. Một tâm hồn thành tâm tự nguyện. Mùa xuân nho nhỏ – Đi giữa bầu trời xuân – hình như tôi nghe đâu đây hy vọng về bản hòa ca mùa xuân bất tử.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 14

“nếu như là con chim chiếc lá
Con chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình”
(Tố Hữu)

Thanh Hải nhịn nhường như rất hiểu về lẽ sống đó của đời người nên trước khi trở về với cát bụi, thi sĩ đã có những suy nghĩ, những chiêm nghiệm rất sâu sắc, lại muốn đóng góp một “mùa xuân nho nhỏ” của riêng mình vào mùa xuân thế cuộc qua bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ”.

Mở đầu bài thơ là một mùa xuân mang hương vị xứ Huế hiện ra:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Mùa xuân ấy có hình ảnh của bông hoa màu tím, có con chim chiền chiện. Động từ “mọc” ở đầu câu, cũng là đảo ngữ và số từ “một” như gợi một sức sống của bông hoa ấy, cũng là gợi cho ta nghĩ tới tà áo dài màu tím của những cô gái xứ Huế. Thán từ “ơi” như lời gọi thiết tha. Hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “từng giọt long lanh rơi” khiến tiếng chim hót là âm thanh mà hóa hình ảnh, khiến nó vô hình mà trở nên hữu hình. Vì vậy, “tôi đưa tay tôi hứng”, “hứng” là thể hiện thái độ trân trọng, muốn tận hưởng vẻ đẹp của quê hương xứ sở.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, Thanh Hải nghĩ về mùa xuân của quốc gia. Đó là mùa xuân với:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao”

Mùa xuân của quốc gia được cảm nhận qua hai đối tượng là “người cầm súng” và “người ra đồng”, tượng trưng cho hai nhiệm vụ là bảo vệ và xây dựng quốc gia. Những con người ấy, dù đang đứng trên mặt trận nào thì cũng đều “tất tả” và “xôn xao”. Từ láy “tất tả” và “xôn xao” diễn tả một nhịp lao động rất khẩn trương…

Cũng bởi vậy, Thanh Hải nhìn suốt bốn nghìn năm của quốc gia và thấy rằng:

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Qua bốn nghìn năm ấy, ông cha ta đã rất vất vả để bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. hình ảnh so sánh “ quốc gia như vì sao” thể hiện lòng tự hào, lạc quan và tin yêu của thi sĩ với quốc gia.

Từ mùa xuân của đất trời, mùa xuân của quốc gia, Thanh hải thể hiện những khát khao của mình:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”

thi sĩ ước làm “một con chim hót”, “một cành hoa” mà thôi và ước trở thành một “nốt trầm xao xuyến”. “Nốt trầm” thường gợi tới những dư vang sâu lắng, do vậy khát khao của thi sĩ là khát khao được cống hiến.

Tiếp đó, Thanh Hải nói rằng dù chúng ta chỉ là “một mùa xuân nho nhỏ” thì chúng ta vẫn đang cống hiến vào mùa xuân rộng lớn của thế cuộc. Sự cống hiến ấy phải ở mọi lứa tuổi khác nhau, dù khi con người ta trẻ “ dù là tuổi hai mươi” hay khi “tóc bạc”.

Kết lại bài thơ là những âm điệu xứ Huế:

“Mùa xuân ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm tình
Nước non nghìn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”

Bài thơ được viết trước lúc Thanh Hải từ biệt thế cuộc để trở về với đất mẹ. có nhẽ cũng bởi vậy mà những điều Thanh Hải muốn nhắn gửi trở nên thấm thía hơn bao giờ hết. Mỗi chúng ta, khi đã hiểu những gì thi sĩ muốn nhắn gửi, hãy đóng góp một tiếng nói của mình vào tiếng nói rộng lớn của thế cuộc để dù chỉ là một con chim, nhưng ta đã hót vang để cống hiến…

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 15

Thanh Hải là một thi sĩ cách mệnh. Thơ ông chất phác, bình dị, hồn hậu và thành tâm, là tiếng hát ca tụng tình yêu quê hương quốc gia, ca tụng sự hi sinh của nhân dân miền Nam và khẳng định niềm tin vào thắng lợi của cách mệnh. Có thể nói thế cuộc ông đã cống hiến trọn vẹn cho quốc gia, cho quê hương. Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” ra đời tháng 11/1980, lúc này, quốc gia đã thống nhất, đang xây dựng cuộc sống mới với vô vàn khó khăn thử thách. thi sĩ Thanh hải viết bài thơ này trên giường bệnh 2 tháng trước khi ông qua đời.

khởi đầu từ những xúc cảm trực tiếp hồn nhiên, trong trẻo trước vẻ đẹp và sức sống của mùa xuân thiên nhiên, từ đó mở rộng cảm tưởng về mùa xuân quốc gia, bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng thiết tha của thi sĩ trước mùa xuân quốc gia, mùa xuân thế cuộc. Từ mùa xuân lớn của thiên nhiên quốc gia mà liên tưởng tới mùa xuân của mỗi thế cuộc – một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn. Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những xúc cảm thiết tha, tự hào về quê hương, quốc gia qua điệu dân ca xứ Huế.

Bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được vẽ bằng những hình ảnh, màu sắc, âm thanh hài hòa, sống động, tràn đầy sức sống:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”.

Ngay hai câu mở đầu ta đã bắt gặp một cách viết khác lạ. Không viết như thông thường: “một bông hoa tím biếc mọc giữa dòng sông xanh” mà đảo lại “Mọc giữa dòng sông xanh/Một bông hoa tím biếc”. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu thơ là một dụng ý nghệ thuật của tác giả. Hình ảnh có vài trò khắc sâu ấn tượng về sức sống trỗi dậy và vươn lên của mùa xuân. Tưởng như bông hoa tím biếc kia đang từ từ, lồ lộ mọc lên, vươn lên, xòe nở trên mặt nước xanh của dòng sông xuân.

Không gian mùa xuân rộng mở tươi tỉnh với hình ảnh một dòng sông trong xanh chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh thân thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung. nổi trội trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay bông súng, bông trang mà ta thường gặp ở những ao hồ sông nước của làng quê. Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân yêu vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự.

Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhõm mà sống động, đem lại một vẻ đẹp tự nhiên, hài hòa, một màu sắc đặc trưng của xứ Huế. Bức tranh không chỉ có “họa” mà còn có “nhạc” bởi tiếng chim chiền chiện đựng lên với muôn vàn lời ca tiếng hót, reo mừng. thi sĩ gọi “ơi” nghe sao mà tha thiết thế! Lời gọi ấy không đựng lên từ tiếng nói mà đựng lên từ sâu thẳm tình yêu thiên nhiên, đựng lên từ tấm lòng của thi sĩ trước mùa xuân tươi đẹp với những âm thanh rộn ràng.

Lời gọi ấy thoạt tiên nhen nhóm ở một góc trái tim, nhưng con người thân thơ và những cảnh sắc, âm thanh kia như đã hòa vào làm một, xúc cảm từ đó mà òa ra thành lời, thật ngỡ ngàng, thật thích thú.

xúc cảm của thi sĩ đã trào dâng thực sự qua nghi vấn tu từ: “Hót chi mà vang trời”. Thứ âm thanh không thể thiếu ấy làm sống dậy cả không gian cao rộng, khoáng đạt, làm sống dậy, vực dậy cả một tâm hồn con người đang phải đối mặt với những bóng đen ú ám của bệnh tật, của cái chết rình rập.

Thiên nhiên, nhất là mùa xuân vốn phóng khoáng, sẵn sàng trao tặng con người mọi vẻ đẹp nếu như con người biết mở rộng tấm lòng. Thanh Hải đã thực sự đón nhận mùa xuân với tất cả sự tài hoa của ngòi bút, sự thăng hoa của tâm hồn. thi sĩ lặng ngắm, lặng nghe bằng cả trái tim xao động, bằng trí tưởng tượng, liên tưởng độc đáo:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương óng ánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch xúc cảm của thi sĩ thì có nhẽ đây là giọt âm thanh của tiếng chim ngân vang, đọng lại thành từng giọt niềm vui, rơi xuống cõi lòng rộng mở của thi sĩ, thấm vào tâm hồn đang rộn rực tình xuân. Nhưng có nhẽ, vượt lên trên tất cả, “giọt long lanh” ấy chính là giọt tình yêu cuộc sống tới đắm say, cuồng nhiệt của tác giả Thanh Hải.

Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được vận dụng một cách tài hoa, tinh tế qua trí tưởng tượng của thi sĩ. Thành Hải cảm nhận vẻ đẹp của mùa xuân bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và cả xúc giác.

Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của thi sĩ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với xúc cảm say sưa, xốn xang, rộn rực. thi sĩ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của thế cuộc. Khổ thơ mở đầu đã mở ra một bức tranh xứ Huế thật đẹp: có hình ảnh, có màu sắc, âm thanh được họa lên từ những vần thơ có nhạc…

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ
Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao…”

Không phải ngẫu nhiên trong khổ thư lại xuất hiện hình ảnh “người cầm súng” và “người ra đồng”. Họ là những con người cụ thể, những con người làm nên lịch sử với hai nhiệm vụ cơ bản của quốc gia ta trong suốt quá trình phát triển trong khoảng thời gian dài: tranh đấu và sản xuất, bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Mùa xuân tới mang tới tiếng gọi của những quyết tâm mới và hy vọng mới, mang tới tiếng gọi của quốc gia, của quê hương đang trên đà thay đổi, phát triển. Những tiếng gọi lặng lẽ tới từ mùa xuân làm thức dậy con người, làm trái tim con người như bừng lên rạng rỡ trong không khí sôi nổi của quốc gia, của muôn cây cỏ đã đi theo người lính vào chiến trường, sát kề vai,đã cùng người lao động hăng say ngoài đồng ruộng.

Mùa xuân không những chắp thêm đôi cánh sức mạnh cho con người mà còn chuẩn bị cho con người những “lộc” non tươi mới, căng tràn sức sống. Hình ảnh “lộc giắt đầy quanh lưng” không chỉ là hình ảnh tả thực mà con mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng. Trước hết, “lộc” là nhành non chồi biếc của cỏ cây trong mùa xuân. Đối với người đội viên, “lộc” là cành lá ngụy trang che mắt quân thù trong cuộc tranh đấu bảo vệ Tổ quốc đầy cam go và khốc liệt. Mặt khác, có thể hiểu, “lộc” chính là những món quà tặng, là tấm lòng của nhân dân gửi cho người đội viên đang ngày đêm canh phòng đất trời. Hình ảnh thơ thể hiện và khẳng định sự gắn kết quân dân trong nhiệm vụ bảo vệ bầu trời hòa bình của quốc gia.

Đối với người nông dân “một nắng hai sương”, “lộc” là những mầm xuân tươi non trải dài trên ruộng đồng bát ngát, báo hiệu một mùa bội thu. “Lộc” ấy chính là niềm vui, niềm tin vào một tương lai no đủ, hạnh phúc. Trải qua một thời kì chiến tranh khốc liệt, con người cảm thấy quý trọng vô cùng nền hòa bình của dân tộc. Mỗi ngày thức dậy đều thấy phơi phới trong lòng. những mầm xanh được tự do phát triển, không còn bị đạn bom thiêu nát nữa. Đó thực sự là niềm hạnh phúc tột cùng mà chỉ có những con người vừa bước ra trong máu lửa mới có thể cảm nhận được.

Đặc biệt hơn cả, “lộc” là sức sống, là tuổi xanh, sức thanh xuân tươi mới đầy mong ước, lí tưởng, đầy những hoài bão và khát vọng cống hiến của tuổi xanh, sôi nổi trong mỗi tâm hồn con người – tâm hồn của người lính dũng cảm, kiên cường nơi lửa đạn bom rơi – tâm hồn của người nông dân chuyên cần,hăng say tăng gia sản xuất. “Lộc” chính là thành tựu ngày hôm nay và niềm tin, hy vọng ngày mai.

Từ những suy nghĩ rất thực về quốc gia, thi sĩ khái quát:

“Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao”

Bằng điệp ngữ “tất cả”, những từ láy biểu cảm “tất tả”, “xôn xao”, nhịp thơ gấp gáp, thi sĩ đã khái quát được cả một thời đại của dân tộc. “tất tả” diễn tả tiết điệu khẩn trương, tất bật của những con người Việt Nam trong giai đoạn mới, thời đại mới, trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Còn “xôn xao” lại bộc lộ tâm trạng náo nức rộn ràng.

Ý thơ khẳng định một điều: không chỉ tư nhân nào vội vã mà cả quốc gia đang tất tả, khẩn trương sản xuất và tranh đấu. Tất cả đều náo nức, rộn ràng trong mùa xuân tươi đẹp của thiên nhiên, của quốc gia.

Thanh Hải đã rất lạc quan, say mê và tin yêu khi viết nên những vần thơ này. Xúc cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên quốc gia khi bước vào mùa xuân, thi sĩ Thanh Hải đã có cái nhìn sâu sắc và tự hào về lịch sử bốn nghìn năm dân tộc:

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Với nghệ thuật nhân hóa, Tổ quốc như một người mẹ tảo tần,vất vả và gian lao, đã làm nổi trội sự trường tồn của quốc gia. Để có được sự trường tồn ấy, giang sơn gấm vóc này đã thấm bao máu, mồ hôi và cả nước mắt của những thế hệ, của những tháng năm đằng đẵng lúc hưng thịnh, lúc thăng trầm. Nhưng dù trở lực có mạnh tới đâu cũng không khuất phục được dân tộc Việt Nam:

“Sống vững chãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”.

(Huy Cận)

Đặc biệt, phép tu từ so sánh được thi sĩ sử dụng vô cùng đặc sắc, làm ý thơ súc tích –“quốc gia như vì sao/Cứ đi lên phía trước”. Sao là nguồn sáng bất diệt của thiên hà, là vẻ đẹp lung linh của bầu trời đêm, là hiện thân của sự vĩnh hằng trong vũ trụ. So sánh như thế, là tác giả đã ngợi ca quốc gia trường tồn, tráng lệ, quốc gia đang hướng về một tương lai tươi sáng. Điệp ngữ “quốc gia” được nhắc lại hai lần thể hiện sâu sắc ý thơ: trải qua những gian truân, vất vả, quốc gia vẫn toả sáng đi lên không gì có thể ngăn cản được. Ta cảm nhận được niềm tin tưởng của tác giả vào tương lai rạng ngời của dân tộc Việt Nam. Âm thanh mùa xuân quốc gia vang lên từ chính cuộc sống vất vả, gian lao mà tươi thắm tới vô ngần.

Từ những xúc cảm về mùa xuân, tác giả đã chuyển mạch thơ một cách tự nhiên sang bộc bạch những suy ngẫm và tâm niệm của mình về lẽ sống,về ý nghĩa trị giá của thế cuộc mỗi con người:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến”.

Để bộc bạch lẽ sống của mình, ngay từ những câu thơ mở đầu đoạn, Thanh Hải đã đem tới cho người đọc cái nhạc điệu ngọt ngào, êm ái của những thanh bằng liên tục “ta”-“hoa”-“ca”. Điệp từ “ta” được lặp đi lặp lại thể hiện một ước nguyện thành tâm, thiết tha. Động từ “làm”-“nhập” ở vai trò vị ngữ biểu lộ sự hoá thân tới diệu kỳ – hoá thân để sống đẹp, sống có ích.

thi sĩ đã lựa lựa chọn những hình ảnh đẹp của thiên nhiên,của cuộc sống để bộc bạch ước nguyện: con chim, một cành hoa, một nốt trầm. Còn gì đẹp hơn khi làm một cành hoa đem sắc hương tô điểm cho mùa xuân đất mẹ! Còn gì vui hơn khi được làm con chim nhỏ đựng tiếng hót rộn ràng làm vui cho đời!

những hình ảnh bông hoa, tiếng chim đã xuất hiện trong xúc cảm của thi nhân về mùa xuân thiên nhiên tươi đẹp, giờ lại được sử dụng để thể hiện lẽ sống của mình. Một ý nghĩa mới đã mở ra, đó là mong muốn được sống có ích, sống làm đẹp cho đời là lẽ thường tình. Cái “tôi” của thi nhân trong phần đầu bài thơ giờ chuyển hoá thành cái “ta”. Có cả cái riêng và chung trong cái “ta” ấy. Với cách sử dụng đại từ này, thi sĩ đã khẳng định giữa tư nhân và cộng đồng, giữa cái riêng và cái chung.

Hình ảnh “nốt trầm” và lặp lại số từ “một” tác giả cho thấy ước muốn tha thiết, thành tâm của mình. Không ồn ào, cao giọng, thi sĩ chỉ muốn làm “một nốt trầm” nhưng phải là “một nốt trầm xao xuyến” để góp vào bản hoà ca chung. tức là thi sĩ muốn đem phần nhỏ bé của riêng mình để góp vào công cuộc đổi mới và đi lên của quốc gia. Đọc đoạn thơ, ta xúc động trước ước nguyện của thi sĩ xứ Huế và cũng là ước nguyện của nhiều người.

Lẽ sống của Thanh Hải còn được thể hiện trong những vần thơ sâu lắng:

“Một mùa xuân nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.”

Cách sử dụng ngôn từ của thi sĩ Thanh Hải rất chuẩn xác,tinh tế và gợi cảm. Làm cành hoa,làm con chim,làm nốt trầm và làm một mùa xuân nho nhỏ để lặng lẽ hiến dâng cho thế cuộc. “Mùa xuân nho nhỏ” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, biểu lộ một thế cuộc đáng yêu, một khát vọng sống cao đẹp.Mỗi người hãy làm một mùa xuân,hãy đem tất cả những gì tốt đẹp, tinh tuý của mình, dẫu có nhỏ bé để góp vào làm đẹp cho mùa xuân quốc gia.

Cặp từ láy “nho nhỏ”, “lặng lẽ” cho thấy một thái độ thành tâm, khiêm nhượng, lấy tình thương làm chuẩn mực cho lẽ sống đẹp, sống để cống hiến đem tài năng phục vụ quốc gia, phục vụ nhân dân. Không khoe khoang, cao điệu mà chỉ lặng lẽ thầm lặng hiến dâng.Ý thơ thể hiện một ước nguyện, một khát vọng, một mục đích sống. Biết lặng lẽ dâng đời,biết sống vì mọi người cũng là cách sống mà thi sĩ Tố Hữu đã viết:

“nếu như là con chim chiếc lá
Thì con chim phải hót, chiếc lá phải xanh,
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình”.

Còn bây giờ, Thanh Hải – thi sĩ xứ Huế trước khi về với toàn cầu “người hiền” cũng đã ước nguyện: “Lặng lẽ dâng cho đời/Dù là tuổi hai mươi/Dù là khi tóc bạc”.Lời ước nguyện thật thuỷ chung, son sắt. Sử dụng điệp ngữ “dù là” nhắc lại hai lần như tiếng lòng tự dặn mình đinh ninh: dẫu có ở giai đoạn nào của thế cuộc, tuổi hai mươi tràn đầy sức trẻ, hay khi đã già,bệnh tật thì vẫn phải sống có ích cho đời, sống làm đẹp cho quốc gia.

Đây là một vấn đề nhân sinh quan nhưng đã được chuyển tải bằng những hình ảnh thơ sáng đẹp, bằng giọng thơ nhẹ nhõm, thủ thỉ, thiết tha. Vì vậy, mà sức lan tỏa của nó thật lớn.

Bài thơ được viết trước khi thi sĩ đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng không hề gợi chút băn khoăn về bệnh tật, về những suy nghĩ riêng tư cho bản thân. Chỉ “lặng lẽ”mà cháy bỏng một nỗi khát khao được dâng những gì đẹp đẽ nhất của thế cuộc mình cho quốc gia. Đây không phải là câu khẩu hiệu của một thanh niên vào đời mà là lời tâm niệm của một con người đã từng trải qua hai cuộc chiến tranh, đã cống hiến trọn vẹn thế cuộc và sự nghiệp của mình cho cách mệnh. Điều đó càng làm tăng thêm trị giá tư tưởng của bài thơ.

Bài thơ kết thúc bằng sự trở về với những xúc cảm thiết tha, tự hào về quê hương, quốc gia qua điệu dân ca xứ Huế.

“Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế”.

Tác giả có nhắc tới những khúc dân ca xứ Huế “Nam ai”, “Nam bình”, có nhạc điệu buồn thương nhưng vô cùng tha thiết. Và qua những khúc “Nam ai”, “nam bình” này thì thi sĩ đã bộc lộ tình yêu tha thiết của mình đối với quê hương, quốc gia; thể hiện niềm tin yêu vào thế cuộc, vào quốc gia với những trị giá truyền thống vững bền.

Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, sắp với những làn điệu dân ca, giàu nhạc điệu, với âm hưởng nhẹ nhõm, tha thiết. Cách sử dụng những phép tu từ đặc sắc: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ, điệp ngữ, điệp cấu trúc,.. hết sức khéo léo và hiệu quả. phối hợp những hình ảnh tự nhiên, giản dị, từ thiên nhiên với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, khái quát. Cấu tứ chặt chẽ, sự phát triển tự nhiên của hình ảnh mùa xuân với những phép tu từ đặc sắc.

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” là tiếng lòng tha thiết yêu mến và gắn bó với quốc gia, với thế cuộc; thể hiện ước nguyện thành tâm của thi sĩ được cống hiến cho quốc gia; góp một “mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 16

Ta đã từng biết tới một “Mùa xuân xanh” của Nguyễn Bính, một “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử thì tới văn học hiện đại Việt Nam sau 1975, bằng một tiếng lòng thiết tha, thành tâm Thanh Hải đã viết nên “Mùa xuân nho nhỏ” để góp một tiếng thơ riêng cho mùa xuân của quốc gia. Đặc biệt bài thơ được viết khi tác giả đang chống chọi với những cơn đau của bệnh tật hiểm nghèo, vì vậy tác phẩm còn thực sự là một bản di chúc thiêng liêng mà Thanh Hải gửi tặng thế cuộc trước lúc đi xa.

Mạch trữ tình của bài thơ được bắt nguồn từ những xúc cảm hồn nhiên, trong trẻo của Hoài Thanh trước mùa xuân của thiên nhiên, của đất trời:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời”

Chỉ bằng những nét vẽ phác họa đơn sơ và đặc sắc, tác giả đã làm sống dậy trước mắt ta một bức tranh mùa xuân tươi đẹp mặn mà phong vị của xứ Huế thơ mộng. Bức tranh được mở ra với hình ảnh dòng sông xanh phẳng lặng hiền hòa. Đây là cái nền để thi sĩ điểm vào đó hình ảnh của “một bông hoa tím biếc”. Thanh Hải chỉ viết về một bông hoa nhưng không gợi cảm giác lẻ loi đơn độc vì động từ “mọc” đặt ngay ở đầu bài thơ gợi sức vươn lên mạnh mẽ. khỏe khoắn của thiên nhiên cảnh vật. Bức tranh ấy còn rộn ràng bởi âm thanh tiếng chim. Nghệ thuật nhân hóa phối hợp với nghi vấn tu từ và tiếng nói mang đậm sắc thái của người dân xứ Huế trong câu thơ đã thể hiện dòng xúc cảm ngỡ ngàng, đắm say của thi sĩ trước âm thanh tiếng chim vang vọng cả đất trời. Nhưng có nhẽ độc đáo nhất là hình ảnh “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Đặt trong mối tương quan với những dòng thơ trên thì “giọt long lanh” ở đây có thể hiểu là giọt âm thanh của tiếng chim. Những âm thanh ấy trong trẻo, tròn đầy, vang vọng giữa đất trời tràn ngập ánh sáng của mùa xuân. Âm thanh ấy không tan biến đi mà kết đọng thành từng giọt hữu hình long lanh ánh sáng và sắc màu, từ trời xanh rơi xuống. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiến cho người đọc hình dung thi sĩ như căng mở mọi giác quan của mình, không chỉ đơn thuần là thính giác mà cả thị giác và xúc giác để cảm nhận cuộc sống và trân trọng hứng lấy từng giọt mật của thế cuộc. Đặt trong hoàn cảnh ra đời của bài thơ, ta càng thêm thấu hiểu tình yêu sự sống mãnh liệt và ý thức lạc quan của tác giả đã giúp vượt lên mọi đớn đau bệnh tật.

Từ mùa xuân của thiên nhiên, đất trời thi sĩ lại hướng lòng mình về mùa xuân của quốc gia, dân tộc. quốc gia được hiện lên qua mùa xuân của “người cầm súng” và “người ra đồng”. Đây là hai hình ảnh tượng trưng cho nhiệm vụ tranh đấu và lao động dựng xây tổ quốc. Cách diễn đạt độc đáo phối hợp cùng với điệp từ, điệp cấu trúc câu đã mở ra những liên tưởng đẹp đẽ trong lòng người đọc. Mùa xuân của đất trời như đang đồng hành cùng con người trong công cuộc dựng dây và bảo vệ quốc gia. Chính vậy mà tác giả cảm nhận được tiết điệu của sự sống đang lan tỏa trong từng công việc: “Tất cả như tất tả/ Tất cả như xôn xao”. Điệp ngữ “tất cả như” cùng thủ pháp so sánh khiến nhịp thơ nhanh như khắc họa nên cái tiết điệu lao động đầy sôi nổi, hăng say cùng khí thế náo nức, khẩn trương của cả dân tộc.

Sau những dòng thơ đầy xúc cảm, thi sĩ lại lắng vào những suy tư khi nghĩ về chiều dài lịch sử của dân tộc:

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Chỉ trong bốn dòng thơ ngắn gọn nhưng thi sĩ đã tổng kết lịch sử bốn nghìn năm của quốc gia với hai từ “vất vả” và “gian lao”. Hình ảnh so sánh “quốc gia như vì sao” cùng từ “cứ” đã thể hiện cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng của tác giả về sự tiến lên vững vàng, mạnh mẽ của quốc gia dù cho hoàn cảnh lúc bấy giờ còn nhiều gian lao, thử thách.

Trước mùa xuân của quốc gia, của dân tộc thi sĩ cũng thấy lòng mình trào dâng sức sống của mùa xuân với bao ước vọng cao đẹp. thi sĩ ước nguyện làm “con chim” đựng cao tiếng hót góp vào bản hòa ca của dân tộc những âm thanh trong trẻo; lại muốn làm một “cành hoa” trong hương sắc của muôn hoa; lại muốn làm một “nốt trầm” xao xuyến trong bản hòa tấu muôn điệu và một “mùa xuân nho nhỏ” để góp phần làm nên mùa xuân dân tộc lớn lao. Đây đều là những ước nguyện bình dị nhưng lại xiết bao ý nghĩa. nếu như ở khổ đầu thi sĩ xưng “tôi” để thể hiện những cảm nhận mang màu sắc tư nhân về thiên nhiên đất trời nhưng tới đây thi sĩ lại xưng là “ta” như thay lời mọi người nói lên tâm nguyện. Điệp từ “ta” đứng đầu những dòng thơ như thể hiện sự chủ động, muốn được cống hiến cho dân tộc dù chỉ là một phần nhỏ bé. Điệp từ “dù là” trong hai câu thơ: “Dù là tuổi hai mươi/ Dù là khi tóc bạc” đã thể hiện mãnh liệt khát khao cống hiến ấy của tác giả. Bất chấp cả thời gian, tuổi tác thi sĩ sẽ mãi lặng thầm và dẻo dai một lẽ sống cống hiến. Và đó cũng là tâm niệm thành tâm mà tác giả muốn gửi gắm những thế hệ độc giả: đã sống thì phải biết cống hiến, phải biết đem cái tôi riêng của mình hòa vào cái ta chung rộng lớn thì thế cuộc mới có ý nghĩa.

Bài thơ khép lại bằng tiếng ca đầy tin yêu dành cho thế cuộc. Âm điệu của những khúc Nam Ai, Nam Bình tha thiết hòa cùng nhịp phát triển rộn ràng đã tạo nên một khúc ca vui tươi mà lắng đọng tác giả dành cho thế cuộc. Bài thơ kết thúc trong những khúc ca rổn rã tin yêu ấy khiến cho lòng người đọc cũng dạt dào những cảm hứng về tình yêu quê hương, quốc gia.

“Thơ là tiếng lòng” và “Mùa xuân nho nhỏ” chính là “tiếng lòng” đầy thiết tha thành tâm của Thanh Hải trước thiên nhiên quốc gia. lắng tai tiếng lòng ấy, người đọc càng thêm trân trọng tình yêu sâu sắc dành cho quốc gia, quê hương cũng như ngưỡng mộ trước ý thức lạc quan, yêu đời yêu sống mãnh liệt vượt lên trên tất cả của thi sĩ.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 17

Tình yêu thiên nhiên, yêu quốc gia, con người luôn là một niềm cảm hứng vô tận trong thơ ca. Thế nhưng, những tình cảm yêu mến đó được xuất phát trong hoàn cảnh nào mới là điều mà độc giả đặc biệt chú ý. Có thi sĩ thể hiện trong những bài thơ ca về chiến tranh, có thi sĩ lại viết về nó trong thời bình. Còn Thanh Hải, ông đã viết bài thơ Mùa xuân nho nhỏ vào tháng 11 năm 1980, khi đang nằm trên giường bệnh, một tháng trước khi qua đời. Bài thơ thể hiện tình cảm yêu mến, thiết tha của Thanh Hải đối với vẻ đẹp của quốc gia khi vào xuân, ước muốn hiến dâng trọn vẹn thế cuộc của mình cho quê hương, quốc gia.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh bức tranh thiên nhiên xứ Huế mộng mơ:

“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc”

thi sĩ đã gợi tả ra trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên thơ mộng với hình ảnh bông hoa tím. Giữa một dòng sông êm đềm, xuất hiện một bông hoa màu tím mang vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng. Động từ “mọc” được đảo lên đầu câu tạo sự ngạc nhiên, thích thú khi thi sĩ biết rằng đất trời đang vào xuân. Sự phối hợp giữa hai màu sắc: tím, xanh làm hiện lên một bức tranh thật đẹp và hài hòa. Trên nền bức tranh tĩnh động ấy là sự vận động của sự vật và con người:

“Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”

Ở đây, ta có thể thấy hình ảnh bức tranh thiên nhiên được mở ra một cách rõ nét hơn, từ chiều dài của dòng sông tới chiều cao của bầu trời. Tiếng hót của chim chiền chiện vang lên cả một vùng trời, như lan tỏa tới con người sức sống mãnh liệt của tự nhiên. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “Tôi đưa tay tôi hứng” cho thấy cái nét đặc sắc, nét độc đáo trong thơ của Thanh Hải. Âm thanh vốn là thứ chỉ nghe được, không nhìn thấy và nắm bắt được. Vậy mà nó lại hóa thành từng giọt long lanh, thi sĩ có thể hứng trọn những âm thanh ấy trong lòng bàn tay của mình. Động từ “hứng” cho thấy sự trân trọng, nâng niu của tác giả đối với những âm thanh của thế cuộc. Đó hẳn là thứ âm thanh tươi vui, rộn ràng nhất khi xuân về.

Khép lại khổ thơ đầu với cảm nhận của tác giả khi mùa xuân tới, ta thấy ở khổ thơ thứ hai, mùa xuân hiện ra rõ nét hơn qua hình ảnh người lao động:

“Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ”

Hình ảnh mùa xuân được tác giả lồng ghép trong công cuộc sản xuất và tranh đấu của dân tộc ta. Cả quốc gia với hai nhiệm vụ chính là tranh đấu và sản xuất. Người lính khoác trên vai màu áo xanh, cũng đồng thời khoác lên mình màu xanh của mùa xuân, khoác lên mình sức sống mạnh mẽ của mùa xuân để bảo vệ Tổ quốc. Còn đối với người nông dân, nơi làm việc của họ là ở ruộng đồng, họ đã cống hiến toàn bộ sức lực và sự siêng năng của mình để làm nên mùa xuân tươi đẹp cho quốc gia. Ở nơi đó có đồng lúa chín vàng, có những cành lá đâm trồi nảy lộc. Lộc non, chồi biếc là sự tươi tốt, tràn trề sức sống của mùa xuân. Cả quốc gia đang tích cực làm việc trong khí thế khẩn trương nhất:

“Tất cả như tất tả
Tất cả như xôn xao”

Điệp từ “tất cả”, cùng với những từ láy “tất tả”, “xôn xao” cho thấy toàn bộ người dân Việt Nam đang chung sức xây dựng một nền kinh tế, sản xuất mới để quốc gia đi lên và phát triển. Dải đất hình chữ S của chúng ta đã từng có một quá khứ hào hùng trước khi có hiện tại:

“quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước”

Bốn nghìn năm là quãng thời gian tồn tại của quốc gia. Đó là một quãng thời gian rất dài với bao thế hệ đã đi qua. thi sĩ thể hiện lòng hàm ân của mình với những thế hệ đi trước, những người đã vất vả, nỗ lực, đổ mồ hôi và xương máu để quốc gia có được như ngày ngày hôm nay. Trong những gian lao, quốc gia vẫn cứ đi lên “quốc gia như vì sao”. Đây là một hình ảnh so sánh tuyệt đẹp, một vì sao sáng chói trên bầu trời gợi tả một quốc gia Việt Nam đẹp đẽ, giàu mạnh với khí thế hào hùng. Dân tộc ta sẽ viết tiếp trang sử vàng chói lọi ấy.

Trong những năm tháng cuối đời phải nằm trên giường bệnh, thi sĩ Thanh Hải muốn được hóa thân để cống hiến cho quốc gia:

“Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hòa ca
Một nốt trầm xao xuyến”

Điệp từ “Ta làm” thể hiện thèm khát cháy bỏng, ước muốn mãnh liệt của thi sĩ Thanh Hải muốn được cống hiến cho thế cuộc. thi sĩ nguyện hóa thân thành con chim, để được đựng tiếng hát yêu đời mỗi buổi sớm mai khi quốc gia tỉnh dậy. thi sĩ muốn làm một cành hoa tỏa hương thơm ngát cho thế cuộc, để vẻ đẹp của nó khiến cho người ta say mê. Và cuối cùng, thi sĩ muốn hòa vào bài ca của dân tộc, nhưng Thanh Hải chỉ nguyện làm “Một nốt trầm” trong biết bao những nốt cao đẹp đẽ của thế cuộc. Ước muốn khiêm nhượng của thi sĩ được thể hiện ở chỗ ông chỉ muốn cống hiến cho quốc gia trong thầm lặng, là một nốt trầm nhỏ bé nhưng cũng đủ làm xao xuyến, lay động lòng người.

Và Thanh Hải muốn cống hiến cho quốc gia bất cứ khi nào ông còn có thể:

“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc”

thi sĩ tự nghĩ rằng thế cuộc của ông chỉ là một “Mùa xuân nho nhỏ” trong mùa xuân lớn của dân tộc, để ông được cống hiến trong thầm lặng, lặng lẽ. Điệp từ “dù là” cho thấy ý thức lạc quan, khí thế hào hùng, quật cường của thi sĩ. Dù là trong hoàn cảnh nào, ông cũng nguyện vì quốc gia mà cống hiến hết mình.

Toàn bộ bài thơ là mong muốn mãnh liệt cùng khát khao cháy bỏng của Thanh Hải dành cho thế cuộc. Đọc từng khổ thơ, ta mới thấy thêm yêu cuộc sống, thêm hàm ân những con người thầm lặng hy sinh vì quốc gia như thi sĩ. Mỗi chúng ta cần phải biết trân trọng cuộc sống, biết sắp xếp quỹ thời gian của mình để sống một thế cuộc thật ý nghĩa và hạnh phúc. Đó chính là thông điệp mà thi sĩ Thanh Hải muốn gửi gắm tới độc giả qua bài thơ.

Phân tích bài thơ Mùa xuân nho nhỏ – Mẫu 18

Mùa xuân nho nhỏ là tiếng lòng của tác giả Thanh Hải luôn mong muốn thiết tha được gắn bó và cống hiến một lòng, một dạ cho quốc gia. Được góp một tẹo sức lực, “một mùa xuân nho nhỏ” của mình vào mùa xuân lớn của dân tộc. Tuy ước nguyện của tác giả vô cùng giản dị nhưng lại vô cùng cao cả, thiêng liêng và đẹp tựa như mùa xuân dân tộc.

Bài thơ theo thể năm tiếng, sắp gũi và có rất nhiều hình ảnh so sánh giản dị, gợi hình gợi cảm cao. Nhờ đó người đọc cũng dễ hiểu, dễ cảm nhận và thường thức bài thơ.

Xuân tụ họp của những điều đẹp nhất, sự sống đâm chồi, nảy lộc vào mỗi sớm mai khi rạng đông lên. Tiếng chim ca làm tổ, những câu hát quan họ dịu dàng vang lên giữa bầu trời trong xanh,….

Xuân có nhẽ là khoảng thời gian đẹp nhất trong bốn mùa khi chứng kiến những sự sống mới khởi đầu và đó cũng là cảm hứng tuyệt vời trong những bài thơ. Ta có mùa xuân chín – Hàn Mặc Tử, một khúc ca xuân – Tố Hữu,… nhưng đối với Thanh Hải – là mùa xuân nho nhỏ sắp gũi và tràn đầy thân yêu.

Mở đầu với bức tranh thiên nhiên của mùa xuân, âm thanh thân thuộc, giản dị từ đồng quê đã được tác giả vẽ nên một cách có lựa chọn lọc và gợi hình, gợi cảm. xúc cảm của tác giả về mùa xuân nhịn nhường như có sự tươi mới, không gian nhịn nhường như rộng lớn hơn.

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Từ đoạn thơ trên, ta có thể hình dung một bông hóa tím tím biếc dân dã đang soi mình dưới bóng nước xanh. Tiếng chim chiền chiện vang lên giữa bầu trời rộng lớn báo hiệu tin vui sắp tới. Một cuộc sống no đủ, hạnh phúc cho muôn người đang dần dần hiện ra trước mắt.

Thán từ “ơi” mà tác giả bật lên đã thể hiện niềm vui khôn xiết trước đất trời mùa xuân. Hai tiếng “hót chi” là giọng nói thân thuộc của người dân xứ Huế, tác giả đã đưa hai tiếng này vào để thể hiện xúc cảm thiết tha, thân yêu giữa người và vật trong cuộc sống.

Nhìn ngắm dòng sông, bông hoa, tiếng chim hót ngây ngất, nhà thờ xúc động:

Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng

Tiếng chim chiền chiện được tác giả thấy như từng giọt long lanh rơi trên bầu trời xuân kia. Từ cảm nhận của người đọc, chúng ta cũng có thể thấy tâm hồn thi sĩ, lòng yêu mến cuộc sống của nhà văn Thanh Hải dành cho thế cuộc tươi đẹp.

“Tôi đưa tay tôi hứng” là một cử chỉ trân trọng và đón nhận những điều tốt đẹp. Nhờ đó, nhà văn đã vẽ nên một bức tranh xuân tươi đẹp và sống động vô cùng – một vẻ đẹp khi vào xuân của quốc gia.

Từ cảm nhận về mùa xuân của đất trời, thiên nhiên tới mùa xuân của quốc gia là sự chuyển nhịp rất hợp lý. Vì mùa xuân là mùa lộc của tất cả mọi người.

Mùa xuân người cầm súng
Lộc giắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ

Từ “Lộc” ở câu thơ “Lộc giắt đầy trên lưng” mang ý tức là sức mạnh dân tộc mà người đội viên đang mang trên mình. “Lộc” trong “lộc trải dài nương mạ” là sự tất tả, tấp nập chuẩn bị cho một mùa màng mới của người dân. đội viên và nông dân là hai lực lượng chính trong dựng xây Tổ quốc và bảo vệ dân tộc.

Câu thơ mang một ý nghĩa sâu sắc rằng người ra trận thì phải đổ máu, người ra đồng thì phải đổ mồ hôi nước mắt mới có thể giữ lấy tự do, bình yên và no đủ cho dân tộc.

quốc gia bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
quốc gia như vì sao
Cứ đi lên phía trước.

Trong bốn nghìn năm dựng và giữ nước, ông cha ta đã đổ không biết bao nhiêu xương máu, mồ hôi mới có được. Với tâm thế là một người đọc, khi phân tích bài thơ mùa xuân nho nhỏ, chúng tôi vô cùng thấu hiểu cảm nhận và được niềm tự hào mãnh liệt mà tác giả Thanh Hải dành cho quốc gia.

quốc gia vượt qua mọi khó khăn, vươn lên về phía trước. Từ “cứ” thể hiện một chân lý thiêng liêng là dù khó khăn thế nào thì quốc gia cũng sẽ mạnh mẽ gồng gánh. Đoạn thơ đã thể hiện lòng tự hào, tin yêu và lạc quan vào quốc gia, dân tộc của tác giả.

Khi phân tích bài mùa xuân nho nhỏ, có nhẽ người đọc sẽ ấn tượng nhất với đoạn thơ thể hiện ước nguyện thành tâm của bản thân với quốc gia:

Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào họa ca
Một nốt trầm xao xuyến

Làm “con chim hót” để gọi xuân về, để mang tiếng hót yên vui cho mọi người, mọi nhà. Làm “một cành hoa” để tô điểm cho sắc đẹp núi sông, làm “một nốt nhạc trầm xao xuyến” để góp vui, khích lệ mọi người.

Chữ “tôi” đã được thay thế bằng chữ “ta” đầy sảng khoái đã thể hiện tư thế tự do, khí thế ngất trời và cùng hòa mình vào cuộc sống, vào mùa xuân đang tới trên mọi nẻo đường.

Mỗi người chỉ cần cống hiến “một mùa xuân nho nhỏ” của mình là đã góp phần tạo nên cả một mùa xuân dân tộc trọn vẹn.

Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dà là khi tóc bạc

Dù chúng ta ở tuổi nào thì cũng đều có thể cống hiến cho quốc gia theo nhiều cách khác nhau. Từ “nho nhỏ” và “lặng lẽ” thể hiện cách nói khiêm tốn và thành tâm của tác giả khi cống hiến cho quốc gia. Khổ thơ cuối là tiếng hát yêu thương của tác giả:

Mùa xuân – ta xin hát
Câu Nam ai, Nam bình
Nước non nghìn dặm mình
Nước non nghìn dặm tình
Nhịp phách tiền đất Huế

“Câu Nam ai, Nam Bình” là hai nhạc điệu vô cùng nổi tiếng và đặc trưng của xứ Huế từ xa xưa tới nay. Câu hát ấy đi mãi cùng trái tim một người con dù ở giây phút cuối của thế cuộc vẫn muốn cống hiến hết mình cho quốc gia, cho quê hương.